Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SẢN XUẤT GIỐNG CÁ BIỂN CHẤT LƯỢNG CAO BẰNG MƯƠNG NỔI ĐẶT TRONG AO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.11 KB, 11 trang )


1
SẢN XUẤT GIỐNG CÁ BIỂN CHẤT LƯỢNG CAO BẰNG
MƯƠNG NỔI ĐẶT TRONG AO
Hoàng Tùng
1*
, Michael Burke
2
& Huỳnh Kim Khánh
3

1
Khoa Công nghệ Sinh học, Trường Đai học Quốc tế, Việt Nam. Email:
2
Queensland Department of Primary Industries & Fisheries, Australia
3
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam


MỞ ĐẦU
Nghề nuôi cá biển của Việt Nam phát triển mạnh trong những năm gần đây, đòi hỏi
một số lượng lớn cá giống có chất lượng cao. Để đáp ứng yêu cầu này, công nghệ sản
xuất con giống nhân tạo các đối tượng nuôi phổ biến như cá Chẽm (Lates calcarifer), cá
Mú (Epinephelus spp.) và cá Giò (Rachycentron canadum) đã được tập trung nghiên cứu
và đầu tư phát triển. Các trại sản xuất giống cá biển trong nước đã sản xuất được một
lượng đáng kể con giống. Tuy nhiên kích thước giống thường quá nhỏ để có thể thả nuôi
ngay trong lồng hoặc ao nuôi thương phẩm. Cá giống có thể được tiếp tục ương trong bể
lên cỡ lớn hơn nhưng phương pháp này rất tốn kém và đòi hỏi diện tích ương lớn. Trong
khi đó, cá giống cỡ nhỏ ương tiếp hoặc nuôi thương phẩm trong ao đất thường có tỉ lệ
sống thấp và khó chăm sóc quản lý. Để khắc phục những khó khăn này Dự án CARD
VIE062/04 đã lựa chọn giải pháp sử dụng mương nổi đặt trong ao và xây dựng thành


công qui trình nuôi thương phẩm bằng mương nổi tại Australia và ương giống cỡ lớn một
số loài cá biển tại Việt Nam.






Hình 1: Nguyên lý hoạt động c
ủa mương nổi đặt trong ao
Ống nâng
nước
Lưới chắn
Tấm chắn
N
ước vào
Nước tràn ra
Chất thải lắn
g
t



2
Mương nổi với nhiều thiết kế khác nhau đã được thử nghiệm thành công để nuôi cá
nước ngọt ở Hoa Kỳ (Masser & Lazur 1997), Đức (Gottschalk et al. 2005) và Úc (Burke
et al. 2007). Về cơ bản, mương nổi giống như một cái bể dài và hẹp, có thể tự nổi hoặc
nổi nhờ dàn bè nâng đỡ. Toàn bộ hệ thống được đặt trong một ao chứa hoặc ở các vùng
nước kín sóng gió. Nước được luân chuyển liên tục qua mương nhờ hệ thống ống nâng
nước dạng air-lift. Hệ thống này còn giúp làm giàu oxy hòa tan trong nước. Nhờ mức độ

