Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH HÃI

NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG ĐỐI TRỌNG VỀ
LỢI ÍCH GIỮA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ CƠNG CHÚNG
KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH HÃI

NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG ĐỐI TRỌNG VỀ
LỢI ÍCH GIỮA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ CÔNG CHÚNG

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THÁI CƯỜNG

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 6 - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin được cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nguyên tắc cân
bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và cơng chúng” do
chính tác giả thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thái Cường,


giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khóa
luận này đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài
liệu tham khảo. Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả thực hiện khóa luận

Nguyễn Thanh Hãi


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Thái Cường,
giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh – người
thầy đã hướng dẫn tác giả thực hiện khóa luận này. Dù rất bận rộn với cơng việc
nhưng thầy vẫn luôn dành thời gian để hỗ trợ, chỉ dẫn nhiệt tình và truyền đạt những
kinh nghiệm để giúp em hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình một cách tốt nhất.
Em xin chúc thầy có nhiều sức khỏe, hồn thành thật tốt cơng việc của mình và gặt
hái nhiều thành công hơn nữa trong thời gian tới.
Tiếp theo, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến thầy Huỳnh Quang Thuận, giảng
viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh – người thầy
cố vấn học tập đã đồng hành với lớp Dân sự 43.1 trong suốt 04 năm qua. Tác giả cũng
xin cảm ơn những Quý thầy, cô đã truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu
để chúng em có được hành trang vững chắc trên con đường sắp tới.
Tác giả cũng xin cảm ơn Trung tâm thông tin – thư viện Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh đã ln tạo những điều kiện thuận lợi để các bạn sinh viên
tiếp cận được nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập của mình.
Và lời cuối, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình đã ln u thương
và hỗ trợ để tác giả hồn thành trọn vẹn khóa học của mình. Tác giả cũng xin cảm ơn
những người bạn đã ln đồng hành với mình, xin chúc mọi người có nhiều sức khỏe
và thành cơng.
Xin cảm ơn vì tất cả!
Tác giả thực hiện khóa luận

Nguyễn Thanh Hãi


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

Nxb

Nhà xuất bản

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TP

Thành phố

Cơng ước Berne 1886

Cơng ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác
phẩm văn học và nghệ thuật

Hiệp định CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương


Hiệp định EVFTA

Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu
Âu - Việt Nam

Hiệp định TRIPS 1994

Hiệp định TRIPS ngày 15 tháng 4 năm 1994
về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền Sở hữu trí tuệ

Hiệp ước WCT 1996

Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới năm 1996

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN ngày 28 tháng
10 năm 1995 của Quốc hội

Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung
2009, 2019

Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội, được
sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019

Nghị định số 22/2018/NĐ-CP


Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng
02 năm 2018 của Chính phủ Quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2009 về quyền tác giả, quyền liên quan


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................9
4. Mục đích và phương pháp nghiên cứu của đề tài .......................................10
5. Bố cục tổng quát của khóa luận ....................................................................11
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG
ĐỐI TRỌNG VỀ LỢI ÍCH GIỮA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU QUYỀN TÁC GIẢ
VÀ CÔNG CHÚNG ................................................................................................12
1.1. Mối tương quan về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công
chúng .....................................................................................................................12
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả ................................................. 12
1.1.2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả – chủ thể của quyền tác giả ........ 14
1.1.3. Quyền nhân thân và quyền tài sản – hai quyền luật định thể hiện lợi
ích của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả ...................................................... 19
1.1.4. Công chúng và lợi ích của cơng chúng trong khía cạnh quyền tác giả
........................................................................................................................... 25
1.1.5. Sự mâu thuẫn trong quan hệ về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền

tác giả và công chúng....................................................................................... 27
1.2. Tổng quan về nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả và công chúng...................................................................28
1.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành của nguyên tắc ........................................ 29
1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc ................................................ 30
1.2.3. Quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam trong việc cụ thể hóa
nguyên tắc ......................................................................................................... 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................60


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ THỰC THI NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG ĐỐI TRỌNG
VỀ LỢI ÍCH GIỮA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU QUYỀN TÁC GIẢ VÀ CÔNG
CHÚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GĨP PHẦN HỒN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT ..................................................................................................61
2.1. Thực thi nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả và công chúng thông qua các trường hợp sử dụng hợp pháp tác
phẩm ......................................................................................................................61
2.1.1. Tiêu chí xác định việc sử dụng hợp pháp tác phẩm .......................... 61
2.1.2. Một số trường hợp minh họa cho việc thực thi nguyên tắc nhằm cân
bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và cơng chúng ............ 62
2.2. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm
hướng đến việc thực thi có hiệu quả ngun tắc trên.......................................73
2.2.1. Hồn thiện quy định về các điều kiện chung cần đáp ứng đối với các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ
sung 2009, 2019 ................................................................................................ 74
2.2.2. Hoàn thiện quy định về trường hợp sao chép tác phẩm để lưu trữ
trong thư viện với mục đích nghiên cứu tại điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật Sở
hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 và khoản 2 Điều 22 Nghị định
số 22/2018/NĐ-CP ............................................................................................ 75

2.2.3. Hoàn thiện quy định về trường hợp trích dẫn hợp lý tác phẩm mà
khơng làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình
tại điểm b khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009,
2019 ................................................................................................................... 78
2.2.4. Bổ sung ngoại lệ đối với quy định về hành vi hủy bỏ hoặc làm vô hiệu
các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ
quyền tác giả đối với tác phẩm của mình tại khoản 12 Điều 28 Luật Sở hữu
trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 ....................................................... 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................84
KẾT LUẬN ..............................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển và văn minh hơn, thì con người cũng dần quan
tâm nhiều đến nhu cầu tiếp cận các tác phẩm để phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập
hay giải trí… của bản thân. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ, các tác
phẩm như các chương trình máy tính cũng hỗ trợ chúng ta giải quyết cơng việc trở
nên nhanh chóng và về tính hiệu quả thì khơng cần phải bàn cãi. Có thể nói, chính
những ưu điểm nổi trội đó đã khẳng định được vai trò của các tác phẩm đối với đời
sống của con người. Khi một tác phẩm được pháp luật bảo hộ quyền tác giả, thì làm
phát sinh mối quan hệ về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả – nhóm chủ
thể tạo ra tác phẩm, và cơng chúng – chủ thể tiếp cận tác phẩm. Xuất phát từ lý do
tác phẩm có khả năng mang lại giá trị lớn, nên tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
công chúng đều mong muốn khai thác tác phẩm nhằm đạt được những lợi ích nhất
định. Tuy nhiên, nếu mỗi bên đều q chú trọng lợi ích của mình đối với tác phẩm
mà khơng quan tâm đến lợi ích của bên cịn lại, thì khơng sớm thì muộn cũng phát
sinh sự mâu thuẫn trong quan hệ về lợi ích giữa các bên. Khi đó, nhà nước với pháp

