Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Nghiên cứu tính phù hợp sinh học,kháng khuẩn và khả năng liền mô của keo phẫu thuật lepamed

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.32 KB, 21 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những thập niên gần đây, trên thế giới đã nghiên cứu, tổng
hợp và sử dụng mét sè keo dính sinh học có thành phần hóa học chủ yếu
là cyanoacrylate nhưGlubran và Glubran 2 của Italia, keo dán ngoại khoa
Bioglue Surgical Adhesive (BSA) của Cryolife ( Mỹ), hồ chống viêm, kháng
khuẩn dùng trong ngoại khoa sulfacrylate của Nga v. v. . . và gần đây, tháng 2-
2008, Viện trang thiết bị và công trình Y tế thuộc bộ Y tế (Việt Nam) đã sản
xuất thành công keo phẫu thuật LEPAMEDvới sự giúp đỡ của chuyên gia Nga.
Bên cạnh tác dụng cầm máu thay cho dùng kẹp, khâu, đốt điện hoặc
dùngcác hoạt chất sinh học dạng keo cú chứa thrombin, keo sinh học tổng
hợp còn có tác dụng bịt kín vết thương mà không cần khâu, giúp bệnh nhân
rót ngắn thời gian nằm viện do chê cắt chỉ. Keo sinh học có thể giúp các Bác
sĩ trong mét sè thao tác khó hoặc trong phẫu thuật nội soi. Nếu sử dụng
đúng, vết thương sẽ có sẹo đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ cao.
Tuy nhiên, ngoài mét sè yếu tố cơ học cần phải có như độ kết dính,
khả năng polymer hoá, tất cả các loạikeo khi đưa vào cơ thể phảikhông
độc với tế bào,không gây nhiễm khuẩn, có tính phù hợp sinh học cao, có
khảnăng cầm máu vàlàm liền vết thương.
Nhằmđánh giá những đặc tính trên của keo Lepamed, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
" Nghiên cứu tÝnh phù hợp sinh học, tính kháng khuẩn và khả năng
liền mô của keo phẫu thuật Lepamed"
Đề tài nhằm 3 mục tiêu:
1. Đánh giá tính phù hợp sinh học ( độc tính với tế bào, các chỉ
tiêuhuyết học, sinh hoá, mô học)của keo phẫu thuật LEPAMED
2. Đánh giá khả năng kháng khuẩncủa keo phẫu thuật LEPAMED
3. Đánh giá khả năng cầm máu và liền môcủa keo phẫu
thuậtLEPAMED.
Những kết quả thu được của đề tài sẽ bổ sung cho các mục tiêu
nghiên cứu của đề tài cấp Bộ và làm cơ sở cho việc ứng dụng keo phẫu
thuật Lepamed trên lõm sàng.



2.TỔNG QUAN

2.1. Nguồn gốc, thành phần hoá học, tên gọi.

Keo dán ngoại khoa hay hồ dán sinh học được tìm ra bởi Harry
Coover từnhững nămchiến tranh thế giới thứ 2 với mục đích gắn các
vết thương do đạn bắn để cầmmáutạm thời.
Trong chiến tranh Việt Nam, 1966, quân đội Mỹ đã sử dụng keo dưới
dạng xịt để cầm máu vết thương trong khi chuyển thương binh về về BV
tuyến sau. Keo sinh học được lưu thông trên thị trường từ tháng 2-
1955, với nhiều tên gọi cũng khác nhau nhưng đều dựa trên thành phần hoá
học giống nhau: Cyanoacrylate.(From Wikipedia).
Keo phÉu thuật LEPAMED do Viện trang thiết bị và công trình y tế
- bộ Y tế Việt Nam chế tạo 2/ 2008 dựa trên thành phần hoá học của hồ dán
sinh học của LB Nga sulpha-acrylate.
Keo phẫu thuật Lepamed hiện chưa được thử nghiệm tại Việt Nam.
Thành phần hóa học:
- N - Butyl cyanoacrylat 99, 99
%
- SO2 0,
005%
- Acide acetic CH3COOH
0,005%
Tên gọi: KEO PHẪU THUẬT LEPAMED
2.2. Mét sè nghiên cứucủa thế giới về keo sinh học
2.2.1.Nghiên cứu thực nghiệm nối khí quản và hàn vết thủng phổi cừu bằng
keosinh học Bioglue [7]
Georg W. Herget, Mulugeta Kassa.Viện phẫu thuật lồng ngực
Freiburg, Đứcsử dụng24 cừu chia 2 nhóm:

- 6 cừu phẫu thuật nối khí quản bằng chỉ khâu. Để 4 tuần.

