Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Ngoại lệ của quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.54 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HỒ BẢO

NGOẠI LỆ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÁC PHẨM
NHẰM MỤC ĐÍCH HỌC TẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGOẠI LỆ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÁC PHẨM
NHẰM MỤC ĐÍCH HỌC TẬP
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thái Cường
Học viên
: Hồ Bảo
Lớp
: 20CHDS_K34_NC, Khóa 33-34

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
thông tin nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác và đã
được cơ quan có thẩm quyền công bố hoặc cho phép công bố. Các dữ liệu, luận
điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của
chính bản thân tôi. Những kết luận khoa học trong luận văn là mới và chưa được
cơng bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào.
Tác giả

Hồ Bảo


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
01

TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

Chỉ thị 2001/29/EC; Chỉ thị
Infosoc

Chỉ thị 2001/29/EC của Nghị viện châu Âu

và Hội đồng Liên minh châu Âu về sự hài
hịa của một số khía cạnh thuộc quyền tác
giả và các quyền liên quan trong xã hội
thông tin năm 2001

03

Công ước Berne

Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn
học và nghệ thuật năm 1886 sửa chữa lần
cuối tại Paris năm 1971

04

Công ước Rome

Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng
năm 1961

05

EU

Liên minh Châu Âu

06

Hiệp định TRIPS


Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ năm
1994

07

Hiệp ước WTC; WTC

Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
về quyền tác giả năm 1996

02

08

Luật SHTT;
Luật SHTT Việt Nam

Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006,
được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số
36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009
của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2010; Luật số
42/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019
của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu

trí tuệ, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 11
năm 2019; Luật số 07/2022/QH15 ngày 16
tháng 6 năm 2022 của Quốc hội sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung


một số điều theo Luật số 36/2009/QH12 và
Luật số 42/2019/QH14

09

Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16
Nghị định số 131/2013/NĐ- tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định
CP
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác
giả, quyền liên quan,

Nghị định số 22/2018/NĐCP

Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng
02 năm 2018 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ
năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

Dự thảo Nghị định thay thế
Nghị định số 22/2018/NĐCP


Dự thảo lần 2 Nghị định quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 về quyền
tác giả, quyền liên quan.

12

SHTT

Sở hữu trí tuệ

13

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

14

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

10

11



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

i)

ii) Kết quả khảo sát lịch sử nghiên cứu đề tài ...................................................... 1
iii) Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 6
iv) Phạm vi nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 6
v) Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................ 6
vi) Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận ................................ 6
CHƯƠNG 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
NGOẠI LỆ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÁC PHẨM
NHẰM MỤC ĐÍCH HỌC TẬP ................................................................................ 7
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngoại lệ của quyền tác giả đối với việc sử dụng tác
phẩm nhằm mục đích học tập................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm ngoại lệ của quyền tác giả và các cách tiếp cận khái niệm
học tập .............................................................................................................. 7
1.1.2. Cơ sở của ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm
mục đích học tập ................................................................................................. 9
1.2. Ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học
tập trong pháp luật quốc tế ................................................................................... 18
1.2.1.

Điều ước quốc tế về ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục đích học tập ... 18

1.2.2. Pháp luật bản quyền một số nước về ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục
đích học tập....................................................................................................... 23
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về ngoại lệ của quyền tác giả đối với

việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập .................................................... 28
1.3.1.

Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994........................................... 28

1.3.2.

Bộ luật Dân sự năm 1995 .................................................................... 29

CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGOẠI LỆ CỦA
QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÁC PHẨM NHẰM MỤC ĐÍCH
HỌC TẬP ............................................................................................................ 32
2.1.

Ghi nhận ngoại lệ của quyền tác giả trong Luật Sở hữu trí tuệ .................. 32

2.2.

Đề cập đến mục đích học tập trong Luật Sở hữu trí tuệ ............................. 33


2.3.

Các trường hợp ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục đích học tập cụ thể ....... 33

2.3.1.

Sao chép tác phẩm ............................................................................... 33

2.3.2.


Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa ................................................ 44

2.3.3.

Trích dẫn hợp lý tác phẩm ................................................................... 48

2.3.4.

Nhập khẩu bản sao tác phẩm để sử dụng cá nhân ................................ 51

2.3.5. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả nhằm mục
đích học tập dành cho người khuyết tật ............................................................ 53
2.4.

Các điều kiện khi sử dụng tác phẩm trong các trường hợp ngoại lệ ........... 56

2.4.1.

Tác phẩm được sử dụng phải là tác phẩm đã công bố ......................... 56

2.4.2.

Thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm ............. 57

2.4.3.

Sử dụng tác phẩm đúng mục đích........................................................ 58

2.4.4. Khơng được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm,

khơng gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả .............................................................................................. 59
2.4.5.
2.5.

Loại hình tác phẩm không áp dụng quy định về ngoại lệ quyền tác giả ..
............................................................................................................ 61

Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật .............................. 61

2.5.1.

Về thuật ngữ “ngoại lệ” không xâm phạm quyền tác giả..................... 61

2.5.2.

Về ngoại lệ sao chép tác phẩm ............................................................ 62

2.5.3.

Về sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa ........................................... 64

2.5.4.

Về trích dẫn hợp lý tác phẩm............................................................... 65

2.5.5.

Về nhập khẩu bản sao tác phẩm để sử dụng cá nhân ........................... 65


2.5.6. Về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho
người khuyết tật ................................................................................................ 66
2.5.7.
phẩm

Về nghĩa vụ phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác
............................................................................................................ 67

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 68


1

PHẦN MỞ ĐẦU
i) Lý do chọn đề tài
Bối cảnh hội nhập sâu rộng trên toàn cầu bắt buộc các quốc gia phải dành sự
quan tâm đúng mức cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và
quyền tác giả nói riêng. Việc này nhằm khuyến khích các tác giả tiếp tục có những
đóng góp trí tuệ và sức sáng tạo của mình cho đời sống tinh thần của xã hội. Tuy
nhiên, một trong những nội dung cốt lõi của SHTT đó là ngun tắc “Cân bằng lợi
ích”, vốn được thiết kế nhằm bảo vệ quyền tiếp cận và sử dụng tác phẩm của xã hội
và cộng đồng. Trong môi trường giáo dục ở các quốc gia tiên tiến, đặc biệt là các
tác phẩm phục vụ cho việc học tập, tiếp thu tri thức của người học, nguyên tắc “Cân
bằng lợi ích” đã đặt ra nhiều ngoại lệ đối với quyền tác giả. Nhờ đó, một mặt thỏa
mãn được các quyền lợi cá nhân của tác giả, khuyến khích tác giả tiếp tục sáng tạo,
mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho người học được tiếp cận với các tác phẩm được
bảo hộ quyền tác giả, giúp cho nền giáo dục được phát triển lành mạnh, thơng
thống.
Được xây dựng và ban hành trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công
cuộc đổi mới với nhiều nỗ lực gia nhập các tổ chức quốc tế và ký kết các hiệp định

song phương, đa phương, Luật SHTT Việt Nam là kết tinh của sự kế thừa, học hỏi
các nước có nền lập pháp tiên tiến, mang nhiều tư tưởng và giá trị tiến bộ của thế
giới. Trong đó, các quy định về ngoại lệ của quyền tác giả cũng được tiếp thu, tham
khảo có chọn lọc và cập nhật phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Tuy vậy, mặc dù với
lần sửa đổi mới nhất vào năm 2022, hiện nay pháp luật SHTT Việt Nam vẫn chưa
dành sự quan tâm tương xứng cho quyền sử dụng hợp lý tác phẩm nhằm mục đích
học tập dẫn đến nội hàm các quy định về sao chép tác phẩm nhằm mục đích học tập
vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến rủi ro trong việc áp dụng và thi hành pháp luật trên
thực tiễn. Điều đó khơng những làm hạn chế quyền của người học trong việc tiếp
cận với tri thức học thuật và sử dụng các tác phẩm vì mục đích học tập mà còn
khiến cho việc bảo vệ quyền SHTT đối với các tác phẩm khoa học trong môi trường
giáo dục gặp nhiều vướng mắc. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là quốc gia đang
phát triển, mức thu nhập bình quân của đa số người học so với chi phí tài liệu học
tập luôn đặt ra rào cản nhất định cho việc phát triển vốn con người – một trong
những chủ trương được ưu tiên hàng đầu trong tiến trình xây dựng quốc gia cơng
nghiệp, hiện đại, văn minh.
Điều đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải nghiên cứu, đề xuất mở rộng ngoại lệ
quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập theo hướng cho
phép người học được sử dụng hợp lý các tác phẩm phục vụ nhu cầu học tập trong
khuôn khổ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu.
Do đó, người viết chọn đề tài “Ngoại lệ của quyền tác giả đối với việc sử
dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập” để thực hiện Luận văn của mình.
ii) Kết quả khảo sát lịch sử nghiên cứu đề tài
Ngoại lệ của quyền tác giả nói chung và ngoại lệ của quyền tác giả trong việc
sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập từ lâu luôn được các nhà khoa học, các tổ
chức trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu.