luật là công cụ đắc lực để thực hiện quyền lực của mình, cần đề ra những quy định để
giải quyết mâu thuẫn trên nhằm hướng đến sự hài hòa, cân bằng về lợi ích giữa các
bên. Và “nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả và công chúng” được xem là cơ sở để nhà nước xây dựng, hoàn thiện những quy
định của pháp luật cũng như đưa ra những chính sách, biện pháp nhằm cân bằng lợi
ích giữa các bên. Bởi nếu chúng ta chỉ nghiêng về lợi ích của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả và quy định nhiều độc quyền dành cho họ, thì cơng chúng sẽ gặp trở
ngại trong việc tiếp cận tác phẩm. Còn nếu quy định cho công chúng được tự do khai
thác tác phẩm mà khơng có sự kiểm sốt, thì quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả bị ảnh hưởng và họ sẽ khơng cịn động lực để tiếp tục tạo ra những tác phẩm
cho xã hội.
Đất nước Việt Nam đã và đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế với nhiều
cơ hội nhưng cũng đầy thách thức ở phía trước. Có thể kể đến một số điều ước quốc
tế có liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng như quyền tác giả mà Việt
Nam đã gia nhập như Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật (Công ước Berne 1886); Hiệp định TRIPS ngày 15 tháng 4 năm 1994 về
các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS
1994); Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 1996 (Hiệp
1


ước WCT 1996); và hai Hiệp định đã có hiệu lực ở nước ta trong thời gian gần đây
đó là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định
CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (Hiệp định
EVFTA). Khi đã tham gia vào “sân chơi quốc tế”, thì việc thực hiện đúng các cam
kết và tiến hành hoàn thiện pháp luật trong nước cho phù hợp với các điều ước quốc
tế là việc làm mang tính cấp thiết. Tại Hội nghị góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tổ chức vào ngày 12/4/2022, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Hữu Dũng đã khẳng định: “Việc sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ lần này là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đáp ứng các
quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp và yêu cầu mới đề ra”1. Và mới đây, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ cũng đã được Quốc hội biểu quyết thông
qua vào ngày 16 tháng 6 năm 2022 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2023) để phù hợp hơn với tình hình thực tiễn ở nước ta. Đối với quyền tác giả, thì
việc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng được xem
là vấn đề cần nhận được sự quan tâm và từ đó hồn thiện quy định của pháp luật nhằm
cân bằng lợi ích giữa các bên cũng như đáp ứng yêu cầu mà các điều ước quốc tế đã
đặt ra. Do đó, việc nghiên cứu “nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng” cũng mang ý nghĩa quan trọng trong việc
tạo cơ sở để hoàn thiện quy định của pháp luật và đưa ra các chính sách, giải pháp có
liên quan. Và khi đó, mong rằng chúng ta có thể đạt được mục tiêu kép đó là thúc đẩy
hoạt động sáng tạo ra tác phẩm thông qua cơ chế bảo hộ quyền tác giả phù hợp, đồng
thời cũng tạo điều kiện cho việc khai thác giá trị của tác phẩm nhằm góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và đáp ứng nhu cầu tiếp cận tác phẩm của cộng
đồng.
Từ những lý do đã được nêu và phân tích ở trên, tác giả đã quyết định chọn đề
tài “Nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
và cơng chúng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Tác giả cũng mong rằng
khóa luận này sẽ trở thành một tài liệu có giá trị bổ ích nhằm phục vụ cho việc tham
khảo, nghiên cứu và xa hơn là góp một phần nhỏ cho q trình hồn thiện pháp luật

Trịnh Dũng, “Sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để phát triển và hội nhập”, truy cập ngày 17/4/2022.
1

2


Sở hữu trí tuệ ở nước ta liên quan đến vấn đề cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở

hữu quyền tác giả và cơng chúng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với đề tài “Nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả và công chúng”, tác giả nhận thấy đây là một đề tài khá thú vị và cũng
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Điều đó được thể hiện qua việc có
nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trên đã được thực hiện trên thực
tế. Trong bối cảnh nước ta bước vào thời kỳ hội nhập và gia nhập các điều ước quốc
tế, thì việc nghiên cứu vấn đề cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
và cơng chúng để thực hiện hồn thiện pháp luật trong nước cho phù hợp với các điều
ước quốc tế là điều mang tính cấp thiết.
 Về sách và giáo trình có liên quan:
Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh (TP. Hồ Chí Minh) do Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Xuân Quang làm chủ
biên (xuất bản năm 2021). Liên quan đến quyền tác giả, quyển giáo trình này đã cung
cấp những vấn đề mang tính cơ bản về lý luận cũng như quy định của pháp luật, để
từ đó có được nền tảng kiến thức chung phục vụ cho việc nghiên cứu sâu hơn về
“nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
cơng chúng”.
Sách tình huống (Bình luận bản án) Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam của nhóm
tác giả Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Ngọc Hồng Phượng và Nguyễn Phương Thảo
(xuất bản năm 2019). Quyển sách này sẽ cung cấp cho chúng ta một cách nhìn tổng
quan nhất về thực tiễn xét xử của Tịa án thơng qua việc phân tích, bình luận các vấn
đề pháp lý có liên quan đến các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ nói chung và đối tượng
quyền tác giả nói riêng. Những vấn đề được trình bày trong quyển sách trên sẽ giúp
chúng ta nắm rõ hơn các quy định của pháp luật cũng như cách thức áp dụng các quy
định đó trên thực tế thơng qua hướng giải quyết của Tịa án.
Sách Bình luận bản án Quyền tác giả của tác giả Nguyễn Thái Cường (xuất
bản năm 2020). Đây là tài liệu cung cấp những bản án đã được chọn lọc có liên quan
đến đối tượng quyền tác giả nhằm giúp chúng ta có cách tiếp cận gần hơn với thực
tiễn xét xử về các tranh chấp điển hình về quyền tác giả. Thơng qua việc phân tích,

bình luận theo quy định của pháp luật trong nước, thì tài liệu trên cũng có liên hệ với
pháp luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản và Hàn Quốc nhằm tạo
cách nhìn tồn diện về các vấn đề pháp lý được đặt ra.
3