trao đổi nước lớn mật độ của cá nuôi trong mương có thể đạt cỡ 70 kg/m
3
. Nhờ mật độ
cao trên một diện tích nhỏ hẹp này mà việc quan sát cá nuôi, cho ăn và chăm sóc quản lý
(ví dụ như kiểm tra tình trạng sức khỏe, lọc phân cỡ, thu hoạch, v.v.) đều có thể được
thực hiện một các thuận tiện với hiệu quả cao, tiết kiệm đáng kể nhân công. Sử dụng
mương nổi đặt trong ao để ương cá giống còn có thể giúp tận dụng nguồn thức ăn tự
nhiên sẵn có trong ao.
Trong báo cáo này chúng tôi trình bày vắn tắt thiết kế của mương nổi SMART (viết
tắt từ cụm từ Công nghệ Nuôi biển Bền vững - Sustainable Mariculture Technology)và
qui trình ương do Dự án CARD VIE062/04 “Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng
mương nổi” xây dựng. Các kết quả nghiên cứu thu được từ thử nghiệm ở qui mô nhỏ và
sản xuất sẽ được kết hợp trình bày để minh họa cho hệ thống.
2. THIẾT KẾ HỆ THỐNG ƯƠNG
Hệ thống ương được thiết kế để có thể sản xuất được một số lượng lớn cá giống có
kích thước lớn của các đối tượng nuôi phổ biến như cá Chẽm, cá Mú và cá Giò. Hệ thống
này bao gồm các mương nổi, thiết bị phụ trợ và một ao chứa. Kích thước của ao chứa tùy
thuộc vào lượng cá ương và có thể ước lượng b
ằng cách lấy tổng số cá ương chia cho 3
lần mật độ ương bình thường trong ao đất.
2.1 Ao chứa
Mô hình ương chuẩn gồm một ao chứa có diện tích khoảng 2000-m
2
(Hình 2). Bờ ao
có thể lót bạt nhựa. Mức nước trong ao nên được duy trì ở khoảng 1,7 – 2,0 m. Tuy
nhiên, các ao có độ sâu thấp cỡ 1,2 m vẫn có thể sử dụng được. Dùng bạt nhựa chắn dọc
theo trục giữa ao để tạo dòng chảy vòng trong ao. Sử dụng một máy quạt nước công suất
2 mã lực để giúp luận chuyển nước trong ao chứa.



3
2.2 Mương nổi
Tùy thuộc vào qui mô sản xuất có thể sử dụng mương nổi phiên bản SMART-1 hoặc
SMART-2. Cả hai phiên bản đều được làm bằng vật liệu composite. SMART-2 có thể
tích hoạt động là 6 m
3
, lớn gấp 2 lần so với SMART-1 (3 m
3
). Vật liệu composite được
lựa chọn để làm mương nổi ở Việt Nam nhờ giá thành không quá cao, bền trong mọi điều
kiện thời tiết và rất dễ vệ sinh hay di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác.


Hình 2: Ao chứa và bố trí mương nổi trong ao
2.2.1 Mương nổi phiên bản SMART-1
SMART-1 là phiên bản đầu tiên do Dự án CARD VIE062/04 thiết kế và chế tạo để
tận dụng các ao nuôi tôm bỏ hoang vùng ven biển ương giống cá biển. Chi tiết về thiết kế
đã được công bố trong các tài liệu của Hoàng Tùng et al. (2007) và Lưu Thế Phương
(2006). Mỗi mương có thể tích hoạt động khoảng 3 m
3
(Hình 3). Một đầu của mương
được trang bị hệ thống ống nâng nước dạng airlift. Hệ thống này bơm nước liên tục vào
mương với lưu lượng khoảng 350 L/phút. Ngay sau hệ thống ống nâng nước 20 cm có
gắn một tấm chắn tạo dòng, hướng dòng nước xuống dưới, quét đều trên mặt đáy của
mương. Nhờ vậy mà chất thải của cá và thức ăn thừa sẽ được dồn tụ về phía cuối mương.
Vùng nước phía sau tấm chắn yên tĩnh, thích hợp làm địa điểm cho cá ăn. Toàn bộ mặt
mương được che đậy bằng các tấm chắn làm từ nẹp gỗ và lưới lan, giữ cho cá không
nhảy ra khỏi mương vào ao và địch hại không thể xâm nhập được vào từ bên ngoài. Ở
phía cửa thoát, đặt một khung lưới chắn 2 cánh như chữ V, một cánh áp vào cửa thoát,
Xa quạt nước

Tường ngăn
ao bằng bạt
Máy nén khí
Ống
cấp khí
Cấp khí dự
phòng
Cống
thoát
Cống cấp
nước
Cầu
Các mương nổi đặt trên bè

4
một cánh đối xứng chặn không để cho cá bị dòng nước ép vào khung lưới của cửa thoát.
(Hình 3).
Hệ thống ống nâng nước gồm 4 ống PVC ∅90 được nối với nhau bằng một ống cấp
khí PVC ∅21 dạng khung chữ nhật để cân bằng áp lực khí tại các điểm thoát và cố định
vị trí cho các ống nâng (Hình 4). Trên thanh ngang phía dưới của khung này khoét các lỗ
đường kính 3 mm. Mỗi lỗ cho một ống nâng nước. Khoảng cách từ lỗ thoát khí đến mặt
nước ao là 80 cm. Nước trong mương trao đổi 100% mỗi 15 phút.