2


Ở nước ngồi:
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về ngoại lệ quyền tác giả nói chung và ngoại
lệ quyền tác giả trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. Có thể kể đến các cơng trình như:
“Copyright Exceptions in the United States For Educational Uses of
Copyrighted Works” (Các trường hợp ngoại lệ về bản quyền ở Hoa Kỳ đối với việc
sử dụng tác phẩm có bản quyền cho mục đích giáo dục) của các tác giả June M.
Besek, Jane C. Ginsburg, Philippa Loengard và Yafit Lev-Aretz (2013) thực hiện
theo yêu cầu của Ủy ban Cải cách Luật pháp Úc về bản quyền và nền kinh tế kỹ
thuật số, bài nghiên cứu mơ tả các ngoại lệ chính của quyền tác giả của Hoa Kỳ liên
quan đến việc sử dụng giáo dục các tài liệu được bảo vệ bản quyền. Khi bàn luận về
học thuyết sử dụng hợp pháp của Hoa Kỳ, các tác giả đã liệt kê bốn yếu tố chủ yếu
phải được quan tâm trong các trường hợp được coi là sử dụng hợp pháp các tác
phẩm trong môi trường giáo dục, tuy vậy, các tác giả đã kết luận khơng có cơng
thức (cố định) nào để xác định một trường hợp có phải là sử dụng hợp pháp hay
khơng. Cuối cùng, các tác giả đưa ra các khuyến nghị trong trường hợp luật bản
quyền Úc áp dụng học thuyết và quy định của Hoa Kỳ về ngoại lệ quyền tác giả
trong giáo dục.
Lawrence Liang (2010). Exceptions and Limitations in Indian Copyright
Law for Education: An Assessment. The Law And Development Review, 3(2)
(dịch: Các trường hợp ngoại lệ và hạn chế trong Luật Bản quyền của Ấn Độ dành
cho giáo dục: Một đánh giá). Trong bài viết này, tác giả Lawrence Liang đã xem xét
bản chất của các ngoại lệ trong luật bản quyền trong trường hợp sử dụng tác phẩm
có bản quyền với mục đích giáo dục. Dựa trên các quy định về ngoại lệ quyền tác
giả của Ấn Độ và quốc tế, tác giả trình bày lập luận về sự cần thiết của việc ngoại lệ
quyền tác giả vì nhu cầu được tiếp cận thông tin học thuật của xã hội. Đồng thời, tác
phẩm còn đề cập đến vấn đề bản quyền sẽ khiến cho chi phí học liệu cao, điều này
ảnh hưởng đến tiến trình phát triển nền giáo dục của các quốc gia đang phát triển.
“Intellectual Property “from Below”: Copyright and Capability for
Education” (Sở hữu trí tuệ “từ bên dưới”: Quyền tác giả và khả năng dành cho giáo
dục) của tác giả Margaret Chon. Trong bài báo, tác giả phê phán cách áp dụng

thông dụng các quy tắc SHTT trên phạm vi toàn cầu hiện nay đa phần là "từ trên
xuống", dựa trên lợi ích của các quốc gia có nhiều SHTT. Tác giả đề xuất một cách
tiếp cận SHTT "từ bên dưới", liên kết SHTT với sự công bằng trong phân phối
quyền lợi. Tác giả cho rằng cách tiếp cận này có thể tạo ra nhiều lợi ích cho việc
xây dựng nền giáo dục ở các quốc gia thiếu khả năng tiếp cận đầy đủ với sách giáo
khoa và các tài liệu giáo dục khác. Ngoài ra, tác giả còn đặt ra sự cần thiết của một
nguyên tắc "Bình đẳng thực chất" trong việc thiết lập và giải thích các quy chuẩn về
SHTT trên tồn cầu, trọng tâm của nguyên tắc này là hướng đến quyền truy cập vào
các tài liệu giáo dục của các quốc gia đang phát triển.
“Justifications for Copyright Limitations & Exceptions” (Biện minh cho các
ngoại lệ và ngoại lệ về bản quyền) của tác giả Pamela Samuelson đã thảo luận về
mười luận điểm biện minh cho các giới hạn của quyền tác giả với trọng tâm chính là
luật về sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ. Trong đó, tại phần III.B, tác giả trình bày các điều


3

khoản cho phép sao chép các tác phẩm nhằm mục đích sử dụng cá nhân của luật các
quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản với nỗ lực chứng minh các ngoại lệ quyền tác giả
nằm mục đích sử dụng cá nhân, trong đó có quyền sao chép tác phẩm nhằm các
mục đích như nghiên cứu, học tập ln tồn tại trong luật pháp các nước tiên tiến
trên thế giới. Công trình này này giúp người viết có thêm góc tiếp cận về đề tài dựa
trên góc độ luật pháp các nước, đặc biệt là Hoa Kỳ.
“Copyright Limitations and Exceptions in an E-Education Environment” của
tác giả Maria Daphne Papadopoulou trình bày các giới hạn của quyền tác giả và
phân tích liệu rằng nên thiết kế các giới hạn này như thế nào để áp dụng cho môi
trường giáo dục kỹ thuật số (giáo dục điện tử), ngồi ra, tác giả cịn điểm qua những
vấn đề cơ bản của những ngoại lệ và ngoại lệ được thiết kế đặc biệt cho mục đích
học tập như ngoại lệ trích dẫn và ngoại lệ có lợi cho thư viện. Đồng thời, “bài kiểm
tra ba bước” của giới hạn quyền tác giả sẽ được áp dụng để xem xét mục đích giáo

dục có thể vượt qua được hay không. Nội dung này giúp cho người viết có được góc
nhìn về giới hạn quyền tác giả trong môi trường giáo dục điện tử, đồng thời, kết quả
của phép thử ba bước đối với giới hạn quyền tác giả trong môi trường giáo dục điện
tử giúp tác giả củng cố cơ sở lập luận của mình.
Aplin, T., & Bently, L. (2020). Global Mandatory Fair Use The Nature and
Scope of the Right to Quote Copyright Works. New York: University of Cambridge
ESOL Examinations (dịch: Sử dụng hợp lý bắt buộc trên toàn cầu: Bản chất và
phạm vi của quyền trích dẫn tác phẩm có bản quyền). Mở đầu cuốn sách, Tanya
Aplin và Lionel Bently phân tích tồn diện về lịch sử của các ngoại lệ trích dẫn
trong luật bản quyền quốc tế và phê phán những nhận thức sai lầm về nội hàm của
“trích dẫn”. Sau cùng, dựa trên sự phân tích Điều 10 của Cơng ước Berne quy định
ngoại lệ trích dẫn, Tanya Aplin và Lionel Bently cho rằng quy định này được thiết
kế nhằm hướng đến việc tạo ra một ngoại lệ quyền tác giả cho phép cơng chúng sử
dụng hợp pháp tác phẩm mang tính bắt buộc trên tồn cầu. Cuốn sách này có nhiều
đóng góp trong việc hình thành cơ chế đánh giá các tính hợp lý của các trích dẫn.
Cơ chế này có thể được áp dụng bởi các cơ quan lập pháp và tòa án trong giải quyết
tranh chấp liên quan đến quyền tác giả.
Aufderheide, P., & Jaszi, P. Reclaiming Fair Use: How to Put Balance Back
in Copyright (2nd ed.). University of Chicago Press (dịch: Yêu cầu sử dụng hợp lý:
Cách cân bằng bản quyền). Trong cuốn sách này, Aufderheide và Peter Jaszi biện
minh cho quan điểm sử dụng hợp lý và trình bày chi tiết cách áp dụng quy định về
sử dụng hợp lý tác phẩm để tránh vi phạm bản quyền dành người dân bình thường.
Đồng thời, cuốn sách đề cập đến vấn đề mở rộng phạm vi của việc sử dụng hợp lý.
Liu, J. (2012) Copyright Industries and the Impact of Creative Destruction
(1st ed.). Routledge. Cuốn sách xem xét mối quan hệ giữa việc gia hạn thời gian
bảo hộ bản quyền (như một cách bảo vệ bản quyền lâu dài) và sự phát triển của
ngành xuất bản sách ở Vương quốc Anh với tư cách là một ngành công nghiệp sáng
tạo điển hình dựa vào bản quyền. Đồng thời, tác giả cũng phân tích tác động của
luật và chính sách bản quyền đối với ngành sách và minh họa mối tương tác năng
động giữa việc mở rộng bản quyền và sự phát triển của các ngành công nghiệp sáng



4

tạo bên cạnh việc đánh giá quá trình phát triển lịch sử của việc mở rộng bản quyền
của Vương quốc Anh và cũng xem xét bản quyền trong thời đại kỹ thuật số. Cuốn
sách có đóng góp trong việc việc đề xuất những thay đổi đối với chính sách bản
quyền nhằm tác động đến nền kinh tế thông qua sự đổi mới trong các ngành công
nghiệp.
Balganesh, S., Wee Loon, N., & Sun, H. (Eds.). (2021). The Cambridge
Handbook of Copyright Limitations and Exceptions (Cambridge Law Handbooks).
Cambridge: Cambridge University Press (dịch: Sổ tay Cambridge về Giới hạn và
Ngoại lệ của bản quyền). Cuốn sách cung cấp các luận giải xoay quanh việc mặc dù
luật bản quyền thường chủ yếu quy định độc quyền khai thác tác phẩm dành cho tác
giả nhưng các trường hợp miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với vi phạm bản quyền
(ngoại lệ quyền tác giả) là một phần khơng thể thiếu trong luật bản quyền, nó giúp
cân bằng lợi ích riêng cho tác giả (người sáng tạo) và rộng rãi công chúng. Tác giả
cung cấp một nghiên cứu có hệ thống, kỹ lưỡng về các giới hạn và ngoại lệ bản
quyền được áp dụng tại các khu vực pháp lý chính, bao gồm Hoa Kỳ, Liên minh
Châu Âu và Trung Quốc. Cuốn sách có đóng góp trong việc so sánh những điểm
khác biệt và tương đồng tồn tại ở các khu vực pháp lý chính và đưa ra các đề xuất
về cách cải thiện việc thực thi các giới hạn bản quyền trong nước và trên toàn cầu.
Okediji Ruth L. (Ed.). (2017). Copyright Law in an Age of Limitations and
Exceptions. Cambridge: Cambridge University Press (dịch: Luật bản quyền trong
thời đại của sự giới hạn và các ngoại lệ). Cuốn sách là tập hợp bài viết của các học
giả về bản quyền và xem xét vai trò quan trọng của luật bản quyền trong việc hình
thành mối tương tác xã hội, kinh tế và chính trị phức tạp. Cuốn sách đề cập đến việc
xác định các vấn đề mà luật bản quyền phải đối mặt ngày nay, bao gồm các biện
minh cho các giới hạn và ngoại lệ của luật bản quyền thông qua việc lần lượt đề cập
đến vai trị của tác giả, quyền của cơng chúng, sử dụng hợp lý và bài kiểm tra ba