 Về khóa luận tốt nghiệp có liên quan:
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
với đề tài “Cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu và người sử dụng tác phẩm trong quan
hệ quyền tác giả” của tác giả Võ Hoàng Yến, được thực hiện vào năm 2002. Có thể
thấy, đề tài trên có nhiều điểm tương đồng với đề tài “Nguyên tắc cân bằng đối trọng
về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng” mà chúng ta đang
nghiên cứu. Theo đó, tác giả Võ Hồng Yến đã trình bày các vấn đề mang tính khái
quát chung về quyền tác giả và sau đó là các cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc
cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu và người sử dụng tác phẩm trong quan hệ quyền tác
giả. Về cơ sở pháp lý, tác giả đưa ra các quy định về trường hợp được sử dụng tác
phẩm không phải xin phép và không phải trả tiền thù lao theo hướng liệt kê các trường
hợp chứ chưa đi vào phân tích sâu hơn để làm rõ từng trường hợp cụ thể. Trong khi
vấn đề thời hạn bảo hộ quyền tác giả cũng thể hiện cho việc cân bằng lợi ích giữa chủ
sở hữu và người sử dụng tác phẩm, nhưng tác giả chưa đề cập đến vấn đề này. Tiếp
theo đó, tác giả đã nêu quan hệ giữa chủ sở hữu và người sử dụng tác phẩm trong
quan hệ quyền tác giả trên thực tế thơng qua tình hình sử dụng tác phẩm cũng như
những vướng mắc còn tồn tại, và từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục vướng
mắc, nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo hộ quyền tác giả. Ngoài ra, các quy định của
pháp luật được viện dẫn trong khóa luận ở thời điểm hiện tại đã hết hiệu lực, nên một
số vấn đề có liên quan đến cơ sở pháp lý cần được cập nhật theo quy định của Luật
Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội, được sửa
đổi, bổ sung năm 2009, 2019 (Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019).
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
với đề tài “Nguyên tắc cân bằng - đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền

tác giả và công chúng” của tác giả Dương Thị Hải Lê, được thực hiện vào năm 2007.
Ở chương thứ nhất của khóa luận, tác giả Dương Thị Hải Lê đã nêu khái quát chung
về nguyên tắc trên thông qua các vấn đề như: Các khái niệm về quyền tác giả và sự
ra đời của nó, bảo hộ quyền tác giả và “nguyên tắc cân bằng – đối trọng về lợi ích
giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng”. Tiếp theo, tác giả đưa ra cơ
sở lý luận và thực tiễn hình thành nguyên tắc và ý nghĩa của nguyên tắc trên. Ở
chương thứ hai, khóa luận trình bày nội dung nguyên tắc trên theo quy định của pháp
luật. Cụ thể, khóa luận đề cập đến giới hạn quyền tác giả thông qua các quy định về
thời hạn bảo hộ quyền tác giả, trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép,
4


không phải trả tiền bản quyền và trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép
nhưng phải trả tiền bản quyền. Đối với trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, thì tác giả theo hướng
liệt kê các trường hợp ở Điều 25 Luật SHTT năm 2005 và tập trung phân tích trường
hợp trích dẫn hợp lý tác phẩm mà chưa làm rõ các trường hợp còn lại. Và sau đó, tác
giả đề cập quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển theo phụ lục II, Cơng
ước Berne 1886. Cịn ở chương thứ ba, khóa luận tập trung phân tích thực trạng thực
hiện ngun tắc và nguyên nhân của sự mất cân bằng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả ở trên thế giới và Việt Nam, và từ đó đưa ra các giải pháp.
Việc thực hiện lại đề tài đã được một tác giả khác nghiên cứu trước đó cũng
tạo thuận lợi cho việc học hỏi, tiếp thu những kiến thức bổ ích, nhưng cũng đặt ra
những thử thách nhất định trong việc cần tiếp cận theo hướng mới phù hợp với bối
cảnh hiện tại và bổ sung những vấn đề mà cơng trình nghiên cứu trước đó chưa đề
cập. Với khoảng thời gian gần 15 năm kể từ khi tác giả Dương Thị Hải Lê thực hiện
đề tài khóa luận tốt nghiệp này, thì việc nghiên cứu lại đề tài trên ở thời điểm hiện tại
cũng mang ý nghĩa thiết thực. Bởi đến nay, Luật SHTT năm 2005 đã được sửa đổi,
bổ sung đến hai lần (năm 2009 và 2019) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật SHTT cũng vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua mới đây vào ngày 16 tháng

6 năm 2022. Và kết hợp với thực tiễn Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế
sâu rộng thông qua việc gia nhập các điều ước quốc tế, nổi bật là hai Hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới CPTPP và EVFTA cũng đặt ra yêu cầu pháp luật SHTT nước ta
cần có sự sửa đổi, bổ sung để tương thích với các điều ước quốc tế này, và trong đó
cũng có vấn đề cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng
trong lĩnh vực quyền tác giả. Tác giả nghĩ rằng việc thực hiện lại đề tài này cũng là
cơ hội để bản thân tiếp cận theo hướng phù hợp với thực tiễn hiện tại và từ đó có thể
hồn thiện cũng như bổ sung những vấn đề mới nhằm giúp cho việc nghiên cứu đề
tài trở nên toàn diện hơn.
 Về luận văn thạc sĩ có liên quan:
Luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh với đề
tài “Giới hạn quyền tác giả theo Hiệp định TRIPS và pháp luật Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Nga, được thực hiện vào năm 2012. Trong luận văn, tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Nga đã nêu cơ sở lý luận về giới hạn quyền tác giả thông qua một