- 18 cừu phẫu thuật nối khí quản, bịt kín lỗ thủng nhỏ nhu mô phổi bằng
keo. Để 2, 4, 12 tuần
Kết quả:
Đại thể: Quan sát đại thể thấy vùng nối kín, tổ chức chặt chẽ trong tất
cả các giai đoạn thời gian.
Vi thể: Phản ứng viêm với sự xuất hiện của các tế bào viêm xung
quanh vùng keo sau 2 tuần. Sau 4 tuần phản ứng mô đặc trưng là mô hạt.
Các đặc trưng này không quan sát thấy ở mô cừu dùng chỉ khâu.12 tuần
không còn thấy dấu hiệu phản ứng với vật lạ, không còn mô hạt.
Kết luận: Bioglue như một vật liệu hỗ trợ hàn gắn các mối nối khí quản và
và các tổn thương nhu mô phổi cừuvới kích thước bé .
2.2.2. So sánh phục hồi đứt dây thần kinh bằng phương pháp khâu cổ điển
và dùng keo dán sinh học.
Jin Y, Dehesdin và Hemet J. Labor tạo hình thực nghiệm, U. F.
R. Pháp.Gây tổn thương dây thần kinh hông 70 chuột, 22 chuột được phục
hồi bằng phương pháp khâu vi phẫu, 47 bằng keo dán sinh học. 1 chết. Để
120 ngày. Đánh giá mô học,không thấy hình ảnh viêm thải loại vật lạ trong
nhóm sử dụng keo. [6]
2.2.3. Túm tắt một số nghiên cứu của Cryolife về keo sinh học:
- Phẫu thuật phục hồi đứt động mạch chủ bằng keo Bioglue surrgical
adhesive.[7]
Sử dụng26 cừu chia làm 2 nhóm:13 bằng phương pháp khâu nối, 13
bằng keo Bioglue. Để 90 ngày.
Kết quả:Phẫu thuật dùng Bioglue giảm tỷ lệ phải mổ lại từ 30% đến 0%.
- Nối động mạch vành bằng keo Bioglue.[7]
- In Vitro:
Dùng keo Bioglue nối tĩnh mạch hiển người bảo quản lạnh sâu và động
mạch vành vào 12 điểm của tim bò còn nguyên. Bơm thử áp lực. Tất cả các


mảnh ghép gắn bằng keo đều chịu được áp lực 300mmHg, 10 mảnh
chịu đến 560 mmHg.(áp suất tâm thu: 90 - 110 mmHg)
- In Vivo:
Nối các nhánh động mạch chủ ngực trái trên dê bằng keo. Đánh giá sau
sau 24 giờ, 10 tháng, 1 năm. Tất cả các chỗ nối liền tốt, lòng không bị chít hẹp.
2.2.4. Nối dây TK bằng keo: So sánh mô học giữa dùngfibrin và
keocyanoacrylate.[6]
K. Wieken, MD, Angioi Dupprez sử dụng 18 chuộtcống trắng (500-
600g/con), gây mê, bộc lộ dây TK hông to 2 bên. Bên trái cắt và nối lại bằng
keofibrin (Tissucol), bên phải bằng keo cyanoacrylate(Glubran). Theo dõi
đại thể, vi thể, siêu vi thể sau 1, 2, 3, 4 tuần.
Kết quả: dây TK gắn bằng keo cyanoacrylate không thể phục hồi vì gây ra
phản ứng viêm thải loại vật lạ, làm co rút và xơ hoá.
2.2.5. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm bước đầu về tính phù hợp sinh học
của keo gắn xương. [7]
C. Heiss, P.Pokinskyj.Khoa chấn thương, Viện Justus-Liebig, LB
Đức vàViện vật liệu sinh học Darmstadt, Đứcsử dụng 36 thỏ, chia 4 nhóm:
7,21,42 và 84 ngày. Mỗi nhóm 3 chứng, 6 thực nghiệm. Mỗi thỏ tạo các
mảnh khuyết ở đầu dưới xương đùi sau đó gắn trở lại. Nhóm chứng gắn
không dùng keo, nhóm thực nghiệm gắn bằng keo, thời gian cố định 60 giây,
chờ đợi 5 phút. Đánh giá vi thể, siêu vi thể.
Kết quả: Keo đảm bảo tính phù hợp sinh học cao. Các giai đoạn của quá
trình liền xương diễn ra đúng qui luật. Mảnh ghép liền hoàn toàn sau 84
ngày ở cả 2 nhóm chứng và thực nghiệm.
2.2.6.Nghiên cứu về độc tính tế bào, tính tương thích máuvà khả năng kháng
khuẩn của hai loại keo phẫu thuật Glubran và Glubran 2. [3]