bước,… Cuốn sách này có đóng góp trong việc biện minh cho giới hạn và ngoại lệ
bản quyền như một chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Ngồi ra cịn một số sách, cơng trình, bài báo khoa học khác,... Tựu chung
lại, các tác phẩm ngồi nước mặc dù có đề cập đến ngoại lệ quyền tác giả trong lĩnh
vực giáo dục, tuy nhiên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chung chung về ngoại lệ và
giới hạn quyền tác giả hoặc ngoại lệ trong môi trường giáo dục với nhiều hoạt động
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học mà khơng chun sâu vào mục đích học
tập hoặc/và quyền sử dụng hợp lý của người học.
Ở trong nước:
Cho đến nay, Việt Nam có nhiều cơng trình, bài báo khoa học liên quan đến
ngoại lệ quyền tác giả trong trường hợp sử dụng vì mục đích học tập. Có thể kể đến
các cơng trình như:
“Quyền sao chép của người học: nhìn từ góc độ quyền sử dụng hợp lý” của
các tác giả Lê Thị Yến, Nguyễn Thị Minh Hạnh, Vũ Văn Tuấn, Đỗ Thị Kim Hương
dựa trên cơ sở lý thuyết về quyền tác giả, đặc biệt là quyền sử dụng hợp lý để đề
xuất quyền sao chép đã đề cập nên được trao cho người học để mở rộng tiếp cận với
tri thức khoa học, nâng cao hiệu quả đào tạo, từ đó thúc đẩy sáng tạo từ phía các


5

chủ thể này đối với kho tàng tri thức của xã hội. Ngồi ra, bài báo cịn đặt ra các
biện pháp kiểm soát vẫn phải được để tránh tổn hại đến lợi ích của tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả.
Luận án “Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet” của
tác giả Võ Trung Hậu tại mục 3.3.1 có trình bày về thực trạng pháp luật về ngoại lệ
quyền sao chép nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy trực tuyến và kiến nghị. Theo
đó, tác giả cho rằng quyền sao chép và ngoại lệ của quyền sao chép trong mơi
trường Internet nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy trực tuyến sẽ đối diện nhiều
vấn đề khác với mơi trường vật chất hữu hình. Do đó, tác giả nêu một số kiến nghị

hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ, trong đó kiến nghị mở rộng khái niệm sao chép
và đề cập đến yếu tố phi thương mại cần phải được xem xét như là một trong những
yếu tố để áp dụng các điều khoản về giới hạn quyền tác giả trong môi trường giáo
dục.
“Quyền sao chép và trích dẫn tác phẩm trong mơi trường giáo dục” của tác
giả Nguyễn Trọng Luận (2021) phân tích những quy định của Luật SHTT Việt Nam
hiện hành liên quan đến quyền sao chép và trích dẫn tác phẩm trong mơi trường
giáo dục, đồng thời chỉ ra một số bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện trên cơ sở
tham khảo kinh nghiệm từ Pháp, Hoa Kỳ và một số quốc gia khác. Tác giả đề xuất
xem xét và ghi nhận việc cho phép sao chép một phần tác phẩm cho mục đích học
tập của cá nhân với một tỷ lệ hợp lý. Ngồi ta, tác giả cho rằng một “trích dẫn”
được coi là “trích dẫn hợp lý” khi nó thỏa mãn các căn cứ sau: (i) Mục đích của việc
trích dẫn: nhằm giới thiệu, bình luận, làm sáng tỏ vấn đề hoặc nhằm mục đích thơng
tin về tác phẩm; (ii) Khối lượng phần trích dẫn: khối lượng phần trích dẫn là không
đáng kể trong tổng thể tác phẩm gốc; (iii) Yêu cầu của việc trích dẫn: Phần trích dẫn
từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn khơng gây phương hại đến quyền tác giả đối
với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn và khơng làm ảnh hưởng đến việc khai thác
bình thường tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; (iv) Việc trích dẫn tác
phẩm của người khác phải kèm theo việc chú thích rõ ràng nguồn trích dẫn; (v)
Nguồn trích dẫn phải là hợp pháp (tức tác phẩm được sử dụng để trích dẫn phải
được công bố một cách hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả).
“Ngoại lệ trong sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam” của các tác giả
Bùi Thị Hằng Nga, Lê Thị Diễm đã làm rõ một số hạn chế, bất cập của các quy định
về ngoại lệ quyền tác giả trong sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam khiến
cho khả năng được tiếp cận tri thức, tiếp cận những tác phẩm phục vụ cho nhu cầu
cá nhân, đặc biệt là học tập sẽ ngày hạn chế. Đồng thời, tác giả gợi mở những điều
chỉnh, bổ sung quy định về SHTT theo hướng mở rộng các trường hợp ngoại lệ
trong sao chép tác phẩm cho mục đích cá nhân và phục vụ học tập như quy định của
đa số các quốc gia khác.
Ngồi ra cịn một số sách, cơng trình, bài báo khoa học khác,... Cũng như các

cơng trình nghiên cứu nước ngồi, mặc dù có sự phân tích sâu sắc và phù hợp với
bối cảnh thực tế tại Việt Nam hơn, song các cơng trình trong nước vẫn chưa có sự
hệ thống, phân tích sâu sắc, đúc kết từ lý luận đến thực trạng pháp luật về ngoại lệ
quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập.


6

iii) Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Các vấn đề cơ bản về ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm
nhằm mục đích học tập thơng qua việc phân tích cơ sở lý thuyết và quy định pháp
luật quốc tế.
Trình bày thực trạng quy định pháp luật SHTT Việt Nam về các trường hợp
ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập. Đồng
thời phát hiện, trình bày một số bất cập trong các quy định về ngoại lệ quyền tác giả
đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập.
iv) Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu và làm rõ trọng tâm, đối tượng nghiên cứu, Luận văn
ngoại lệ về phạm vi nghiên cứu như sau:
Về nội dung: Trong phạm vi của Luận văn, người viết xác định trọng tâm
nghiên cứu là ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích
học tập.
Về phạm vi lãnh thổ: Luận văn nghiên cứu dựa trên phân tích các điều ước
quốc tế về quyền tác giả như Công ước Berne, Hiệp định TRIPS, Hiệp ước
WTC,…, pháp luật về quyền tác giả tại Việt Nam và tập trung vào các tiêu chí sử
dụng hợp lý và xử sự hợp lý trong pháp luật một số quốc gia khác.
v) Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp
chính sau:
Phương pháp so sánh pháp luật: Luận văn sử dụng phương pháp này để so

sánh pháp luật của các quốc gia trong việc quy định về ngoại lệ quyền tác giả; so
sánh và nghiên cứu tính phù hợp với các điều ước quốc tế của pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, phương pháp này còn giúp người viết so sánh được vấn đề ngoại lệ
quyền tác giả ở các thời kỳ phát triển khác nhau của Luật SHTT Việt Nam.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận văn sử dụng hai phương pháp chủ
yếu xuyên suốt đề tài là phân tích và tổng hợp. Phương pháp phân tích để làm rõ
bản chất, đặc điểm của các vấn đề lý luận về ngoại lệ quyền tác giả, thực trạng quy
định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và phát hiện những bất cập cùng với đề
xuất những kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật. Phương pháp tổng hợp được
sử dụng để khái quát hóa các vấn đề đã được phân tích.
vi) Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận
Luận văn có các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận trong việc xác
định cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam về ngoại lệ và thiên hướng cho phép sử
dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập trong pháp luật về quyền tác giả từ trước đến
nay, bên cạnh việc giải thích cách thức quyền tự do ngơn luận tại Hiến pháp biện
minh cho ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục đích học tập trong luật về quyền tác giả.
Đồng thời, Luận văn phân tích các yếu tố trong từng trường hợp ngoại lệ quyền tác
giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập và chỉ ra các bất cập cùng
với việc đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật.