5


số vấn đề như quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả và giới hạn quyền tác giả. Tiếp
theo, tác giả đã tiếp cận quy định của Hiệp định TRIPS 1994 về giới hạn quyền tác
giả, nổi bật là vấn đề “phép thử ba bước” đối với giới hạn quyền tác giả theo Hiệp
định này. Trên cơ sở đó, luận văn cũng đề cập đến thực trạng áp dụng giới hạn quyền
tác giả theo Hiệp định trên và đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam. Đối với quy
định của pháp luật Việt Nam về giới hạn quyền tác giả, luận văn đã nêu quy định về
trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù
lao và trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao.
Luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật - Đại học Huế với đề tài
“Pháp luật về khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan trong những trường
hợp ngoại lệ” của tác giả Đặng Hữu Tuấn, được thực hiện vào năm 2018. Liên quan

đến quyền tác giả, luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận về quyền tác giả, và
trong đó có đưa ra cơ sở lý luận quy định về khai thác quyền tác giả trong các trường
hợp ngoại lệ. Sau đó, tác giả đã đề cập quy định của pháp luật về khai thác, sử dụng
quyền tác giả trong các trường hợp ngoại lệ như quy định trong Công ước Berne
1886, quy định trong pháp luật của một vài nước thành viên của Công ước Berne
1886 và quy định của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn cũng phân tích
thực tiễn thực hiện pháp luật và đưa ra các giải pháp thực hiện và thực thi pháp luật
về khai thác, sử dụng quyền tác giả trong các trường hợp ngoại lệ tại Việt Nam.
 Về luận án tiến sĩ có liên quan:
Luận án tiến sĩ Luật Kinh tế tại Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh) với đề tài “Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường
Internet” của tác giả Võ Trung Hậu, được thực hiện vào năm 2020. Liên quan đến
việc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng trong thời
đại công nghệ phát triển, tác giả đề cập đến những vấn đề Internet đặt ra đối với ngoại
lệ quyền tác giả. Tiếp đó, tác giả cũng nêu ra thực trạng pháp luật Việt Nam về ngoại
lệ quyền sao chép nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy trực tuyến cũng như mục
đích lưu trữ thư viện điện tử, và từ đó đưa ra một số kiến nghị. Ngồi những vấn đề
trên, luận án cũng đề cập đến quyền tự bảo vệ tác phẩm bằng biện pháp công nghệ,
trong đó có nêu thực trạng pháp luật Việt Nam về ngoại lệ quyền tự bảo vệ tác phẩm
bằng biện pháp cơng nghệ và những đề xuất hồn thiện pháp luật.

6


 Một số bài viết có liên quan trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp trường
“Sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 09/10/2021:
Bài viết “Quyền sử dụng tự do tác phẩm qua hành vi sao chép trong trường
hợp học tập của cá nhân (Sửa đổi Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ)” của nhóm tác giả
Nguyễn Thái Cường và Trần Thị Thu Thủy. Có thể nói, vấn đề sử dụng tự do tác

phẩm qua hành vi sao chép trong một số trường hợp luật định đã phần nào thể hiện
“nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
công chúng”. Trong bài viết này, các tác giả đã đưa ra các cơ sở lý luận và cơ sở pháp
lý về quyền sử dụng tự do tác phẩm qua hành vi sao chép. Về cơ sở pháp lý, bài viết
nêu ra giới hạn của khung pháp luật quốc tế (Công ước Berne 1886, Hiệp định TRIPS
1994, Hiệp ước WCT 1996) và pháp luật một số quốc gia về quyền sử dụng tự do tác
phẩm. Tiếp theo đó, các tác giả đề cập về thực tiễn quyền sử dụng tự do tác phẩm
trong trường hợp phục vụ học tập của cá nhân qua hành vi sao chép và đưa ra một số
đề xuất hoàn thiện pháp luật.
Bài viết “Bảo vệ quyền tiếp cận tác phẩm cho người khiếm thị theo quy định
của Luật Sở hữu trí tuệ và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Lê Nhật Hồng. Tác giả
đã nêu khái quát quyền tiếp cận tác phẩm của người khiếm thị và sau đó tiếp cận vấn
đề này dưới góc độ luật quốc tế như Cơng ước Liên hợp quốc về Quyền của Người
khuyết tật; Hiệp ước Marrakesh về tạo điều kiện cho người khiếm thị, người khuyết
tật về thị giác và người khuyết tật khác không có khả năng đọc tiếp cận với các tác
phẩm đã công bố; Công ước Berne 1886; Hiệp định TRIPS 1994; Hiệp định CPTPP.
Tiếp đó, bài viết nêu ra phương thức bảo vệ quyền tiếp cận tác phẩm của người khiếm
thị đó là việc cân bằng sự xung đột lợi ích giữa quyền sở hữu trí tuệ và quyền con
người và phương thức thực hiện quyền tiếp cận tác phẩm có bản quyền của người
khiếm thị, người khuyết tật đọc. Và cuối cùng, bài viết đề cập đến quy định của pháp
luật Việt Nam về quyền tiếp cận tác phẩm của người khiếm thị, người khuyết tật đọc,
bên cạnh đó có liên hệ với pháp luật Hoa Kỳ và từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.
 Một số bài viết có liên quan được đăng trên tạp chí:
Bài viết “Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã
hội” của tác giả Lê Thị Nam Giang được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý Việt