Đánh giá độc tính tế bào là mét trong những yêu cầu rÊt quan trọng
đối với các loại keo chứa cyanoacrylate. Mét sè keo chứa các chất methyl,

ethyl, alkyl đã được thông báo về khả năng độc với tế bào. Ngoài tính độc về
mặt hoá học, các loại keo còn được biết đến với tính độc do sù toả nhiệt của
quá trình polymer hoá. Mét sè công trình nghiên cứu cho thấy nhóm
cyanoacrylate không độc với tế bào trong mét sè nồng độ pha loãng. Kết quả
thử nghiệm đối với Glubran và Glubran 2 của Italia, là 2 loại keo đã được
thương mại hoá, cho thấy tỷ lệ sống sót của tế bào trong nồng độ pha loãng
1/ 10 là > 70% [3]. Đây được coi là không độc với tế bào.
Về tính tương thích với máu:theo L. Montanaro và cộng sự cả hai loại
keo phẫu thuật Glubran và Glubran 2 sau thử nghiệm đều không làm thay
đổi có ý nghĩa các chỉ tiêu về hoạt động của prothrombin, fibrinogen, số
lượng hồng cầu, tiểu cầu cũng như công thức bạch cầu. [3]
Nhiễm khuẩn là một yếu tố rất quan trọng làm cản trở sự liền vết
thương.Theo Nguyễn Trọng Lưu khi số lượng vi khuẩn vượt quá 100000/
1gram mô thì quá trình liền vết thương có thể bị cản trở nghiêm
trọng [1]. Bởi vậy, tất cả các vật liệu sinh học khi đưa vào cơ thể đều phải
đảm bảo vô trùng. Mét số loại keo dùng trong phẫu thuật đã được đánh giá
là ngoài khả năng vô trùng còn có khả năng ức chế mét số loại vi khuẩn.
Theo James V. và cộng sù, keo sinh học N - 2 Butylcyanoacrylatecó khả
năng ức chế sự phát triển của mét sè cầu khuẩn gram dương nhưng không
làm ức chế sự phát triển của các vi khuẩn gram âm. Hai loạikeo hiện đang sử
dụng rộng rãi trên thế giới là Glubran và Glubran 2 cũng được thông báo là
có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn.
Tại Việt Nam, chúng tôi chưa tìm thấy một nghiên cứu nào về keo sinh
học.
3. Quá trình liền vết thương và vai trò củanguyên bào sợi. [1]

Quá trình liền vết thương là một quá trình rất phức tạp, trải qua 5 giai
đoạnchính với sù tham gia của nhiều loại tế bào vào những thời điểm khác
nhau.


ĐÔNG MÁU: tiểu cầu, fibrin

VIÊM : bạch cầu trung tính, đại thực bào, lympho bào

TẠO MÔ XƠ: proteoglycan, nguyên bào sơị, collagen

BIỂU MÔ HÓA: tạo mạch

SỬA CHỮA: collagen liên kết chéo, sẹo trưởng thành
Mỗi loại tế bào đảm nhiệm một chức năng trong cả mét qui trình từ khi
vết thương xuất hiện đến khi vết thương liền hoàn toàn.Tiểu cầu là lọai tế
bào đầu tiên đi đến vết thương làm nhiệm vụ cầm máu và khởi phát hàng
loạt cho quá trình sửa chữa làm lành vết thương. Bạch cầu trung tính đến sau
đó với chức năng thực bào, loại bỏ các mô tổn thương, các dị vật, gây giãn
mạch, tăng tính thấm mao mạch, tạo điều kiện cho các tế bào khác có nguồn
gốc từ máu đi vào vết thương. Chúng thường chết theo chương trình sau khi
đã kết thúc nhiệm vụ. Nguyên bào sợi là loại TB chiếm ưu thế trong mô liên
kết, chúng giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập bé khung của mô liên
kết do có khả năng tạo ra các loại sợi liên kết như collagen, elastin,
proteoglycan, glycoprotein. . . Nguyên bào sợi đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tạo sẹo, làm lành vết thương. Khi mô liên kết bị huỷ hoại, nguyên
bào sợi sẽ di chuyển đến, tăng sinh, tạo ra mét lượng lớn chất nền collagen
giúp cho việc cô lập và sửa chữa vết thương.[2]