7

CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGOẠI LỆ
CỦA QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG TÁC PHẨM
NHẰM MỤC ĐÍCH HỌC TẬP
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngoại lệ của quyền tác giả đối với việc sử dụng
tác phẩm nhằm mục đích học tập
1.1.1. Khái niệm ngoại lệ của quyền tác giả và các cách tiếp cận khái

niệm học tập
1.1.1.1. Về khái niệm ngoại lệ của quyền tác giả
Theo cách hiểu thông thường, “ngoại lệ” (exception) là những thứ “nằm
ngoài cái chung”1. Ngoại lệ của quyền tác giả (exceptions to copyright) chỉ những
trường hợp đặc thù mà ở đó, người khác được sử dụng tác phẩm mà không cần phải
quan tâm đến ý chí của tác giả có đồng ý với việc sử dụng đó hay khơng. Từ đây,
những hành vi sử dụng tác phẩm có dựa trên việc tác giả khơng có kiểm sốt các
quyền của mình đối với tác phẩm sau khi Nhà nước sử dụng quyền lực công cộng
đặc biệt của mình giải phóng cơng chúng khỏi độc quyền khai thác tác phẩm của tác
giả được gọi là “ngoại lệ” của quyền tác giả. Dưới một góc nhìn khác, việc sử dụng
tác phẩm mà khơng có sự đồng ý của tác giả vốn dĩ là trái phép, nhưng nó trở nên
hợp pháp sau các đạo luật của nhà nước ban hành cho phép công chúng sử dụng tác
phẩm trong một số trường hợp cụ thể đặc biệt, song song với việc bảo hộ quyền tác
giả. Và do đó, nó được xem như các ngoại lệ của quyền tác giả. Dĩ nhiên, các ngoại
lệ này chỉ được tiến hành trong một số trường hợp nhất định và theo quy định pháp
luật của chính quyền sở tại.
Từ đó, có cơ sở cho rằng ngoại lệ của quyền tác giả là các quy định pháp luật
cho phép công chúng sử dụng tác phẩm mà không cần sự cho phép của tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả. Mặc dù cùng có chung cách hiểu này, song không phải pháp
luật nước nào cũng sử dụng cụm từ “ngoại lệ”. Thuật ngữ “ngoại lệ” tồn tại trong
pháp luật Bỉ, Úc nhưng tại Đức và Tây Ban Nha, nó được dùng chung với thuật ngữ
“giới hạn” (limitation); trong khi Thụy Sĩ sử dụng thuật ngữ “hạn chế” (restriction)
thì Vương quốc Anh gọi là “hành vi được phép” (authorized acts),... Sự đa dạng này
còn xảy ra ở nhiều các quốc gia khác. Việt Nam có cách tiếp cận dung hợp giữa các
khái niệm “ngoại lệ” và “giới hạn” (sẽ được phân tích chi tiết tại phần 1.3.1 dưới
đây) thông qua việc xem “ngoại lệ” là một phần thuộc về “giới hạn”. Trong nghiên
cứu, các học giả Việt Nam xem các khái niệm “ngoại lệ”, “hạn chế” hay “giới hạn”
là tương đồng nhau, như Trần Văn Nam (2014) viết “các ngoại lệ của độc quyền
hay còn gọi là các hạn chế của quyền tác giả”2.
Tóm lại, ngoại lệ của quyền tác giả có nhiều cách biểu đạt về mặt ngơn từ,

tùy theo văn hóa pháp lý của mỗi quốc gia nhưng về bản chất, nó vẫn đề cập đến
hành vi sử dụng tác phẩm được thực hiện bởi những người khơng phải là tác giả hay
Hồng Phê và các tác giả khác (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, tr. 683
Trần Văn Nam và các tác giả khác (2014), Quyền tác giả ở Việt Nam: Pháp luật và thực thi, NXB. Tư pháp,
tr. 70
1
2


8

chủ sở hữu quyền. Trong các phần sau, người viết sử dụng duy nhất thuật ngữ ngoại
lệ nhưng khơng vì thế mà các quy định có sử dụng các thuật ngữ giống hoặc tương
tự về ngữ nghĩa (như đã liệt kê) bị bỏ qua.
Một số tranh cãi xảy ra xung quanh việc liệu có nên dùng thuật ngữ “quyền
của cơng chúng” thay cho “ngoại lệ”. Ý kiến này được đề xuất bởi những người ủng
hộ việc mở rộng quyền của công chúng đối với việc sử dụng tác phẩm. Họ nhấn
mạnh việc sử dụng tác phẩm không cần sự đồng ý của tác giả một cách hợp pháp
chính là “quyền của công chúng” (rights of the public). Tuy vậy, lập luận của
Burrell. R., & Coleman. A (2005) cho rằng cần xét đến mục đích ban đầu của việc
thiết lập các “ngoại lệ” là nhằm phát huy lợi ích chung của xã hội do đó, sẽ khơng
đúng khi mơ tả các quy định về các ngoại lệ quyền tác giả là “quyền của người
dùng”3. Các tác giả như Nguyễn Thị Bích Ngọc và Nguyễn Thái Cường (2022) lập
luận về nguyên tắc, quyền tác giả là độc quyền của tác giả và chỉ trong một số
trường hợp nhất định, tính chất độc quyền của tác giả mới có ngoại lệ4. Người viết
cho rằng cần giữ nguyên thuật ngữ “ngoại lệ”, bởi lẽ bản chất của việc sử dụng tác
phẩm nằm ngoài ý chí của tác giả nhằm mục đích cơng lợi dựa trên sự cho phép của
pháp luật ở mức độ tối thiểu và các điều kiện ràng buộc mang tính hạn chế. Trong
trường hợp này, tác giả lâm vào tình trạng khơng thể chống cự khi đứng trước lợi
ích của số đông quần chúng trong xã hội. Việc mở rộng các ngoại lệ này đồng nghĩa

xâm phạm vào quyền và lợi ích chính đáng của tác giả phát sinh từ công sức lao
động của mình, và chỉ được thực hiện trong một số trường hợp ngặt nghèo. Đồng
thời, các ngoại lệ cũng đến từ sự san sẻ quyền lợi của cá nhân tác giả cho cộng đồng
(đáng được công nhận). Cho nên không thể xem các ngoại lệ như là quyền của cơng
chúng để có thể thực hiện một cách đương nhiên.
Với lần sửa đổi, bổ sung mới nhất vào năm 2022, Luật SHTT Việt Nam dành
hai điều luật quy định về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả
(Điều 25) và các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho
người khuyết tật (Điều 25a). Trong suốt nội dung Điều 25, Luật SHTT không đề
cập đến “quyền”, tuy nhiên đến Điều 25a, luật này lại ghi nhận “quyền sao chép,
biểu diễn, truyền đạt tác phẩm” của người khuyết tật và người ni dưỡng, chăm
sóc cho người khuyết tật. Điều này khiến dẫn đến cách hiểu Luật SHTT Việt Nam
một lần nữa lại dung hợp hai góc độ tiếp cận giữa “ngoại lệ” và “quyền của công
chúng” đối với các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền bản quyền (ngoại lệ quyền tác giả).
1.1.1.2. Về khái niệm học tập và các cách tiếp cận
Về mặt từ nguyên, “học” là “thu nhận kiến thức, rèn luyện kĩ năng do người
khác truyền lại”5 và “học tập” là “học và luyện tập để hiểu biết, để có kĩ năng”6.
3

Burrell. R., & Coleman. A, (2005), Copyright Exceptions: The Digital Impact, Cambridge Univ. Press, p.
10
4
Nguyễn Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thái Cường (2022), “Cam kết về cân bằng quyền tác giả của chủ thể
quyền tác giả và lợi ích của cơng chúng trong EVFTA và quy định các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm
quyền tác giả trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 05 (153), tr. 51
5
Hoàng Phê và các tác giả khác (2003), tlđd (1), tr. 453
6
Hoàng Phê và các tác giả khác (2003), tlđd (1), tr. 454



9

Rogers (1969) cho rằng học tập (learning) là quá trình đạt được sự hiểu biết, kiến
thức, kỹ năng và sở thích mới7. Một số tài liệu và luật bản quyền các nước có thể đề
cập trực tiếp đến “học tập” (study; learning) hoặc “nghiên cứu” (research) trong các
quy định đặt ra ngoại lệ cho giáo dục nói chung và học tập, nghiên cứu nói riêng8.
“Nghiên cứu” được mơ tả là hoạt động “xem xét, tìm hiểu kĩ lưỡng để nắm
vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết mới”9. Xét về mục
đích, giữa học tập và nghiên cứu cùng có chung mục đích là tìm kiếm tri thức. Về
mặt pháp lý, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có định nghĩa rõ ràng nhằm phân
biệt hai khái niệm này. Tham khảo quyết định của Tòa án Liên bang Úc trong vụ De
Garis kiện Neville Jeffress Pidler Pty Ltd để thấy rằng “học tập” được hiểu là “ứng
dụng của trí óc vào việc tiếp thu kiến thức, bằng cách đọc, thăm dò hoặc suy ngẫm”
và “nghiên cứu” được hiểu là “tìm hiểu hoặc thăm dị một cách có thể thống về một
chủ đề nhất định nhằm khám phá các hiện tượng hoặc nguyên tắc”10.
Như vậy, hai khái niệm này có sự giao thoa nhất định với nhau về nội hàm,
chưa có ranh giới phân biệt. Cách hiểu rạch rịi giữa chúng tùy thuộc vào văn hóa
pháp lý tại mỗi nơi và tùy từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn trong khi Điều 31 (1)
Luật Bản quyền Hàn Quốc và Điều 35 (1A) Luật Bản quyền Singapore dùng cụm từ
“nghiên cứu và học tập” (research and study) thì Điều 31 (1) (i) Luật Bản quyền
Nhật Bản và các Điều 40, 103C Luật Bản quyền Úc nhắc đến “nghiên cứu hoặc học
tập” (research or study). Điều này dẫn đến tình trạng pháp luật được áp dụng một
cách linh hoạt tùy theo cách hiểu và giải thích pháp luật của cơ quan nhà nước khi
giải quyết tranh chấp. Các quy định thiết lập ngoại lệ quyền tác giả cho hoạt động
nghiên cứu có thể được áp dụng cho học tập (nếu luật bản quyền chỉ đề cập đến
nghiên cứu) khi bản chất của hoạt động học tập cụ thể có thể mang tính chất của
hành vi nghiên cứu.
1.1.2. Cơ sở của ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm

nhằm mục đích học tập
1.1.2.1. Nguyên tắc “cân bằng lợi ích” trong luật sở hữu trí tuệ và
các lý thuyết nền tảng
Nguyên tắc “cân bằng lợi ích” (balance of interests) cho rằng các quyền tác
giả không phải là điều tuyệt đối, nó đề cập đến sự cân bằng giữa quyền và lợi ích
mà tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả được thụ hưởng từ việc khai thác tác phẩm
và lợi ích rộng lớn hơn của cộng đồng xã hội (lợi ích cơng cộng). Theo Harrison
(2018), sở hữu trí tuệ (cịn được ơng gọi với cái tên khác là “sở hữu các ý tưởng”
(ownership of ideas) – một dạng quyền sở hữu) cần đáp ứng nhiều mục tiêu đa
7