7



Nam số 02 (51) năm 2009. Bài viết đã cung cấp cho chúng ta những vấn đề khái quát
nhất về nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ SHTT và lợi ích của xã hội – nguyên tắc
cơ bản của hệ thống SHTT. Liên quan đến quyền tác giả, bài viết đã nêu ra một số
nội dung thể hiện cho nguyên tắc trên, đó là quy định giới hạn của chủ sở hữu quyền
SHTT về thời hạn bảo hộ; quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin
phép, không phải trả tiền nhuận bút, trả thù lao; quy định về trường hợp sử dụng tác
phẩm không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Ngoài ra, tác giả
cũng đề cập những thách thức đối với Việt Nam trong việc thực hiện nguyên tắc cân
bằng lợi ích của chủ SHTT và lợi ích xã hội.
Bài viết “Giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm
dưới góc nhìn luật so sánh” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Tuyền được đăng trên Tạp
chí Cơng thương số 10 năm 2018. Việc đặt ra giới hạn quyền tác giả thông qua việc
sao chép và trích dẫn tác phẩm cũng là một cách thức thể hiện vấn đề cân bằng lợi
ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng. Tác giả đã nêu khái quát
quy định về giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm thông
qua một số vấn đề như: Điều kiện áp dụng giới hạn này; giới hạn quyền tác giả trong
trường hợp sao chép tác phẩm đã cơng bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng
dạy, lưu trữ trong thư viện và giới hạn quyền tác giả trong việc sử dụng tác phẩm
nhằm mục đích trích dẫn hợp lý tác phẩm. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra một số
đề xuất hoàn thiện pháp luật.
Bài viết “Quyền sao chép và trích dẫn tác phẩm trong mơi trường giáo dục”
của tác giả Nguyễn Trọng Luận được đăng trên Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn số 46
năm 2021. Vấn đề quyền sao chép và trích dẫn tác phẩm trong mơi trường giáo dục
được đặt ra nhằm hướng đến lợi ích của người học như học sinh, sinh viên. Tác giả
đã tiến hành phân tích các quy định trong Luật SHTT hiện hành liên quan đến quyền
sao chép và trích dẫn tác phẩm. Cụ thể, đó là trường hợp “tự sao chép một bản nhằm
mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”; trường hợp “sao chép tác
phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu”, và trường hợp “trích dẫn
hợp lý tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác
phẩm của mình”. Trong q trình phân tích, tác giả cũng tham khảo kinh nghiệm

trong pháp luật của một số quốc gia như Pháp, Hoa Kỳ… để đưa ra một số đề xuất
khắc phục những bất cập đang tồn tại.

8


Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu điển hình đã được thực hiện, và ngồi
ra cũng cịn rất nhiều những bài viết có liên quan ít hoặc nhiều đến đề tài “Nguyên
tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và cơng
chúng”. Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình nghiên cứu chỉ đề cập đến một hoặc một
số khía cạnh có liên quan đến nguyên tắc trên chứ chưa nghiên cứu một cách bao quát
nhằm làm rõ nguyên tắc này. Tác giả nghĩ rằng những cơng trình nghiên cứu trên sẽ
là nguồn tài liệu rất có giá trị để bản thân trên cơ sở kế thừa, học hỏi và tiếp thu thêm
nhiều kiến thức nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài được hoàn thiện hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu của đề tài: Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu “nguyên
tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng”
thông qua một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật SHTT Việt Nam đã
cụ thể hóa cho nguyên tắc này. Bên cạnh đó, khóa luận cũng sẽ nghiên cứu vấn đề
thực thi nguyên tắc trên thông qua việc tiếp cận thực tiễn xét xử của Tịa án về các
tranh chấp phát sinh có liên quan đến việc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả và công chúng.
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: Có thể nói “Nguyên tắc cân bằng đối trọng
về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng” là một đề tài khá thú
vị để nghiên cứu, nhưng đây cũng là đề tài có phạm vi rộng với nhiều vấn đề pháp lý
cần được làm rõ. Do có sự giới hạn về thời gian nên tác giả xin được nghiên cứu một
số vấn đề mang tính trọng tâm nhất liên quan đến đề tài trên. Cụ thể, liên quan đến
"nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và
công chúng", đầu tiên tác giả nêu ra những vấn đề lý luận cơ bản nhằm giúp chúng ta
có sự hiểu biết ban đầu về nguyên tắc trên, và từ đó phục vụ cho việc tìm hiểu các

vấn đề tiếp theo. Trên cơ sở các vấn đề lý luận, tác giả sẽ tập trung làm rõ một số quy
định trong pháp luật SHTT Việt Nam, cụ thể là Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung
2009, 2019 và một số văn bản pháp luật có liên quan. Khi nêu ra các quy định, tác
giả sẽ cố gắng phân tích cụ thể từng trường hợp có liên quan đến nguyên tắc trên. Do
theo quy định thời gian thực hiện đề tài khóa luận diễn ra từ ngày 14/3/2022 đến ngày
24/6/2022, nên tác giả xin phép được tập trung nghiên cứu các quy định của Luật
SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, và do đó không đề cập quá nhiều đến các
quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT đã được Quốc hội
biểu quyết thông qua mới đây vào ngày 16 tháng 6 năm 2022. Bên cạnh việc nghiên

9


cứu các vấn đề trên, tác giả cũng tiếp cận thêm hai vấn đề mới chưa được đề cập trong
Luật SHTT hiện hành đó là vấn đề “cạn quyền” và cho phép “nhập khẩu song song”
đối với quyền tác giả. Tiếp theo đó, tác giả đề cập một cách tổng quan việc thực thi
nguyên tắc thông qua việc nghiên cứu các bản án nhằm hiểu rõ hơn thực tiễn xét xử
của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hợp
pháp tác phẩm cũng như vấn đề cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả và công chúng trong các tranh chấp.
4. Mục đích và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Về mục đích của việc nghiên cứu đề tài: Tác giả nghiên cứu đề tài này với mục
đích làm rõ những vấn đề về lý luận, các quy định của pháp luật SHTT Việt Nam liên
quan đến “nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả và công chúng” cũng như phân tích, bình luận về thực tiễn xét xử của Tịa án
để có cách nhìn tổng quan nhất về nguyên tắc trên. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề
đã nêu, tác giả cũng mong muốn đưa ra những kiến nghị để góp phần hồn thiện pháp
luật nhằm giúp việc thực thi nguyên tắc đạt được hiệu quả trên thực tế. Do đề tài trên
cũng đã được tác giả Dương Thị Hải Lê thực hiện trong khóa luận tốt nghiệp vào năm
2007, nên việc nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tác giả tiếp cận theo hướng