3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.1. 1. Vật liệu
Keo phẫu thuật LEPAMED do Viện Trang thiết bị và công trình y tế
- Bé Ytếchế tạo.
H. 1 Keo Lepamed
3.1.2.Động vật nghiên cứu và cách phân lô
- Động vật nghiên cứu:
• Thá đực, giống nội địa, mỗi con nặng khoảng 2kgdo Trung tâm nghiên
cứu dê và thỏ Sơn Tây cung cấp. Thỏ được sử dụng trong nghiên cứu
đánh giá các chỉ số về sinh hóa, huyết học, gây sốt và thí nghiệm các
vết thương da vùng lưng.

• Chuột cống trắng thí nghiệm, 180 – 200 g/con, do Học viện quân y
cung cấp. Chuột cống được sử dụng nghiên cứu các vết thương tạng
- Phân lô
• 5 thỏ sử dụng trong kỹ thuật gây sốt thực nghiệm.
• 15 thỏ chia 2 lô: 8 con để 1 tuần sau mổ, 7 con để 4 tuần sau mổ.LÊy
máu định lượng các chỉ số huyết học, sinh hóa, lấy tiêu bản mô học
sau khi tạo vết thương da có sử dụng keo Lepamed.
• Chuột cống trắng 12 con sử dụng trong thí nghiệmcắt và xẻ gan (6
cắt gan, 6 xẻ gan) trong đó 8 con sử dụng keo Lepamed dính vết
thương, 4 con chứng (không sử dụng keo).
3.2.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm trên cơ thể động vật(in vivo) và trong ống
nghiệm(in vitro)
3.3.Cách thức tiến hànhnghiên cứu
3.3.1. Gây sốt thực nghiệm

- Cố định thỏ lên bàn mổ, cho nghỉ nghơi hoàn toàn trong phòng tối 90
phút
- Đo nhiệt độ hậu môn
- Rạch da vùng lưng, nhá lên vết thương vừa rạch mỗi con 2 giọt
keoLepamed.
- Tiếp tục cho thỏ nghỉ nghơi hoàn toàn trong phòng tối 90 phút
- Đo lại nhiệt độ hậu môn. So sánh nhiệt độ trước và sau nhá keo.
Kỹ thuật được thực hiện tại Bộ môn Mô - Phôi trường Đại học Y Hà Nội.
3.3.2 Đánh giá độc tính tế bào
- Nuôi cấy nguyên bào sợi trong các giếng nuôi cấy
- Cho các dung dịch chứa MEM, nước nổi, phenol và keoLepamed pha
loóng ẵ; 1/10; 1/ 20 vào các giếng chứa nguyên bào sợi đã nuôi cấy.


Lô chứng
(n=15)
Lô 1
(n=15)
Lô 2
(n=15)

Trước dùng keo
5. 2 ± 0. 3

Sau dùng keo 6 ngày 4. 4 ± 0. 6 P < 0. 05
Sau dùng keo 12 ngày 3. 7± 0. 7 P < 0. 05
P(trước – sau) P > 0. 05

Kết quả trình bày ở bảng 2 cho thấy: sau 6 ngày và 12 ngày dùng keo,
số lượng hồng cầu thay đổi có ý nghĩa ở 2 lô so với lô chứng (p<0.05).

- Thể tích trung bình hồng cầu MCV
Bảng 3. Thể tích trung bình hồng cầu thỏ trước và sau dùng keo Lepamed
6, 12 ngày

Thời gian
MCV(FM
3
)
P( so với
chứng)
Lô chứng
(n=15)
Lô 1
(n=15)
Lô 2
(n=15)
Trước dùng keo 61. 0 ± 2. 4
Sau dùng keo 6 ngày 62. 9 ± 2. 3 P > 0. 05
Sau dùng keo 12 ngày 63. 1± 2. 9 P > 0. 05
P(trước – sau) P > 0. 05
MCV được tính bằng tổng thể tích của hồng cầu chia cho số lượng
hồng cầu. Thể tích trung bình hồng cầu phản ánh đặc điểm của tình trạng
thiếu máu
Kết quả trình bày ở bảng 3 cho thấy: thể tích hồng cầu thỏ ở cả 2 lôsau dùng
keo 6 ngày và 12 ngày, thay đổi không có ý nghĩa so với lô chứng (p>0.05)
- Số lượng huyết sắc tố
Bảng 4. Huyết sắc tố thỏ trước và sau dùng keo Lepamed 6, 12 ngày.