Rogers, C.R. (1969), Freedom to Learn: A View of what Education Might Become, C. E. Merrill Publishing
Company, p. 3-8
8
Luật bản quyền các nước gần gũi với Việt Nam tại khu vực Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,…)
cũng sử dụng các thuật ngữ tương tự nhau, như: nghiên cứu, khoa học (science), nghiên cứu khoa học
(scientific research), giảng dạy và nghiên cứu khoa học (teaching and scientific research), nghiên cứu hoặc
học tập cá nhân (research or private study) khi đặt ra ngoại lệ quyền tác giả trong việc sử dụng tác phẩm
nhằm mục đích học tập, nghiên cứu.
9
Hoàng Phê và các tác giả khác (2003), tlđd (1), tr. 680
10
De Garis, B.K. v Neville Jeffress Pidler Pty Ltd, [1990] FCA 352; 37 FCR 99; 18 IPR 292


10

dạng: vừa bảo đảm phần thưởng công bằng cho người sáng tạo, vừa phổ biến các ý
tưởng và sản phẩm mà xã hội có nhu cầu rất lớn ở mức rộng rãi nhất có thể11. Theo
truyền thống luật SHTT, quyền tự do kinh tế đối với các sản phẩm trí tuệ (mà ở đây

là các tác phẩm dùng trong việc học tập) được hy sinh vì lợi ích lớn hơn của cộng
đồng. Quan điểm của Pound (1915) nhấn mạnh đến sự ưu tiên của lợi ích xã hội
hơn là lợi ích cá nhân vì “lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích cá nhân thì pháp luật
phải bảo đảm cho lợi ích xã hội”12. Đồng tình với quan điểm này, Reynolds (2010)
cho rằng quyền tự do kinh tế đối với các tác phẩm được hy sinh vì lợi ích lớn hơn
của cộng đồng, thậm chí ngay cả lợi ích kinh tế của người dân cũng có thể bị hy
sinh khi lợi ích của nhà nước bị đe dọa13. Tương tự, nhiều tác giả đồng ý rằng quyền
tác giả cũng là một dạng độc quyền, do đó, nó có những mặt hạn chế của độc
quyền14. Nhìn chung, các học giả đều cho rằng tác giả cần chia sẻ độc quyền khai
thác tác phẩm của mình đến cơng chúng nhằm mục tiêu lợi ích cơng cộng mà ở đó,
tác giả cũng là một thành viên và là người thụ hưởng các lợi ích chung đó. Điều này
được áp dụng đối với các tác giả và tác phẩm của họ được sử dụng nhằm mục đích
học tập. Tương tự, việc “cần thiết phải duy trì sự cân bằng giữa quyền của tác giả và
lợi ích cơng cộng, đặc biệt là trong giáo dục, nghiên cứu và tiếp cận thông tin” được
ghi tại Phần mở đầu của Hiệp ước Bản quyền của Tổ chức SHTT Thế giới (the
WIPO Copyright Treaty). Có thể nói, nguyên tắc cân bằng lợi ích là cơ sở ban đầu
hình thành các ngoại lệ của quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác
phẩm dùng trong mục đích học tập nói riêng, nó có vai trị giải thích sự hợp lý của
các hành vi khai thác do người khác thực hiện đối với tác phẩm mà không cần sự
cho phép của tác giả, được đặt trên nền tảng một số lý thuyết trình bày dưới đây.
Có nhiều lý thuyết ủng hộ nguyên tắc cân bằng lợi ích trong luật SHTT (mà
quyền tác giả là bộ phận quan trọng), ở đây, người viết phân tích ba lý thuyết chủ
yếu hiện đang nhận được nhiều sự ủng hộ và chiếm ưu thế, gồm: (1) Lý thuyết giá
trị lao động (Labor Theory Of Value) được đặt nền móng bởi W. Petty và J. Locke,
(2) Thuyết công lợi (Utilitarian Theory) của J. Bentham và J. S. Mill và (3) Lý luận
kinh tế và pháp luật (Law and Economic Argument) được phát triển bởi W. M.
Landes và R. A. Posner15.
Đầu tiên, Lý thuyết giá trị lao động của Locke (Lý thuyết Lockean) mơ tả
những gì do một người sản xuất bằng cách sử dụng sức lao động của mình thì phải
để người đó hưởng thụ thành quả. Tuy nhiên, Locke phản đối hành vi sử dụng lãng

phí tài sản. Trong tác phẩm “Second Treatise of Government” [dịch: Khảo luận thứ
hai về chính quyền] ơng viết: “Nothing was made by God for Man to spoil or
Harrison, S (1992), “Ritual as intellectual property”, Man, 27(2), p. 235–236
Pound, R. (1915), “Interests of Personality”, Harvard Law Review, 28(4), p.344.
13
Reynolds, R (2010), “The Police Logic of Balancing the Interests in Copyright Law”, The Journal of Law
and Social Justice, 5, p. 3
14
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Lê Nết & Nguyễn Xuân
Quang, NXB. Hồng Đức, tr. 36-37
15
Một cách sắp xếp khác từ Fisher (2001) gồm: Thuyết vị lợi, lý thuyết giá trị lao động, thuyết nhân vị và lý
thuyết kế hoạch hóa xã hội. Xem thêm: Fisher, W., “Theories of Intellectual Property”, New essays in the
legal political theory of property, Cambridge: Cambridge Univ. Pr, 2001, p. 173.
11
12


11

destroy. [dịch: Khơng có gì được Thượng đế tạo ra cho con người để rồi lại hư hỏng
hay lãng phí vơ ích.]”16. Định nghĩa về “lãng phí”, theo Lý thuyết Lockean, sẽ xảy
ra khi một đơn vị sản phẩm lao động không được sử dụng (Damstedt, 2003)17, đặc
biệt là đối với các sản phẩm vơ hình thì sự lãng phí là khơng giới hạn. Theo Locke,
chế tài của lãng phí hàng hóa là người sản xuất bị tước quyền sở hữu về phần sản
phẩm bị lãng phí18. Ngồi ra, quan điểm của Locke cũng nhấn mạnh đến việc người
lao động cần dùng một số lượng đủ cho mục đích sử dụng chung. Đây chính là cơ
sở lý thuyết Lokean ủng hộ cho sự cân bằng lợi ích của luật SHTT, với trọng tâm là
chủ sở hữu quyền SHTT độc quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ sẽ khiến sản phẩm bị
lãng phí và gây hại cho chính bản thân mình.

Tiếp đến, thuyết vị lợi một mặt cho rằng cần phải bảo vệ quyền SHTT của
người sáng tạo (tác giả), nếu không sẽ khiến cho sự sáng tạo trong xã hội khơng cịn
sức sống. Tuy vậy, thuyết vị lợi quan tâm nhiều đến người thụ hưởng hơn người sản
xuất và tương tự, nó quan tâm đến phần đơng thành viên xã hội hơn là người sáng
tạo, với quan điểm các sản phẩm trí tuệ (tác phẩm) sẽ được tối ưu hóa khi được sử
dụng bởi cộng đồng trong một số trường hợp, dĩ nhiên là trong một chừng mực có
thể. Thuyết vị lợi cung cấp cho các nhà lập pháp nguyên tắc thực dụng (utilitarian
guideline) có vai trị là tư tưởng chỉ đạo khi định xây dựng các quy định về quyền
tài sản. Nguyên tắc này buộc luật SHTT được thiết kế theo hướng tối đa hóa phúc
lợi xã hội rịng (net social welfare). Những người ủng hộ thuyết vị lợi kêu gọi các
nhà lập pháp chọn hệ thống các quy tắc tối đa hóa phúc lợi tổng hợp (Fisher,
2001)19.
Các nhà ủng hộ Lý luận kinh tế và pháp luật bày tỏ sự lo lắng khi tài sản trí
tuệ khơng được bảo hộ sẽ khiến nhu cầu của thị trường không được đáp ứng, vì
người sáng tạo khơng cịn động lực sáng tạo. Tuy vậy, chính quyền cần xem xét cân
bằng lợi ích của tất cả các bên liên quan sẽ bị ảnh hưởng bởi sự độc quyền khai thác
của người sáng tạo. Posner, R. A (2005) kỳ vọng rằng luật sẽ cho phép một người
sao chép tác phẩm khi chưa được tác giả cho phép vì “lý do kinh tế chính đáng”
(good economic reasons). Đồng thời, Posner cho rằng các thẩm phán có thể phán
quyết rằng việc sao chép tác phẩm là hành vi hợp pháp nếu người sao chép đã nỗ
lực liên hệ và thương lượng với chủ sở hữu bản quyền nhưng không thành công20.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lý luận này cũng lo ngại việc sao chép khơng giới
hạn có thể sớm làm cạn kiệt giá trị xã hội của tác giả và tác phẩm (Landes và
Posner, 2003)21. Có thể thấy, cân bằng giữa lợi ích cá nhân của tác giả và lợi ích
cộng đồng ln là thách thức to lớn đối với các nhà làm luật và các thẩm phán.
16