Hình 3: Mương nổi SMART-01







Hình 4: Hệ thống ống nâng nước của SMART-1

SMART-1 không tự nổi được. Vì thế cần phải làm một dàn bè bằng gỗ và thùng phuy
nhựa 200-L để nâng đỡ các mương nổi. Đường đi trên bè phải đủ rộng (cỡ 60 cm) để
Lỗ thoát khí
Lỗ thoát nước
Nước vào ống
Tấm chắn
tạo dòng
Lưới chắn
Cửa thoát
Ống nâng
nước
Cửa thoát
Đầu thoát nước (b) Đầu cấp nước (a)
Vị trí gắn ống nâng
nước cố định
(b)
ống
cấp
khí

5
công nhân có thể di chuyển và thao tác kỹ thuật một cách dễ dàng. Các mương nổi được
treo vào khung bè bằng bulon sắt Ø14, dài 45 cm. Mép trên của thành mương cao hơn
mặt nước ao khoảng 5 – 10 cm. Trong trường hợp cần giảm chi phí đầu tư, có thể chế tạo
một bộ khung đơn giản bằng gỗ rẻ tiền, cắm thẳng vào đáy ao và cao hơn mặt nước
khoảng 20. Sau đó dùng dây treo mương nổi SMART-1 vào khung này. Vì độ cao của

khung là cố định, người nuôi cần giữ cho mực nước trong ao chứa ổn định để không ảnh
hưởng đến hiệu suất bơm của hệ thống ống nâng nước.
2.2.2 Mương nổi phiên bản SMART-2
Mặc dù đạt được kết quả tốt khi thử nghiệm, mương nổi phiên bản SMART-1 đã để
lộ một số nhược điểm trong quá trình vận hành. Vì thế, phiên bản SMART-2 được thiết
kế để khắc phục các nhược điểm này và đồng thời mở rộng qui mô sản xuất (Hoàng Tùng
& Huỳnh Kim Khánh 2008). Đầu tiên, thể tích hoạt động của SMART-2 được thiết kế
gấp đôi SMART-1, cho phép người nuôi ương được nhiều cá giống hơn. Tiếp theo, dàn
bè nâng đỡ mương nổi SMART-1 rất nặng, tốn kém và không thể di chuyển được khi ao
không có nước. Mương nổi phiên bản SMART-2 được thiết kế tự nổi. Phần thân mương
được kết nối với một khung cứng làm bằng composite có bơm bọt tạo độ nổi ở bên trong.
SMART-2 cân nặng khoảng 400 kg và có thể di chuyển một cách dễ dàng, nhờ đó tính cơ
động của mương tăng lên và có thể đưa vào vận hành ngay lập tức sau khi thả xuống ao
chứa (Hình 5).


Hình 5: Mương nổi phiên bản SMART-2


6
Với phiên bản SMART-1 hệ thống ống nâng nước được gắn cố định trên thân mương.
Vì vậy, khi có nhiều người hoặc vật nặng đè lên dàn bè nâng đỡ, toàn bộ hệ thống mương
sẽ lún sâu thêm vào trong nước, làm gia tăng chiều cao cột nước từ mặt ao đến vị trí của
lỗ thoát khí. Áp lực gia tăng sẽ ảnh hưởng xấu đến lượng khí thoát ra, qua đó làm giảm
hiệu suất bơm của các ống nâng nước hoặc thậm chí làm một số ống ngừng hoạt động.
Trong phiên bản SMART-2 hệ thống ống nâng nước gồm 8 ống PVC Ø90, có thể trượt
theo trục thẳng đứng nhờ 2 rãnh làm bằng ống PVC Ø60 đặt theo thân mương. Nước
mương thay mới 100% mỗi 10 phút. Ngoài ra, khi được đặt trong các ao có độ sâu thấp,
các ống nâng nước của phiên bản SMART-1 lấy nước từ tầng đáy sẽ hút bùn dơ từ đáy ao
vào mương, làm suy giảm chất lượng nước. Để khắc phục nhược điểm này, phiên bản