Thời gian
Huyết sắc tố (g/dl)

P( so với
chứng)
Lô chứng
(n=15)
Lô 1
(n=15)
Lô 2
(n=15)




H.5. Lepamed kháng với S. pneumoniae . Đường kính vùng 2: 39mm





H.6.Lepamed không kháng với E.Colli. Không có vùng 2



4. 4. 2 Vết thương cắt bỏ mét phần thùy gan vùng ngoại vi
Cắt bỏ mét phần thùy gan vùng ngoại vi, mặt cắt còn lại chảy máu
nhiều. (H. 10 A) Tuy nhiên sau khi được phủ một lớp keo Lepamed trong
khoảng 10 giây, lớp keo đông đặc lại, mặt cắt ngay lập tức không còn chảy
máu. (H. 10 B)


A B


H.9.Vết cắt gan.
A. Chưa phủ keo Lepamed. B. Phủ keo Lepamed sau 10 giây
4. 4. 3 Vết thương xẻ dọc thùy gan
Tại hai bê mép vết thương, mét lớp keo Lepamed máng được đưa vào,
khép hai bê méo vết thương bằng hai ngón tay, để khoảng 10 giây, hai mép
vết thương dính liền, không còn chảy máu. (H11. A,B)



A B

H.10. Vết thương xẻ dọc thùy gan
A. Chưa phủ keo Lepamed; B Đã phủ keo Lepamed


H. 14. Hình ảnh vi thể vết thương da thỏ dùng keo Lepamed sau 1 tuần thí nghiệm
4. 4. 4. 2.Vết thương da thỏ vùng lưng sau 4 tuần thí nghiệm
- Ở vết thương không dùng keo Lepamed
Vết thương đã liền hoàn toàn. Chân bì và hạ bì mô liên kết phát triển,
nhú chân bì cao, rất Ýt lông. Biểu mô dày gồm nhiều hàng tế bào sừng, phát
triển mạnh hơn, dày hơn vùng chung quanh vết thương. (H. 15)


H. 15. Hình ảnh vết thương da thỏ không dùng keo sau 4 tuần thí nghiệm.(H. E
x50)
- Ở vết thương da có dùng keo Lepamed
Biểu mô mới sinh dày hơn biểu mô vùng xung quanh. Nhú chân bì
phẳng, chân bì chủ yếu là mô liên kết, rất Ýt các côm nang lông (H. 16)




H.16. Hình ảnh vi thể vết thương da thỏ có dùng keo Lepamed sau 4 tuần
thí nghiệm (H. E x 50)
4. 4.5.Hình ảnh phục hồi vết thương gan chuột cống trắng sau 4 tuần thí
nghiệm
-Vết xẻ dọc thùy gan không phủ keo Lepamed
Hai mép đường xẻ đã liền hoàn toàn bởi một mô liên kết mỏng.
Mô gan xung quanh dải mô liên kết bình thường. Đỉnh mép vết thương mô
liên kết dày hơn hẳn và tiếp nối với bao xơ của gan. (H . 17 H. E x50)


H. 17. Hình ảnh vi thể vÕt thương gan chuột sau xẻ 4 tuần không phủ keo
Lepamed (H. E x50)
- Vết thương xẻ dọc thùy gan có sử dụng keo Lepamed: Mô gan hai bên
đường xẻ cũng đã liền hoàn toàn, liên kết với nhau bởi một dải mô liên
kết mỏng. Các tế bào gan quanh vết thương hoàn toàn bình thường. ( H4.
10A. H. E x 50 B. H. E x 200)
ượng keo trong một lần sử dụng là rất cần thiết, sao cho lớp keo càng
mỏng càng tốt.
4.3. Các chỉ sè huyết học và hóa sinh
Kết quả 2 lần xétnghiệm máu trên 15 thỏcách nhau
6 ngày (6; và 12 ngày)cho kết quả khác biệt không có ý nghĩa thống kê so
với các mẫu máu trước khi sử dụng keo. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến các
chỉ số về hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, các men gan. Tuynhiên chúng tôi có
ghi nhận sự khác biệt về số lượng vàhuyết sắc tố hồng cầu (giảm) giữa nhóm
chứng (trước khi sử dụng keo) và hainhóm sử dụng keo. Đề nghị tiếp tục
nghiên cứu thêm.Còn các chỉ số khác, đặc biệt là bạch cầu (số lượng, công
thức), các men gan - đây là những chỉ số có liên quan nhiều đến khả năng
phù hợp sinh học của vật liệu đều thay đổi không có ý nghĩa thống kê.Kết