Locke, J. (1824), Two Treatises of Government, London: Printed for C. and J. Rivington, p. 148
Damstedt, B. G. (2003), “Limiting Locke: A Natural Law Justification for the Fair Use Doctrine”, The Yale
Law Journal, 112(5), p. 1194

18
Locke, J (1824), tlđd (5), tr. 150-152
19
Fisher, W., tlđd (5), tr. 177.
20
Posner, R. (2005), “Intellectual Property: The Law and Economics Approach”, Journal Of Economic
Perspectives, 19(2), p. 62-63.
21
Landes, W., & Posner, R. (2003), The Economic Structure of Intellectual Property Law, The Belknap Press
of Harvard University Press, p. 225
17


12

Ngồi những lý thuyết trên đây, có nhiều lý thuyết khác biện minh cho các
ngoại lệ của quyền tác giả đối với tác phẩm, chẳng hạn như thuyết nhân vị
(personhood theory) và lý thuyết về lợi ích xã hội (social benefit theory). Lý thuyết
nhân vị được đưa ra bởi I. Kant và G. Hegel, các ông cho rằng khi sử dụng sức lao
động để tạo nên sản phẩm trí tuệ, người lao động cũng đồng thời chuyển hóa một
phần nhân cách của mình vào trong sản phẩm trí tuệ. Nói cách khác, sản phẩm trí
tuệ hàm chứa nhân cách của người tạo ra nó. Vì vậy, tác giả có quyền kiểm soát
tuyệt đối, bất khả xâm phạm đối với tác phẩm của họ cùng với các quyền khác, bao
gồm quyền phổ biến tác phẩm (right of dissemination). Điều này dẫn đến kết luận
ngoài việc được tạo ra, các tác phẩm sáng tạo phải được đọc hoặc chia sẻ với cộng
đồng, từ đó sẽ hỗ trợ cho quyền phổ biến (Yoo, 2018)22. Lý thuyết về lợi ích xã hội
e ngại rằng sự độc quyền sử dụng tài sản trí tuệ của tác giả sẽ là bất lợi cho xã hội
và theo Mtima (2009), “xã hội sẽ khơng có nhiều sự đổi mới sáng tạo như kỳ
vọng”23. Cũng theo Mtima, mục đích cuối cùng của việc xác định các ngoại lệ và
giới hạn của quyền tác giả là để đảm bảo lợi ích cơng cộng bởi vì nó cho phép các

tác phẩm nghệ thuật được hòa nhập vào xã hội (the assimilation of artistic works
into society), và đó là mục tiêu cuối cùng của luật bản quyền24.
Đây là các cơ sở để các luật bản quyền cho phép công chúng được tiếp cận
và sử dụng tác phẩm một cách tự do mà không cần sự đồng ý của tác giả hoặc chủ
sở hữu quyền tác giả, còn được gọi là ngoại lệ của quyền tác giả, dĩ nhiên là với một
mức độ nhất định và trong một phạm vi nhất định. Tuy nhiên, như đã trình bày, cả
hai việc trao cho tác giả độc quyền kiểm soát tác phẩm hay cho phép công chúng
tiếp cận tác phẩm đều là hai đầu của thái cực. Bởi lẽ, sự độc quyền của tác giả là
phần thưởng chính đáng cho cơng sức sáng tạo, từ đó khuyến khích các thành viên
xã hội tiếp tục nỗ lực lao động trí óc để sản sinh ra các tài sản trí tuệ làm giàu cho
xã hội. Tuy nhiên, tổng phúc lợi xã hội sẽ bị hạn chế nếu công chúng không được
phép sử dụng tác phẩm khi chưa được sự đồng ý của tác giả. Ở chiều ngược lại, việc
đề ra các ngoại lệ của quyền tác giả có thể giúp tổng phúc lợi xã hội được bảo đảm,
bản thân giá trị tác phẩm được bảo tồn và phát triển ở mức cao nhất có thể, và bản
thân tác giả cũng được thụ hưởng một phần lợi ích nhất định khi chia sẻ tác phẩm
của mình cho xã hội. Tuy vậy, nó ẩn chứa rủi ro tác phẩm bị chiếm đoạt hoặc các
ngoại lệ bị lạm dụng khiến xã hội mất dần động cơ sáng tạo. Cotter (2008) đã chỉ ra
việc cho phép công chúng tiếp cận tác phẩm hứa hẹn mang lại lợi ích xã hội đáng kể
nhưng cũng gặp phải vấn đề về khả năng chiếm đoạt25, đặc biệt là đối với các tác
phẩm học thuật trong môi trường đại học – nơi mà việc sử dụng tác phẩm được diễn
ra thường xuyên.

Yoo, Christopher S. (2018), “Self-Actualization and the Need to Create as a Limit on Copyright”, Public
Law Research Paper, 18-42, p. 7
23
Lateef Mtima (2009), “Copyright Social Utility and Social Justice Interdependence: A Paradigm for
Intellectual Property Empowerment and Digital Entrepreneurship”, West Virginia Law Review, 112, p. 7
24
Lateef Mtima (2009), tlđd (13), tr. 7
25

Cotter, T (2008), “Fair Use and Copyright Overenforcement”, SSRN Electronic Journal, 93, p.1289.
22


13

Trình bày trên đây cho thấy nguyên tắc cân bằng lợi ích trong luật SHTT, với
các cơ sở lý thuyết như đã phân tích, là một trong các cơ sở giúp hình thành nên các
ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập.
1.1.2.2. Quyền tự do ngôn luận
Ngày nay, quyền tự do ngôn luận (freedom of expression) là điều kiện bắt
buộc đối với bất kỳ xã hội dân chủ nào. Khảo sát các quy định về quyền tự do ngôn
luận trong luật quốc tế sau đây dẫn đến kết luận: Quyền tự do ngôn luận không chỉ
được hiểu là quyền tự do biểu đạt ý kiến mà còn là quyền tiếp cận, thu nhận thơng
tin và do đó, nó xảy ra sự va chạm nhất định với độc quyền khai thác tác phẩm của
tác giả. Từ đó, giúp hình thành và hồn thiện các ngoại lệ quyền tác giả nói chung
và các ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục đích học tập nói riêng.
Trên phạm vi tồn cầu: Được ghi nhận tại Điều 19 của Tuyên ngôn Nhân
quyền năm 1948 của Liên hợp quốc, quyền tự do ngôn luận được phát biểu là quyền
tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm của mọi người. Đồng thời, quyền này
bao gồm quyền khơng bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm
kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông
không kể biên giới quốc gia. Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 vốn không đề cập
đến các nghĩa vụ và trách nhiệm khi sử dụng quyền tự do ngôn luận cho nên, theo
Tuyên ngôn này, những hành vi như: quan niệm, phát biểu, tìm kiếm, tiếp nhận và
phổ biến thơng tin được diễn ra trong sự tự do không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ nào
trong khi mỗi hành vi giữa chúng đều chứa đựng khả năng xâm nhập vào độc quyền
sử dụng tác phẩm của tác giả.
Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm
1966 quy định “Mọi người có quyền tự do ngơn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm

kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến…”, khơng dừng lại ở đó, ICCPR
giới hạn các quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt được
quy định trong pháp luật và là cần thiết nhằm “tơn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác” và “bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo
đức của xã hội”. Như vậy, theo ICCPR, các quyền thuộc quyền tự do ngôn luận cần
phải được đặt trong khuôn khổ của những nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý nhằm
các mục tiêu đảm bảo quyền của người khác, duy trì sự an tồn, đạo đức, ổn định và
trật tự xã hội. Từ đây, các ngoại lệ của quyền tác giả (dựa trên các quyền thuộc
quyền tự do ngôn luận) nên được xây dựng theo hướng có khn khổ hợp lý, cân
bằng giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân của tác giả.
Ở cấp độ khu vực: Tại Châu Âu, Công ước châu Âu về Nhân quyền
(CPHRFF) năm 1950 quy định về quyền tự do ngôn luận (tại Điều 10) gồm “quyền
tự do đưa ra ý kiến, nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng mà không bị can thiệp
bởi cơ quan công quyền và bất kể biên giới. Tuy nhiên, các quyền này đi kèm với
nghĩa vụ “có thể phải tuân theo các thủ tục, điều kiện, hạn chế hoặc hình phạt theo
quy định của pháp luật và cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh
quốc gia, trật tự an tồn cơng cộng, để ngăn ngừa bạo loạn hoặc tội phạm, để bảo vệ
sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, để bảo vệ danh tiếng hoặc quyền của người khác, để
ngăn chặn việc tiết lộ bí mật, hoặc để duy trì quyền hạn và sự cơng bằng của tịa


14

án”. Tương tự CPHRFF, Hiến chương các Quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu
(CFR) năm 2000 quy định “Mọi người đều có quyền tự do ngơn luận. Quyền này sẽ
bao gồm quyền tự do đưa ra ý kiến và nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng mà
không bị can thiệp bởi cơ quan công quyền và bất kể biên giới” (Điều 11).
Thực tiễn xét xử tại các tòa án Châu Âu, chẳng hạn phán quyết của Tòa án
trong vụ án Handyside kiện Vương quốc Anh (1976) đã nhận định tự do ngôn luận
là một trong những nền tảng thiết yếu của một xã hội dân chủ, là một trong những