SMART-2 có thêm một buồng lấy nước. Nước ao ở tầng mặt tràn vào buồng này rồi mới
được hệ thống ống nâng bơm vào lòng mương. Nhờ vậy, trong thực tế SMART-2 có thể
hoạt động trong các ao có độ sâu thấp, tương đương với chiều cao của thân mương. Cửa
thoát nước của SMART-2 cũng khác so với SMART-1 và có dạng khe hẹp 10 cm chạy
theo một góc nghiêng 30
o
từ đáy của mương lên tầng mặt. Thiết kế này tạo một lực hút
mạnh, giúp hút hết các chất thải của cá và thức ăn thừa ra khỏi mương.
2.3 Các thiết bị phụ trợ
Để vận hành mương nổi đặt trong ao cần phải có một hệ thống cung cấp khí nén. Máy
thổi khí hoặc nén khí có áp lực thấp nhưng thể tích khí nén cao là lựa chọn phù hợp nhất.
Công suất của máy nén khí phụ thuộc vào qui mô sản xuất. Một hệ thống ương gồm 6
mương nổi SMART-1 hoặc 3 mương nổi SMART-2 chỉ cần một máy nén khí công suất 3
mã lực với lượng khí nén khoảng 65 – 70 m
3
mỗi giờ (chẳng hạn như máy nén khí
ANLET BSR-40 của Nhật Bản). Người nuôi nên sử dụng luân phiên 2 máy nén khí (mỗi
máy hoạt động 12 giờ liên tục) để đảm bảo máy không hoạt động quá mức, dẫn đến bị hư
hỏng.
Do lượng khí nén lớn nên ngay tại vị trí kết nối giữa máy nén khí và ống dẫn phải có
một bầu chứa khí thể tích lớn. Nếu không, khí bị nén sẽ ép lại làm cho máy bị nóng dẫn
đến hư hỏng hoặc làm chảy ống nhựa PVC dẫn khí. Ống dẫn khí xuống ao đến từng
mương nên là ống dạng mềm có đường kính Ø60 ở phần đầu và Ø42 ở phần cuối. Trong
quá trình ương cần phải theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ thống cấp khí và đảm
bảo đường dẫn khí không bị hư hại hay rò rỉ. Nếu mất khí, cá ương trong mương có thể

7
chết rất nhanh chỉ trong vòng dưới 10 phút. Máy phát điện dự phòng cũng cần phải được
chuẩn bị sẵn sàng ở những nơi mà mạng cung cấp điện thiếu ổn định.
3. QUI TRÌNH ƯƠNG

3.1 Lắp đặt, chuẩn bị hệ thống ương
Việc cải tạo ao chứa được thực hiện theo các qui trình chuẩn áp dụng cho từng vùng
nuôi cụ thể. Các công đoạn cần thiết có thể bao gồm: loại bỏ bùn đáy, phơi khô, bón vôi
và xử lí nước khi đã cấp đầy ao. Tiếp theo lắp đặt hệ thống mương và cho vận hành xa
quạt nước để luân chuyển nước trong ao, tạo điều kiện cho tảo phát triển.
Dùng phân bón hữu cơ hoặc vô cơ để gây màu nước. Thả cá rô phi cỡ 30 g/con vào
ao với mật độ từ 0,5 – 1 con/m
2
. Các thử nghiệm cho thấy cá rô phi có thể sử dụng chất
thải từ mương ương cá và giữ cho màu nước và chất lượng nước ao ổn định. Kiểm tra các
thông số môi trường quan trọng như nhiệt độ, độ mặn, độ pH và hàm lượng oxy hòa tan
(DO) trước khi thả cá.
Nếu mương nổi được sử dụng lần đầu thì cần phải ngâm mương khoảng 2 tuần trong
nước ao và rửa nhiều lần thật sạch bằng nước ngọt và xà phòng. Với các mương đã được
sử dụng cho một đợt ương, chỉ cần phơi từ 2 – 3 ngày. Sau đó dùng vòi nước cao áp rửa
sạch xác rong rêu và hàu hà bám vào phía ngoài mương. Vệ sinh mặt trong mương bằng
nước ngọt và xà phòng.
Bảng 1: Mật độ ương và cỡ giống đề nghị
Đối tượng Cỡ cá thả (mm chiều dài thân) Mật độ thả (con/m
3
)
Cá Chẽm 15 – 25 3,000 – 6,000
Cá Mú Malaba 30 – 50 2,000 – 3,000
Cá Giò 50 – 80 1,000 – 2,000