quả này của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của L. Montanaro và cộng
sự đã nghiên cứu trên hai loại keo phẫu thuật là Glubran và Glubran 2 [3].
Vì qui mô của đề tài có hạn nên chúng tôi chưa có điều kiện nghiờn
cứu ảnh hưởng của keo lên thời gian hoạt húa
của prothrombin và fibrinogen.
4.4. Khả năng kháng khuẩn của keo Lepamed
Trên thực tế sử dụng, chúng tôi nhận thấy tất cả các vết thương có sử
dụng keo Lepamed trong ổ bụng cũng như ngoài da đều khô, không chảy
mủ, dịch. Mặc dù trước khi sử dụng keo không được hấp, sấy tiệt trùng.
Các kết quả nghiên cứu vi sinh vật bằng phương pháp khuyếch tán
trên thạch cho thấy keo Lepamed cho hai vùng kháng khuẩn. Vùng 1 do tác
động cơ học của sự polymer húa gây ra làm ức chế sự phát triển đối với tất
cả các vi khuẩn. Vùng này không sử dụng để đánh giá khả năng kháng
khuẩn của keo. Vùng hai cho thấy Lepamed có khả năng ức chế sự phát
triểncủa3 loại cầu khuẩn gram dương:S.aureus; S.epidermidis; S. pneumoniae.
Tuy nhiên kÕt quả còng cho thấyLepamed không có khả năng kháng với các 2
loại vi khuẩn gram âm là E. coli và P. aeruginosa. Nội dung nghiên cứu này
chúng tôi dựa

theo phương pháp của James V. và cộng sự trên keo N - 2
Butylcyanoacrylate.[4]. Kết quả của chúng tôi còng phù hợp với kết quả của
nhóm tác giả này. Tuy nhiên đường kính vùng 2 của chúng tôi lớn hơn.
4. 5. Khả năng cầm máu và kết dínhvết thương
Hình ảnh trên các vết thương da sau khi cắt, thấm máu nhanh và phủ
keo Lepamed sau đó đưa hai mép vết thương áp sát vào nhau, giữ trong
vòng 30 giây cho thấy vết thương gần như hoàn toàn không còn chảy máu
nhờ miệmg vết thương đã bịt kín do sù kết dính của keo, trong khi các vết
thương không dùng keo máu vẫn chảy. (H.9, A,B). Thử nghiệm này
chứng tỏLepamed có khả năng cầm máu rất tốt đối với các mô da, tổ chức
dưới da. Tuy nhiên, đối với các mô chứa nhiều máu như gan, các thao tác

thường gặp khó khăn do máu chảy nhiều. Mặt khác, do thời gian polymer
hóa của keo để tạo ra sù kết dính khá nhanh nên phẫu thuật viên cần kết hợp
mét lóc 3 động tác: thấm máu, nhá keo và Ðp hai mép vết thương hoặc dàn
đều keo lên mặt cắt. (H. 10,11). Vết thương da và mô mềm nếu có chiều dài
vượt quá 2cm, nên khâu tăng cường, không nên chỉ dùng một mình keo.
4.6.Các kết quả đại thể, vi thể mô thử nghiệm
- Đối với các vết thương da sau 1 tuần đã có biểu hiện liền đối với cả
hai nhóm có sử dụng keo và không sử dụng keo. Tất cả các vết thương đều
khô, không chảy dịch, không có mủ, không sưng tấy, phù nề. Mặt dưới da và
vùng cơ dưới da thử nghiệm không có biểu hiện khác thường. Dưới kính
hiển vi quang học, bằng phương phỏp nhuộm 2 màu Hematoxylin và Eosin,
vùng da rạch có sử dụng keo để dính 2 mép vết thương, sau 1 tuần cấu trúc
đã được tái tạo gần như hoàn toàn. Các tế bào lớp đáy tăng sinh làm cho
biểu bì ở vùng này dày lên so với vùng chung quanh. Tõ hai mép vết
thương biểu bì có hình lưỡi rìu, bò dần vào trung tâm.Có thểquan sát thấy sự
tập trung của các tế bào viêm như lympho bào, tương bào phía dưới lớp vẩy
máu hoại tử. Tuy