điều kiện cơ bản cho sự tiến bộ của xã hội và cho sự phát triển của mọi người.
Ngược lại, Tòa án cũng nhận định bất kỳ ai thực hiện quyền tự do ngơn luận của
mình đều đảm nhận “nghĩa vụ và trách nhiệm”26. Riêng lĩnh vực quyền tác giả,
trong vụ án Müller và những người khác kiện Thụy Sĩ (1988), Tòa án đã xác định
quyền tự do ngôn luận bao gồm cả quyền tự do biểu đạt nghệ thuật27 – một quyền
liên quan đến quyền tác giả đối với các tác phẩm có thể được trình diễn, điều tương
tự được tìm thấy trong cụm từ “dưới hình thức nghệ thuật” tại Điều 19.2 ICCPR.
Quyền tự do ngôn luận cịn thể hiện ở quyền tìm kiếm và nhận thơng tin, phán quyết
của Tịa án đối với vụ Magyar Helsinki Bizottsag kiện Hungary (2016) cho chúng ta
biết điều đó. Trong vụ án này, Tòa án đã lập luận rằng việc tiếp cận thông tin là một
yếu tố thiết yếu trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận và là một phần của việc
thu thập thông tin hợp pháp vì lợi ích cơng cộng với mục đích truyền tải thơng tin
đó đến cơng chúng28.
Tại Châu Phi, Điều 9 Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền
dân tộc năm 1986 quy định “Mọi cá nhân đều có quyền nhận thơng tin” và “Mọi cá
nhân có quyền bày tỏ và phổ biến ý kiến của mình trong khn khổ pháp luật”.
Tuyên bố về các Nguyên tắc về Tự do Ngôn luận ở Châu Phi năm 2002 ghi nhận
“Quyền tự do ngơn luận và thơng tin, bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền
đạt thông tin và ý tưởng... là quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người và là
một thành phần không thể thiếu của nền dân chủ”. Dễ dàng nhận thấy các quy định
cho phép “nhận thông tin”, “truyền đạt thông tin và ý tưởng” thuộc quyền tự do
ngơn luận tại Châu Phi có sự liên quan nhất định đối với các quyền tác giả theo
hướng hạn chế và buộc tác giả phải chia sẻ quyền cho công chúng thực hiện tự do
ngôn luận.
Tại Châu Mỹ, Công ước châu Mỹ về Nhân quyền (Hiệp ước San José) năm
1969 ghi nhận “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và biểu đạt. Quyền này bao
gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thơng tin và ý tưởng…”. Lập
luận của Tịa án Nhân quyền liên Mỹ trong vụ Claude Reyes et al. kiện Chile (2006)
tái khẳng định “quyền tự do tư tưởng và ngôn luận bao gồm việc bảo vệ quyền tiếp
cận thông tin”29. Riêng tại Hoa Kỳ, học thuyết “sử dụng hợp lý” (fair use) trong luật

SHTT (sẽ được phân tích sâu hơn tại phần 1.1.1.2.c dưới đây) thúc đẩy quyền tự do
ngôn luận bằng cách cho phép sử dụng trái phép (unlicensed use) các tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả ở một số trường hợp nhất định và trong khuôn khổ luật
26

Handyside v United Kingdom, App No 5493/72, [1976] ECHR
Müller and ors v Switzerland, Case No 25/1986/123/174, App No 10737/84 (A/133), [1988] ECHR
28
Magyar Helsinki Bizottsag v. Hungary, App No 18030/11, (2016) ECHR
29
Claude Reyes et al v Chile, IACHR Series C no 151, IHRL 1535, (2006) IACtHR
27


15

định. Đây cũng được xem là một trong những giải pháp nhằm cân bằng lợi ích của
chủ sở hữu quyền tác giả với lợi ích cơng cộng trong việc phân phối và sử dụng
rộng rãi các tác phẩm. Tu chính án I (năm 1791) của Hoa Kỳ quy định Quốc hội sẽ
không ban hành một đạo luật nào nhằm ngăn cấm tự do ngơn luận. Từ đó, người ta
cho rằng có sự va chạm nhất định giữa quyền tác giả và quyền tự do ngơn luận, vì
Tu chính án I bảo vệ quyền diễn đạt trong khi luật bản quyền giới hạn quyền diễn
đạt đối với tác phẩm của người khác. Ngồi ra, nếu Tu chính án thứ I ngăn cấm
Chính phủ hạn chế quyền tự do ngơn luận thì luật bản quyền lại chính là một rào
cản quyền tự do ngôn luận bằng cách cấm mọi người sử dụng nội dung tác phẩm
trong khi bày tỏ ngôn luận. Ranh giới cân bằng giữa quyền tự do ngôn luận và
quyền tác giả (hoặc giữa luật bản quyền và Tu chính án I) tại Hoa Kỳ được Netanel
(2001) chỉ ra nằm ở sự phân biệt “ý tưởng” và “hình thức thể hiện” tác phẩm. Theo
đó, quyền tự do ngơn luận (theo Tu chính án I) được thỏa mãn khi mọi người vẫn
được tự do phát biểu về bất kỳ ý tưởng nào họ muốn miễn là họ khơng sao chép

hình thức thể hiện của một tác giả trước đây30. Trên cơ sở Tu chính án I, đối với
mục đích học tập, Luật Bản quyền năm 1976 cho phép sử dụng hợp pháp các tác
phẩm cho các mục đích như bình luận, phê bình, đưa tin hoặc giảng dạy (bao hàm
cả việc sử dụng nhiều bản sao cho lớp học), nghiên cứu, học tập (Điều 107).
Patterson và những người khác (2009) chỉ ra luật bản quyền cho phép mọi người có
quyền truy cập vào tài liệu học tập, cả những tài liệu đang được bảo hộ, bằng cách
giải phóng họ khỏi độc quyền sử dụng của tác giả31.
Còn tại Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là nền
tảng Hiến định cho Luật SHTT năm 2005 ghi nhận quyền tự do ngơn luận và việc
cơng dân “có quyền được thông tin” của công dân tại Điều 69 Hiến pháp này. Đến
Hiến pháp hiện tại (được ban hành năm 2013) là nền tảng Hiến định cho các đạo
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT (qua các năm 2019, 2022) tiếp tục
thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận tại Điều 25, ngồi quyền tự
do ngơn luận, Hiến pháp năm 2013 cịn sửa đổi, bổ sung nội dung quy định về
“quyền tiếp cận thông tin” của công dân trên cơ sở nội dung “có quyền được thơng
tin” tại Điều 69 Hiến pháp trước đây. Như vậy, thơng qua việc “có quyền được
thơng tin” (thể hiện vị thế bị động của công dân) được chính thức nâng lên thành
“quyền tiếp cận thơng tin” (thể hiện sự chủ động của công dân), Hiến pháp năm
2013 khẳng định lập trường của Việt Nam là ngày càng tôn trọng, nâng cao quyền
tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin của công dân. Đây là cơ sở pháp lý đặc
biệt quan trọng để Luật SHTT năm 2005 và những luật sửa đổi, bổ sung Luật này
xây dựng các ngoại lệ của quyền tác giả nói chung và các ngoại lệ có thể sử dụng
tác phẩm nhằm mục đích học tập nói riêng.
Như vậy, quyền tự do ngơn luận, mà biểu hiện của nó là quyền tự do diễn đạt
và quyền tiếp nhận, thu thập thông tin, và ngoại lệ của quyền tác giả có mối liên hệ
Netanel, N. W (2001), “Locating Copyright within the First Amendment Skein”. Stanford Law Review,
54(1), p. 13
31
Patterson, L. Ray and Birch, Jr., Stanley F. and Joyce, Craig (2009), “A Unified Theory of Copyright”, 46
Houston Law Review, U of Houston Law Center, 2020-A-25, p. 308

30


16

tương hỗ với nhau; với mục đích chung là phổ biến các tư tưởng, nội dung văn hóa
– nghệ thuật, tri thức,… đến công chúng. Quyền tự do ngôn luận là một trong các
cơ sở giúp hình thành nên các ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm
nhằm mục đích học tập.
1.1.2.3. Tầm quan trọng của học tập
Các chính sách về học tập ln là ưu tiên hàng đầu ở bất kỳ xã hội nào. Ngay
cả khi các Luật Bản quyền đều cố gắng bảo hộ quyền tác giả theo các cấp độ khác
nhau thì các ngoại lệ của quyền tác giả nhằm giúp cho việc phổ biến và tạo điều
kiện cho việc học luôn được duy trì. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng của học
tập. Tại Châu Á, từ năm 500 trước Công nguyên (TCN), trong bối cảnh chiến tranh
thường xuyên xảy ra và nạn thất học trong quần chúng trở nên phổ biến, Khổng Tử
đã có những phát biểu về tầm quan trọng của việc học và được chép lại trong “Luận
Ngữ”, ông cho rằng các cá nhân trong xã hội (đặc biệt là nam giới) cần phải học để
trở thành quân tử với đủ các đức hạnh cần thiết để giúp vua cai trị đất nước với tinh
thần “học nhi bất yếm” (học mãi khơng chán). Từ đó, Khổng Tử đề xuất các nhà
nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện thúc đẩy việc học của người dân32. Còn tại
phương Tây, triết gia Platon cũng có những ý kiến tương tự. Trong tác phẩm “Cộng
hòa” (The Republic), Platon lập luận rằng trách nhiệm đối với việc học của công
dân thuộc về nhà nước và người lãnh đạo (Hinchliffe, 2007)33. Đối với một quốc gia
có truyền thống hiếu học như Việt Nam, từ xa xưa, Thân Nhân Trung (1418 – 1499)
đã có câu nói nổi tiếng “Hiền tài là ngun khí quốc gia” và khuyến khích người
dân tích cực học để đóng góp cho đất nước hưng thịnh, dân tộc trường tồn.
Ngày nay, người ta xem học tập là một trong những quyền cơ bản của con
người và trên bình diện quốc gia, giáo dục (trong đó học tập) được xem là một trong
những chính sách quan trọng nhằm phát triển đất nước. Điều 26 (1) của Tuyên ngôn