3.2 Chất lượng cá giống và thả giống
Hệ thống ương bằng mương nổi SMART có thể được sử dụng cho nhiều đối tượng
nuôi khác nhau như cá Chẽm, cá Mú, cá Giò, cá Hồng bạc, cá Hồng Mỹ và rô phi. Với
bất cứ đối tượng nào thì chất lượng cá giống cũng phải được đặt lên hàng đầu. Chúng
phải khỏe mạnh, không mang mầm bệnh, bơi lội tích cực và không có những biểu hiện


8
bất thường. Với các đối tượng ăn thịt cá giống phải đồng đều về kích thước, nếu không tỉ
lệ hao hụt do cá ăn thịt lẫn nhau trong quá trình ương sẽ cao. Cỡ giống thả và mật độ thay
đổi tùy theo loài và được khuyến nghị trong Bảng 1. Mật độ tối đa tại thời điểm chuẩn bị
thu hoạch nên nằm trong khoảng 50 – 75 kg/m
3
.
3.3 Cho ăn
Mặc dù cá tạp xay hoặc chặt nhỏ thường giúp cá biển ương có tốc độ tăng trưởng
nhanh ở nhiều cơ sở ương giống, thức ăn công nghiệp nên được sử dụng để thuận tiện
trong quản lý và phòng ngừa lây lan bệnh dịch. Dự án CARD VIE062/04 đã xây dựng
được một chế độ cho ăn đảm bảo tốc độ tăng trưởng tốt của cá và chi phí thức ăn ở mức
thấp.
Thức ăn viên dành cho cá biển của INVE (cỡ hạt 800÷1200 µm; 56% protein thô)
được sử dụng trong 2 tuần đầu tiên của vụ ương. Từ tuần thứ 2 trở đi tập cho cá ăn kèm
thêm thức ăn viên dành cho tôm biển (ví dụ như thức ăn cỡ 1 hoặc 2 của công ty Grobest
UniPresident). Việc cho ăn kết hợp sẽ giúp giảm giá thành sản xuất vì một kg thức ăn của
INVE đắt gấp 6 lần so với một kg thức ăn tôm. Thức ăn dành cho cá biển thường phải có
hàm lượng lipid cao để đảm bảo sự phát triển của cá. Nhu cầu này có thể được đảm bảo
một cách dễ dàng bằng cách trộn thức ăn tôm với dầu mực (tỉ lệ khoảng 5 – 10 mL/kg)
nửa giờ trước khi cho ăn. Thời gian tập cho cá ăn thức ăn tôm kéo dài khoảng 1 tuần. Từ
tuần thứ 3 trở đi có thể cho cá ăn hoàn toàn bằng thức ăn tôm trộn với dầu mực.
Cho cá ăn 6 lần/ngày từ 06:00 đến 18:00. Khẩu phần ăn hàng ngày dao động từ 10 –
18% tổng sinh khối và có thể gia giảm theo nhu cầu thực tế. Trong trường hợp sử dụng
máy cho ăn tự động thì người chăm sóc cá cũng cần phải dành thời gian để quan sát hoạt
động của cá trong quá trình cho ăn. Vị
trí cho cá ăn là khoảng ngay sau tấm chắn tạo
dòng. Cá Giò bắt mồi tích cực trên bề mặt. Trong khi đó cá Chẽm và cá Mú ăn ở độ sâu
khoảng 20 – 30 cm dưới mặt nước. Cá giống có kích thước lớn thường phần bố ở khu vực

sát với các ống nâng nước. Vì thế cần rải thức ăn đều khắp mặt mương để cá nhỏ hơn có
thể bắt được mồi. Lưu ý là cá Chẽm d
ừng bắt mồi sau khi mặt trời lặn.
3.4 Quản lý và chăm sóc
Vệ sinh mương hàng ngày bằng bàn chải mềm. Việc vệ sinh mương thường xuyên
giúp cho môi trường ương sạch và luyện cho cá quen với các tác động của con người.