phù hợp hơn với thực tiễn ở thời điểm hiện tại cũng như bổ sung một số vấn đề để
việc nghiên cứu thêm hoàn thiện hơn.
Về phương pháp nghiên cứu đề tài: Tác giả đã tiếp cận và áp dụng một số
phương pháp dưới đây để phục vụ cho quá trình nghiên cứu của mình:
Thứ nhất, phương pháp lịch sử. Phương pháp này được khóa luận sử dụng để
tìm hiểu những vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành của “nguyên tắc cân bằng đối
trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và cơng chúng”.
Thứ hai, phương pháp phân tích, tổng hợp. Đây là phương pháp sẽ được tác
giả sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Cụ thể, phương pháp
sẽ phục vụ cho việc phân tích những quy định trong pháp luật SHTT Việt Nam đã cụ
thể hóa cho “nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả và công chúng”, để từ có cái nhìn tổng qt nhất về từng trường hợp thể hiện
cho vấn đề cân bằng lợi ích giữa các bên. Ngoài ra, phương pháp này cũng được áp
dụng để phân tích một số vấn đề liên quan đến thực tiễn xét xử của Tòa án nhằm làm
rõ thực trạng của việc thực thi nguyên tắc trên thực tế. Trên cơ sở phân tích, phương

10


pháp này cũng giúp hệ thống lại những vấn đề pháp lý cơ bản về nguyên tắc trên đã
được trình bày trước đó.
Thứ ba, phương pháp so sánh. Trong quá trình phân tích những quy định của
pháp luật SHTT Việt Nam biểu hiện cho nguyên tắc trên, tác giả sẽ dùng phương
pháp này để so sánh, đối chiếu với quy định trong các điều ước quốc tế và pháp luật
của một số quốc gia nhằm tạo cách nhìn rộng hơn về vấn đề đang nghiên cứu. Qua
việc so sánh như trên cũng giúp chúng ta học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
từ pháp luật nước ngoài nhằm phục vụ cho việc đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật trong nước.
Thứ tư, phương pháp bình luận. Bên cạnh những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật, thì việc nghiên cứu những bản án cũng cần được thực hiện để làm rõ

hơn “nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
và cơng chúng”. Do đó, phương pháp trên sẽ phục vụ cho việc tìm hiểu, bình luận
những vấn đề pháp lý được đặt ra trong bản án cũng như thực tiễn xét xử của Tòa án
về những vấn đề có liên quan đến nguyên tắc trên.
5. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Danh mục từ viết tắt, Phần mở đầu, Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, thì khóa luận này được tác giả trình bày với hai
chương chính đó là:
Chương thứ nhất: Quy định của pháp luật về nguyên tắc cân bằng đối trọng về
lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng.
Chương thứ hai: Vấn đề thực thi nguyên tắc cân bằng đối trọng về lợi ích giữa
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng và một số kiến nghị góp phần hồn
thiện quy định của pháp luật.

11


CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG
ĐỐI TRỌNG VỀ LỢI ÍCH GIỮA TÁC GIẢ, CHỦ SỞ HỮU QUYỀN TÁC
GIẢ VÀ CÔNG CHÚNG
1.1. Mối tương quan về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công
chúng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả
Quyền tác giả là một trong các bộ phận của quyền SHTT, và việc tạo ra khung
pháp lý cho vấn đề này đã được thể hiện trong các điều ước quốc tế cũng như pháp
luật của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên quy định cụ thể về
quyền tác giả là Nghị định số 142/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay gọi là
Chính phủ) được ban hành vào ngày 14 tháng 11 năm 1986 với những nội dung cơ
bản như: Tác giả và đối tượng quyền tác giả; nội dung của quyền tác giả; công bố và
sử dụng tác phẩm; xử lý vi phạm. Và sau đó là sự lần lượt ra đời của Pháp lệnh bảo

hộ quyền tác giả số 38-L/CTN ngày 02 tháng 12 năm 1994 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội; Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN ngày 28 tháng 10 năm 1995 của Quốc hội
(BLDS 1995); Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc
hội; Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 và một số văn bản pháp luật có
liên quan. Có quan điểm cho rằng, việc ban hành Nghị định quy định quyền tác giả
ngày 14/11/1986 đã bước đầu đặt cơ sở cho việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật
về quyền tác giả; bước đầu mở rộng quan hệ quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả,
được nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan tâm giúp đỡ, phối hợp cùng Việt Nam
tổ chức các cuộc hội thảo về quyền tác giả, quyền kề cận; giúp ta đào tạo cán bộ2. Có
thể thấy, việc xây dựng và hồn thiện những quy định về lĩnh vực quyền tác giả ở
mỗi thời kỳ đều mang những ý nghĩa thiết thực, và trong thời kỳ hội nhập quốc tế
như hiện nay thì lại mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Liên quan đến khái niệm,
theo quy định của pháp luật hiện hành tại khoản 2 Điều 4 Luật SHTT 2005, sửa đổi,
bổ sung 2009, 2019 đã nêu quyền tác giả là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Qua khái niệm trên, có thể thấy được quyền
tác giả sẽ có phạm vi đó là: (i) Quyền đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc (ii)
quyền đối với tác phẩm do mình sở hữu.
Thơng qua việc đưa ra khái niệm, chúng ta đã phần nào có cái nhìn bao quát về
quyền tác giả, và tiếp theo chúng ta cùng làm rõ một số đặc điểm sau đây:
2

Thượng Thuận (1998), Thường thức về quyền tác giả, Nxb. Thanh Niên, tr. 63.