nhiên ở nhóm có sử dụng keo cho thấy trên bề mặt vết thương phẳng,
ngược lại ở các vết thương không dùng keo, bề mặt lõm xuống.
- Đối với các vết thương da sau 4 tuần, về mặt đại thể không có sự
khác biệt nhiều giữa nhóm có sử dụng keo và nhóm không sử dụng keo. Tuy
nhiên các hình ảnh vi thể cho thấy biểu bì trong vết thương ở nhóm không
dùng keo dày hơn, không phẳng và không đồng đều so với vùng chung
quanh. Ngược lại biểu bì của vết thương da có sử dụng keo rÊt phẳng, độ
dày tương đương với độ dày biểu bì da vùng chung quanh, (H.15;16).
Tất cả các vết thương da có sử dụng keo đều không thấy tăng sinh quá
nhiều tế bào viêm. Điều này cũng chứng tỏ Lepamed không gây phản ứng
viêm thải loại, được mô thử nghiệm chấp nhận. Kết quả này cũng phù hợp
với mét sè tác giả nghiên cứu trên phế quản, phổi và dây thần kinh cừu đối

với keo sinh học có thành phần tương tự Lepamed.[5,6] Sở dĩ chúng tôi
không dùng chỉ khâu phẫu thuật làm vật liệu chứng vì có thể ảnh hưởng đến
độ chính xác của các kết quả trong các nội dung nghiên cứu khác, đặc biệt là
các chỉ số sinh hóa, huyết học
KÕt quả của chúng tôi với vết thương sau khi xẻ rời hoàn toàn với
đường xẻ dài 1cm trên gan chuột và dùng keo Lepamed dính hai mặt xẻ, 4
tuần sau hình ảnh đại thể cho thấy đường xẻ biến thành sẹo.Hai vùng gan xẻ
đã liền hoàn toàn lại vớinhau, đường xẻ đã biến thành một màng liên kết
mỏng nối hai vùng gan bị xẻ lại với nhau. Xung quanh màng này cấu trúc
nhu mô gan bình thường. Không thấy sự tập trung các tế bào viêm. Vì thời
gian và kinh phí có hạn nên trong công trình này chúng tôi chưa đi sâu
nghiên cứu về sự số phận của màng liờn kết này theo thời gian, liệu nãcó thể
sẽ mỏng dần và biến mất sau nhiều tháng.
Hình ảnh đại thể và vi thể ở những vếtthương gan chuột bị cắt một
phần và dùng keo phủ bề mặt cũng cho thấy mặt cắt được mô liên kết che
phủ trên bình diện khá phẳng so với mặt cắt không phủ keo. Các tế bào
gan mới

tái tạo, bào tương có phần nhạt màu hơncác tế bào gan ở vùng xung
quanh.Nhu mô gan không có sự biến đổi cấu trúc, không thấy các tế bào
viêm. Trong nhiều trường hợp khi mổ ra chúng tôi đều thấy có mạc nối lớn
bò đến che phủ vùng gan bị cắt. Theo chúng tôi đây phản ứng tự nhiên của
cơ thể trước một tạng nào đó trong ở bụng bị tổn thương, chảy máu. Tất cả
các chuột thực nghiệm khi mổ để lấy mẫu sau 4 tuần chúng tôi không thấy
có máu hay dịch trong ổ bụng.Chúng tôi chỉ gặp một trường hợp dính các
tạng lại với nhau. Nguyên nhân có thể do phẫu thuật. Mặc dù vậy chúng tôi
cũng khuyến cáo nên tuân thủ theo đúng nguyên tắc sử dụng keo.
Như vậy, các kết quả nghiên cứu hình thái học, kể cả đại thể và vi thể
cho thấy các vết thương dùng keo phẫu thuật Lepamed đều liền, không gây
phản ứng viêm thải loại tại chỗ đối với cơ thể sử dụng.