9
Với phiên bản SMART-1 chất thải của cá và thức ăn thừa dồn tụ ở phần cuối đáy mương
phải được siphon thải bỏ hàng ngày, vào khoảng từ 16:00 - 17:00 trước khi cho ăn lần
cuối cùng trong ngày. Phiên bản SMART-2 được thiết kế để đẩy chất thải liên tục ra bên
ngoài, vì thế không cần phải siphon. Hàng tuần vệ sinh hoặc thay mới hệ thống ống nâng
nước. Khi nhiệt độ nước giảm xuống cỡ 20 – 22
o
C, cần cắt giảm mạnh lượng thức ăn vì
thông thường cá sẽ dừng bắt mồi.
Xa quạt nước chủ yếu được vận hành vào ban đêm để đảm bảo lượng oxy hòa tan và
một vài tiếng vào ban ngày, đặc biệt là khoảng từ 13:00 đến 15:00 để tránh hiện tượng
phân tầng nhiệt độ và thất thoát oxy bão hòa vào không khí. Duy trì màu nước trong ao.
Thông thường không cần phải bón thêm phân vì lượng chất thải từ mương nổi đủ để duy
trì lượng muối dinh dưỡng cần thiết cho tảo. Cho cá rô phi ngoài ao chứa ăn nhưng không
nên cho ăn quá nhiều. Có thể sử dụng chế phẩm vi sinh để ổn định môi trường nước ao.
3.5 Phòng bệnh
Quan sát các biểu hiện của cá nuôi thường xuyên, đặc biệt là khi cho ăn. Hàng tuần
tiến hành tắm cho cá bằng dung dịch hydroxy peroxide (H
2
O
2
) 5 – 10 ppm trong 15 phút.
Trước hết, dừng hoạt động của hệ thống ống nâng nước. Mương nổi sẽ biến thành một cái

bể. Cho sục khí vào trong mương để đảm bảo đủ oxy hòa tan cho cá. Sau đó cho H
2
O
2

vào. Sau 15 phút cho hệ thống ống nâng nước hoạt động lại để rửa hết nước có H
2
O
2

trong nước ra bên ngoài. Cũng có thể bơm nước ngọt vào mương để tắm cho cá Mú hoặc
cá Giò. Lưu ý là cá Giò rất nhạy cảm với những tác động cơ học và gai vây lưng của cá
Mú có thể làm mù mắt những con khác khi giãy dụa.
3.5 Lọc phân cỡ và thu hoạch
Lọc phân cỡ thường xuyên giúp giảm hiện tượng ăn thịt lẫn nhau ở các loài cá dữ.
Việc lọc phân cỡ có thể được thực hiện một cách dễ dàng với mương nổi SMART. Dùng
một vợt lưới mềm có khung lưới bằng đúng mặt cắt của thân mương để bắt cá. Sau đó
dùng các khay phân cỡ hoặc dùng tay để phân loại cá và thả cá cùng cỡ vào ương tiếp ở
một mương. Tại thời điểm thu hoạch, mật độ của cá ương trong mương rất cao. Vì thế
cần phải chú ý theo dõi hoạt động của hệ thống cung c
ấp khí. Cá Giò khi kết thúc vụ
ương có thể đạt cỡ 200 – 300 mm chiều dài thân, vì thế khó vận chuyển bằng bể đến khu

10
vực nuôi. Nếu có thể, nên dùng thuyền kéo cả mương nổi đến vị trí đặt lồng nuôi thương
phẩm để tránh stress cho cá và đảm bảo tỉ lệ sống cao trong vận chuyển.
4. HIỆU QUẢ ƯƠNG
Nếu qui trình trên được thực hiện đúng, tỉ lệ sống sau 40 – 45 ngày ương có thể đạt
hơn 85% với cá Chẽm, từ 90 – 95% với cá Mú và khoảng 60% với cá Giò (Hoàng Tùng
et al. 2008). Giá thành sản xuất thấp hơn nhiều so với ương trong bể, ao hoặc trong lồng.