Nhân quyền năm 1948 khẳng định rằng “Mọi người có quyền được hưởng giáo
dục”. Tại Việt Nam, quan điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” được
đưa ra lần đầu tiên trong Nghị quyết số 04-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành trung ương Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Thực hiện cam kết quốc tế về quyền học tập và thể chế hóa chủ trương của Đảng,
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Cơng dân có quyền và nghĩa vụ học tập”
(Điều 39) và riêng đối với tầng lớp thanh niên thì “được Nhà nước, gia đình và xã
hội tạo điều kiện học tập” (Điều 37).
Từ đây, có thể thấy quan niệm về sự cần thiết của học tập và trách nhiệm của
chính quyền trong việc tạo mọi điều kiện cần thiết để nâng cao trình độ học tập của
người dân được hình thành và phát triển trở nên phổ quát xuyên suốt trong lịch sử
văn minh của con người. Do đó, mặc dù được xây dựng nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích vật chất và tinh thần xứng đáng của các tác giả phát sinh từ thành quả lao động
trí óc được kết tinh tại tác phẩm. Song, mục đích của luật bản quyền (copyright law)
cũng như các nguyên tắc định hình nó (như ngun tắc về “cân bằng lợi ích”) vẫn
32
33

Xem thêm: Lý Minh Tuấn (2010), Tứ thư bình giải, NXB. Tơn giáo
Xem thêm: Hinchliffe, G (2006), “Plato and the love of learning”, Ethics and Education, 1(2), 117–131


17

khiến cho luật bản quyền phải dành sự quan tâm nhất định đến các hoạt động giáo
dục và lợi ích của các nhà giáo dục, tổ chức giáo dục và người học. Copinger và
những người khác (2005) gọi giáo dục là “một trong những ví dụ rõ ràng nhất về
mối quan tâm mạnh mẽ của công chúng trong việc hạn chế sự bảo hộ quyền tác giả”
34
. Bởi lẽ, thành quả mang lại từ việc học tập và trau dồi kiến thức sẽ giúp cho tổng

thể xã hội đạt được nhiều lợi ích và ngày càng văn minh.
Dưới góc độ lịch sử, Luật Bản quyền đầu tiên là Đạo luật Anne năm 1709
(Copyright Act 1709 Anne c.19, Statute of Anne). Đạo luật này có đầu đề là “Một
Đạo luật Khuyến khích Học tập” (An Act for the Encouragement of Learning) và nó
bao gồm các điều khoản tăng cường lợi ích công cộng khi đặt ra thời hạn bảo hộ
cho tác phẩm (khi hết thời hạn bảo hộ, tác phẩm thuộc về công chúng). Đặc biệt là
trong lĩnh vực học tập, Đạo luật Anne có các điều khoản yêu cầu các bản sao của
sách đã xuất bản phải được gửi vào thư viện trường đại học để đảm bảo rằng công
chúng có quyền truy cập vào các tác phẩm có bản quyền. Deazley (2008) nhận xét
Đạo luật Anne có mục tiêu xã hội rộng lớn vì sự tiến bộ của giáo dục35. Hiện nay,
các điều ước quốc tế và luật quốc nội về bản quyền các nước đều có xu hướng công
nhận tầm quan trọng của học tập và được xây dựng nhằm tăng cường khả năng của
công dân được tiếp cận, sử dụng đa dạng các tài liệu học tập (sẽ được phân tích cụ
thể ở phần 1.1.1). Điều này cho thấy nhận thức về tầm quan trọng của học tập là
một trong những cơ sở của các ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm
nhằm mục đích học tập.
Trong thực tiễn học tập, việc thực hiện ngoại lệ của quyền tác giả đối với
việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập có thể diễn ra dưới nhiều dạng thức
và ở bất kỳ bậc học hay cấp độ đào tạo nào. Một số hình thức phổ biến là sao chép
một phần hoặc toàn bộ tác phẩm phục vụ cho việc thực hiện các bài tập (thường là
dưới dạng bài luận) hoặc một kỳ thi; đọc, trích dẫn, biểu diễn tác phẩm văn học
(truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản,…); trình bày hoặc phát một bài hát để người học
rèn luyện kỹ năng nghe (ngoại ngữ, cảm âm,…) hoặc minh họa cho các lý thuyết
thanh nhạc,…; phát toàn bộ hoặc một đoạn phim (phim tài liệu, phóng sự,…) phục
vụ cho việc tiếp thu kiến thức thực tế hoặc nhằm khơi gợi vấn đề cho người học giải
quyết; sử dụng một phần hay toàn bộ tác phẩm trong đề thi,… Tại cấp bậc Đại học,
việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập được diễn ra thường xuyên và dễ
thấy nhất dưới hình thức sao chép và trích dẫn tác phẩm (sách chun khảo, giáo
trình, luận văn,…) với một tần suất lớn. Một hình thức sử dụng tác phẩm đặc thù là
sử dụng nhằm mục đích giải trí trong mơi trường học tập (như biểu diễn một vở hài

kịch dựa trên tác phẩm kịch trong sự kiện mang tính chất giải trí do trường học tổ
chức) liệu có nên được xem là một trong những hình thức thực hiện ngoại lệ của
quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập. Tác giả cho
rằng vẫn nên xem đây là một hình thức thực hiện ngoại lệ của quyền tác giả đối với
việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập, bởi lẽ thông qua các hoạt động này,
34

Copinger, W., Skone James, Garnett, K., Harbottle, G., Davies, G. and Skone James, E. (2005), Copinger
and Skone James on copyright, Sweet & Maxwell, p. 515.
35
Deazley, R (2008), Rethinking copyright, Cheltenham: Edward elgar Pub, p. 13.


18

kiến thức được truyền tải đến người học và đó cũng chính là lý do trên hết của việc
sử dụng này, cịn yếu tố giải trí vốn dĩ phát sinh do nội dung tác phẩm mang lại và
đôi khi đây chính là chủ điểm tri thức mà tác phẩm truyền tải. Tóm lại, có rất nhiều
hình thức áp dụng quy định về ngoại lệ của quyền tác giả nhằm sử dụng một tác
phẩm nhằm mục đích học tập nhưng dù là hình thức nào cũng phải đáp ứng các quy
định trong phạm vi được luật về quyền tác giả cho phép trong từng giai đoạn ở mỗi
khu vực khác nhau.
1.2. Ngoại lệ quyền tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích
học tập trong pháp luật quốc tế
1.2.1. Điều ước quốc tế về ngoại lệ quyền tác giả nhằm mục đích học tập
Tất cả các điều ước quốc tế đặt ra một số loại ngoại lệ về quyền tác giả đối
với mục đích giáo dục nói chung. Một số điều ước đề cập trực tiếp đến việc học tập,
một số khác mặc dù khơng trình bày rõ ràng phạm vi áp dụng các ngoại lệ bao gồm
việc học nhưng thông qua việc đề cập đến các từ ngữ “giảng dạy” hay chung chung
hơn là “giáo dục” cũng góp phần tăng cường cơ sở pháp lý cho việc tiếp cận, sử

dụng các tác phẩm nhằm mục đích học tập được thực hiện dễ dàng hơn.
a) Công ước Berne năm 1886
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886
(Công ước Berne) là công ước quan trọng hàng đầu trong các điều ước về bản
quyền trên phạm vi quốc tế. Trải qua các lần sửa đổi tại Berlin (1908), Roma
(1928), Brussels (1948), Stockholm (1967) và Paris (1971), hiện có 177 quốc gia
tham gia Công ước Berne và Việt Nam là một trong số đó (tham gia năm 2004
nhưng tuyên bố bảo lưu các quy định tại Điều 33(1) của Công ước Berne và áp
dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển). Để tham gia Công ước
Berne, các quốc gia phải sửa đổi luật quốc gia của mình để phù hợp với các yêu cầu
của Công ước.
Ngay tại phiên bản đầu tiên (năm 1886), Công ước Berne công nhận tầm
quan trọng của học tập với quy định “Liên quan đến quyền tự do trích xuất các phần
từ tác phẩm văn học nghệ thuật để sử dụng trong các ấn phẩm nhằm mục đích giáo
dục, khoa học, học tập được thực hiện theo luật các nước thành viên hoặc thỏa
thuận giữa các nước đó mà khơng bị điều chỉnh bởi Cơng ước này.” (Điều 8). Tuy
vậy, đây chưa được xem là ngoại lệ của quyền tác giả mà chỉ là quyền trích dẫn
(quotation right) tác phẩm (các ấn phẩm khoa học) được giới hạn trong lĩnh vực
khoa giáo.
Đến phiên bản hiện tại, Điều 10 (2) Công ước Berne bao gồm một số điều
khoản liên quan đến các trường hợp sử dụng tự do tác phẩm, cũng là các ngoại lệ
của quyền tác giả. Cụ thể:
“2. Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp và những hiệp định đặc biệt đã
có sẵn hay sẽ ký kết giữa các quốc gia này có thẩm quyền cho phép sử dụng có mục
đích, những tác phẩm văn học hay nghệ thuật bằng cách minh họa các xuất bản
phẩm, chương trình phát sóng, ghi âm hoặc ghi hình để giảng dạy, miễn sao việc sử
dụng đó phù hợp với thông lệ đúng đắn.”



×