Keo Lepamed là vật liệu sinh học dạng nước, chỉ polymer húa khi gặp
môi trường ẩm. Khi vào cơ thể, sau khi được polymer húa để tạo khả năng
kết dính, các phân tử cấu thành sẽ bị cắt dần các mạch liên kết. Quá trình
này giống như hiện tượng đục lỗ trên màng keo kÕt nối hai mặt của vết
thương, cho phép hệ thống mạch, thần kinh của hai mặt mô bị cắt liờn hệ và
nối lại với nhau. Keo chỉ tồn tại khoảng 2 tuần trong cơ thể nên đõy còng là
nguyên nhân làm giảm khả năng gây phản ứng viêm thải loại.Vì keo không
phải là vật liệu rắn, không cố định tại một mô nào trong thời gian dài
nên việc nghiên cứu về hình thái học đối với các mô tiếp xúc trực tiếp với
keo là khó khăn. Theo chúng tôi, các kết quả nghiên cứu về độc tính tế bào,
khả năng tương thích với máu, khả năng kháng khuẩn cần được xem là
những yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng phù hợp sinh học của vật liệu.
Khả năng liền mô,tình trạng mô tại vùng tiếp xúc với keo về mặt hình thái
học,có thể xem là những yếu tố đánh giá hiệu quả sử dụng của keo trên cơ
thể sống.









5. KẾT LUẬN

Nghiên cứu tiền lâm sàng về tính phù hợp sinh học, tính kháng
khuẩn và khả năng làm liền vết thương của keo phẫn thuật Lepamed,
chúng tôi đi đến kết luận sau:
1. Không độc với nguyên bào sợi nuôi cấy.

2. Có khả năng ức chế các vi khuẩn gram(+) phát triển
3. Không làm thay đổi (có ý nghĩa) các chỉ số sinh hóa, huyết học ở thỏ
thực nghiệm.
4. Khi dùng keo phẫu thuật Lepamed để gắn vết thương da và tạng đặc:
• Cầm máu tức thời tại mặt cắt
• Kết dính ngay hai bê mép vết thương, bề mặt vết thương
phẳng.
Sau 4 tuần thử nghiệm:
• Vết thương da khô, cấu trúc các tầng mô da gần như trạng thái
bình thường.
• Hai bê mép vết thương gan do xẻ đã liền lại với nhau bởi một
màng mô xơ máng.
• Mét lớp mô xơ mỏng đã phủ lên mặt cắt gan còn lại.
• Không thấy thay đổi cấu trúc mô gan xung quanh vùng gan bị
xẻ và cắt.









6. KIẾN NGHỊ

1. Kết thóc nghiên cứu tiền lâm sàng, đề nghị cho nghiên cứu trên lâm sàng
diện hẹp
2. Tiếp tục nghiên cứuthêm trên một số tạng rỗng và mô cứng(như nối ruột,
bịt lỗthủng dạ dày, gắn kết xương góy, trộn keo với bột xương

lấp cácổ khuyếtxương).
3. Tổ chức tập huấn các thao tác kỹ thuật về cách sử dụng keo.
4. Cải tiến hình thức bao gói tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người sử
dụng.

















TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trọng Lưu (2001) Đặc điểm sinh học liền vết thương –
trích trong luận án Tiến sĩ y học
2. Huỳnh Duy Thảo. Phân lập và tạo dòng nguyên bào
sợi(Fibroblast) người từ bánh rau. Luận văn tốt nghiệp cử nhân khoa
học chuyên nghành công nghệ sinh học Y Dược. TP Hồ Chí
Minh, 2004
3. Montanaro L. C.R. Arciola, E. Cenni, G. Ciapetti, F. Savioli,

F.Filippini, L.A. Barsanti. Cytotoxicity, blood compatibility and
antimicrobial activity of two cyanoacrylate glue for surgical use.
2001. Biomaterials 22(2001). 59 - 66
4. James V. Quinn,MD, Martin H. Osmond, MD, John A.Yurack,
PhD and Peter J Moir, N - 2 Butylcyanoacrylate: Risk of bacterial
contamination with an appriaisal of its antimicrobial effect, The
Journal of Emergency Medicine, Vol: 13, 1995. 581-585.
5. Summury of safety and effectivenss Cryolife, inc.,
Bioglue, From internet network
6. Wieken K. M.D; K. Angio-Dupez, MD. Nerve Anatomosiswith
glue: Comparative histologic study of fibrin and cyanoacrylate
glue. From Internet
7. Summary of safety and effectiveness Cryolife, Bioglue
Surgical Adhesive - Cryolife company 1655 Roberts Bulevard, NW
Kennesaw,Georgia 30144 tin từ internet).


×