Bảng 2: Cỡ giống và giá thành sản xuất của cá biển ương trong mương nổi SMART (tính
theo thời giá của năm 2008, Hoàng Tùng et al. 2008)
Cá Chẽm Cá Mú Malaba Cá Giò
Cỡ thu hoạch (mm chiều dài) 100 120 200
Giá thành sản xuất (đồng)
1.551 7.391 9.596
Giá thị trường (đồng)
7.000
16.000 20.000
Tỉ suất lợi nhuận/đầu tư
2,82
1,16 1,08

5. HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG TIẾP THEO
Hệ thống ương bằng mương nổi SMART và qui trình ương đã được áp dụng thành
công bởi một số công ty thương mại tại Việt Nam, Úc và Malaysia. Tuy vậy, hệ thống
này cần phải được tiếp tục hoàn thiện về mặt kỹ thuật để cải thiện tính ổn định và năng
suất ương. Hiện tại, chúng tôi đang tiếp tụ
c nghiên cứu
(i) Ứng dụng nguyên tắc hoạt động của mương nổi để thiết kế hệ thống nuôi thâm
canh cá Tra theo phương thức tuần hoàn, tái sử dụng nước cho khu vực đồng
bằng sông Cửu Long
(ii) Cải tiến hệ thống ống nâng nước của phiên bản SMART-2 để có thể nâng mật
độ ương lên 120 kg/m
3
.
(iii) Thiết kế hệ thống nuôi thương mại cá Dĩa




11
LỜI CẢM ƠN
Dự án này được chương trình CARD (Collaboration for Agriculture Research &
Development) tài trợ thông qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Chúng tôi xin
chân thành cảm ơn Công ty GROBEST Imei Vietnam đã tài trợ toàn bộ thức ăn cho các
thử nghiệm, các thành viên của Trường Đại học Nha Trang (TS. Nguyễn Đình Mão, ThS.
Lưu Thế Phương, KS. Bành Thị Quyên Quyên, ThS. Ngô Văn Mạnh) và Bribie Island
Aquaculture Research Centre (TS. Adrian Collins, CN. Ben Russel và Daniel Willet) đã
tham gia nghiên cứu. Các thành công mà Dự án có được là nhờ sự hỗ trợ tích cực của
Trường Đại học Nha Trang, Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa và Queensland
Department of Primary Industries & Fisheries (Australia).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Burke M., Russel B., Collins A. & Hoang T. (2007) Intensive in-pond floating raceway
production of marine finfish. In: Book of Abstracts, World Aquaculture Society
Annual Meeting, 26 February – 2 March 2007, San Antonio, Texas, USA.
Gottschalk T., Füllner G. & Pfeifer M. (2005) Möglichkeiten der Einführung neuer
Fischarten als Objekte der Aquakultur in Sachsen. Aufzucht von Hybrid-
Streifenbarschen in einer ‘In-Teich-Kreislaufanlage’, Schriftenreihe der Sächsischen
Landesanstalt für Landwirtschaft Heft 14 – 10. Jahrgang 2005.
Hoang T., Burke M. (2007) Floating raceways provide option for marine fish fingerling
production. The Advocate Jul
Hoang T., Collins A., Burke M. (2007) Milestone Report No. 2&4 of CARD VIE062/04
Project. CARD Program, MARD, Hanoi.
Hoang T., Burke M., Willet D. (2008) Milestone Report No. 8 of CARD VIE062/04
Project. CARD Program, MARD, Hanoi.
Hoang T., Huynh K.K. (2008) Advanced nursing of seabass using SMART-2 raceway.
ViFINET International Aquaculture Workshop, Can Tho Dec 2008.
Luu T. Phuong (2006) Application float raceways to nurse barramundi (Lates calcarifer

Bloch, 1790) from 2 – 8 cm total length. MSc thesis, University of Agriculture No.
1, Ha Noi (in Vietnamese).
Masser M.P. & Lazur A. (1997) In – pond raceways. Southern Regional Aquaculture
Center, SRAC Punblication No. 170.

×