12


Thứ nhất, quyền tác giả bảo hộ hình thức sáng tạo. Theo đó, chỉ khi tác phẩm
được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định thì quyền tác
giả mới phát sinh. Cịn ý tưởng sẽ không được bảo hộ quyền tác giả bởi vẫn còn nằm
trong suy nghĩ, nhận thức của con người nên dễ bị thay đổi theo thời gian, khơng

gian. Ví dụ, một nhà thơ đang ấp ủ ý tưởng sáng tác một bài thơ nhằm ca ngợi sự hy
sinh thầm lặng của những lực lượng tuyến đầu chống dịch Covid-19 ở Việt Nam, thì
bài thơ sẽ được bảo hộ quyền tác giả khi nhà thơ thể hiện ý tưởng đó dưới một hình
thức vật chất nhất định, chẳng hạn như viết trên giấy. Khi quyền tác giả bảo hộ hình
thức sáng tạo thì việc các tác giả trùng ý tưởng sáng tạo là điều hồn tồn có thể xảy
ra. Do đó, những ý tưởng có thể tương tự nhau nhưng nếu khác nhau về cách thức thể
hiện, sự sắp xếp ngôn từ để biểu đạt ý tưởng thì sẽ tạo nên những tác phẩm được bảo
hộ quyền tác giả3. Với cùng một ý tưởng, nhưng mỗi tác giả bằng tri thức, sự trải
nghiệm của bản thân... kết hợp với cách thức thể hiện riêng thì sẽ tạo ra những tác
phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân và được bảo hộ quyền tác giả.
Thứ hai, quyền tác giả bảo hộ theo cơ chế tự động. Theo đó, tại khoản 1 Điều
6 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, thì quyền tác giả phát sinh khi tác
phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định mà không
phụ thuộc vào thủ tục đã đăng ký hay chưa đăng ký quyền tác giả. Và việc nộp đơn
để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả sẽ không phải là thủ tục bắt buộc
để được hưởng quyền tác giả4 và điều này đã thể hiện pháp luật SHTT Việt Nam bảo
hộ quyền tác giả theo cơ chế tự động. Việt Nam là thành viên của Công ước Berne
1886, nên việc ghi nhận cơ chế bảo hộ tự động quyền tác giả đã thể hiện sự cụ thể
hóa pháp luật quốc tế vào pháp luật trong nước. Có thể thấy, trong trường hợp khơng
thực hiện thủ tục đăng ký, tác giả có thể gặp khó khăn trong việc chứng minh quyền
của mình đối với tác phẩm5. Còn khi đã đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký quyền tác giả, thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ khơng có nghĩa vụ chứng
minh quyền tác giả thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ khi có chứng cứ ngược lại 6.
Ngồi ra, một lợi ích mà việc đăng ký quyền tác giả mang lại đó là tạo sự thuận lợi
cho hoạt động chuyển giao quyền tác giả. Cụ thể, việc đăng ký còn là một sự đảm
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nguyễn Hồ Bích Hằng và
Nguyễn Xuân Quang, Nxb. Hồng Đức, tr. 63.
4
Xem thêm khoản 2 Điều 49 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
5

Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Ngọc Hồng Phượng và Nguyễn Phương Thảo (2019), Sách tình huống (Bình
luận bản án) Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr. 120-121.
6
Xem thêm khoản 3 Điều 49 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
3

13


bảo về mặt hình thức cho các hoạt động chuyển giao quyền giữa chủ sở hữu với các
cá nhân, tổ chức khác7. Bởi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là cơ sở đảm bảo
về mặt hình thức, tạo lòng tin để các bên tiến đến việc giao kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền tác giả hoặc chuyển quyền sử dụng quyền tác giả.
Thứ ba, quyền tác giả bảo hộ tác phẩm có tính ngun gốc. Tính ngun gốc
của tác phẩm là một trong những đặc điểm quan trọng của quyền tác giả8. Cụ thể, tác
phẩm được tạo ra phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà
khơng sao chép từ tác phẩm của người khác9. Như chúng ta đã phân tích về vấn đề
cùng ý tưởng sáng tạo nhưng với cách thức thể hiện riêng của từng tác giả sẽ có thể
tạo ra những tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, và tính nguyên gốc sẽ được bộc lộ
qua cách thức thể hiện riêng biệt ấy. Có thể nói, tính ngun gốc cũng là một trong
các điều kiện quan trọng để xem xét một tác phẩm có được bảo hộ quyền tác giả hay
không trên thực tế.
1.1.2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả – chủ thể của quyền tác giả
Về chủ thể có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, tại khoản 1 Điều 13 Luật
SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 có quy định “tổ chức, cá nhân có tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu
quyền tác giả”. Thông qua quy định này, chúng ta có thể suy ra chủ thể của quyền
tác giả sẽ bao gồm: Tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
1.1.2.1. Tác giả
Quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019

đã nêu một chi tiết có liên quan đến tác giả đó là “người trực tiếp sáng tạo ra tác
phẩm”. Và Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ
Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả,
quyền liên quan (Nghị định số 22/2018/NĐ-CP) cũng đưa ra khái niệm tác giả, cụ thể
tác giả là “người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học” (khoản 1 Điều 6). Từ khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra hai ý
chính về tác giả: (i) Là người trực tiếp tham gia lao động trí tuệ để sáng tạo ra tác
phẩm và (ii) về định lượng của tác phẩm được tạo ra là một phần hoặc toàn bộ tác
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tlđd (3), tr. 70.
Nguyễn Thái Cường (2020), Bình luận bản án Quyền tác giả, Nxb. Hồng Đức, tr. 30.
9
Khoản 3 Điều 14 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
7
8

14


phẩm. Yếu tố “trực tiếp sáng tạo” đã thể hiện tính nguyên gốc của tác phẩm, một
trong những điều kiện để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Có bao giờ chúng nghĩ
rằng một ngày nào đó trí tuệ nhân tạo có thể tạo ra tác phẩm bên cạnh những tác phẩm
do con người tạo ra? Vâng, với sự phát triển khơng ngừng của cơng nghệ số thì điều
này hồn tồn có thể xảy ra. Có thể kể đến vào năm 2016, một cuốn tiểu thuyết do
cơng nghệ trí tuệ nhân tạo viết ra đã lọt qua vòng đầu của giải thưởng văn chương quốc
gia ở Nhật Bản10. Hay robot Aida tạo ra bức chân dung tự họa đầu tiên vào năm 201911.
Trí tuệ nhân tạo làm ra tác phẩm dẫn đến việc bảo hộ tác phẩm này như thế nào cũng
như việc xác định tác giả là ai đã phát sinh nhiều vấn đề cần phải bàn luận. Có lẽ, để
có được quy định phù hợp điều chỉnh cho vấn đề này thì cần sự tập trung nghiên cứu
cũng như sự cân nhắc kỹ lưỡng từ các nhà làm luật.

Để một tác phẩm được ra đời là cả một q trình lao động trí tuệ tốn nhiều
cơng sức, cho nên việc các tác giả kết hợp với nhau cùng trực tiếp sáng tạo ra tác
phẩm là một giải pháp tối ưu giúp rút ngắn thời gian cũng như nâng cao chất lượng
tác phẩm. Và đó chính là trường hợp tác phẩm được tạo ra bởi đồng tác giả. Ở khoản
2 Điều 6 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP đã nêu đồng tác giả là “những tác giả cùng
trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa
học”. Do đó, để được xem là đồng tác giả thì cần đáp ứng các điều kiện: (i) Về số
lượng phải từ hai tác giả trở lên và (ii) những tác giả này cùng trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm, tức có sự thống nhất ý chí với nhau từ ý tưởng sáng tạo ban đầu đến cách
thức thể hiện ý tưởng đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Ví dụ, hai nhạc sĩ kết
hợp cùng trực tiếp sáng tác một bài hát thì họ được xem là đồng tác giả và bài hát đó
đã thể hiện sự thống nhất của họ trong quá trình sáng tạo ra tác phẩm. Về vấn đề đồng
tác giả, có quan điểm cho rằng một tác phẩm đồng tác giả có từ hai người trở lên cùng
thống nhất từ tư duy đến sự thể hiện tác phẩm, công trình mà tác phẩm là kết quả của
quá trình sáng tạo thống nhất của các tác giả12. Có thể nói, yếu tố “cùng trực tiếp sáng
tạo” để cho ra đời một tác phẩm có sự thống nhất từ ý tưởng đến cách thức thể hiện
đã tạo nên nét đặc trưng cho đồng tác giả.
Kim Thoa, “Trí tuệ nhân tạo viết suýt đạt giải văn chương”, truy cập ngày 21/4/2022.
11
Ban thời sự Báo điện tử Đài Truyền Hình Việt Nam, “Robot Aida công bố những bức chân dung tự họa
đầu tiên”, truy cập ngày 21/4/2022.
10

12

Phùng Trung Tập (2021), Quyền Sở hữu trí tuệ, bảo vệ và chuyển giao, Nxb. Công an Nhân dân, tr. 341.

15



Ngoài tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm thì cịn có những người hỗ
trợ, cung cấp tư liệu, công cụ phương tiện để phục vụ cho quá trình tạo ra tác phẩm.
Vậy họ có được xem là đồng tác giả hay khơng? Theo đó, tại khoản 3 Điều 6 Nghị
định số 22/2018/NĐ-CP, thì “người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho
người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác
giả”. Do đó, trong trường hợp trên, người hỗ trợ, cung cấp công cụ phương tiện không
là tác giả, đồng tác giả bởi họ không trực tiếp tham gia sáng tạo ra tác phẩm. Về vấn
đề này, có thể kể đến câu chuyện ơng Hài đưa máy chụp ảnh kêu ơng Tâm chụp giúp
tấm ảnh, sau đó ông Hài cho ông Tri mang ảnh đi dự thi đứng tên ông Tri và đoạt giải
dẫn đến gây ra vụ tranh cãi. Ông Tâm cho rằng phải trả lại quyền tác giả cho ơng vì
ơng là người bấm máy13. Có thể thấy, trong tình huống này, ơng Tâm sẽ là tác giả của
tấm ảnh do ông là người bấm máy, tức trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên ông có
quyền nhân thân trong việc đứng tên trên tấm ảnh. Cịn ơng Hài khơng được xem là
tác giả, đồng tác giả vì chỉ là người cung cấp máy ảnh để ông Tâm sáng tạo ra tác
phẩm (chụp ảnh).
Từ việc phân tích những vấn đề liên quan đến tác giả, có thể thấy rằng tác giả
sẽ nắm các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm, trừ những trường hợp
tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Khi không
đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, tác giả chỉ nắm một số quyền nhân thân nhất
định tại Điều 19 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019. Và những trường
hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả sẽ được phân tích ở phần
tiếp theo.
1.1.2.2. Chủ sở hữu quyền tác giả
Ở Điều 36 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 cũng đã nêu rõ chủ
sở hữu quyền tác giả là “tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các
quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này”. Qua đây, chủ sở hữu quyền tác giả
có các đặc điểm sau: (i) Có thể là tổ chức hoặc cá nhân và (ii) chủ yếu nắm giữ các
quyền tài sản. Có thể thấy đặc điểm nắm giữ các quyền tài sản đã tạo nên nét khác
biệt cơ bản của chủ sở hữu quyền tác giả so với tác giả (thường nắm giữ các quyền
nhân thân). Dưới đây là một số trường hợp cụ thể về chủ sở hữu quyền tác giả:


Lam Điền và Thái Lộc, “Vui vẻ cho mượn máy chụp hình, ảnh đoạt giải rồi cãi nhau”, truy cập ngày 23/4/2022.
13

16


Thứ nhất, chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả. Trường hợp tác giả cũng đồng
thời là chủ sở hữu quyền tác giả, tức “tác giả đã sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở
vật chất - kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm”14. Trường hợp này, tác giả đã
trực tiếp lao động trí tuệ cũng như độc lập trong việc sử dụng tài chính, cơ sở vật chất
- kỹ thuật của mình để tạo ra tác phẩm. Ví dụ, một họa sĩ dùng tiền của mình mua
dụng cụ vẽ (giấy, màu, cọ vẽ, khung tranh…) để tiến hành vẽ ra một bức tranh thì
họa sĩ này là tác giả và đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Khi tác giả vừa là chủ
sở hữu quyền tác giả thì sẽ nắm giữ các quyền nhân thân (Điều 19 Luật SHTT 2005,
sửa đổi, bổ sung 2009, 2019) và các quyền tài sản (Điều 20 Luật SHTT 2005, sửa
đổi, bổ sung 2009, 2019), và đây là trường hợp tác giả kiểm soát một cách tuyệt đối
hai nhóm quyền quan trọng đối với tác phẩm.
Thứ hai, chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả. Cũng tương tự, khi “các
đồng tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình để sáng
tạo ra tác phẩm”15 thì trở thành chủ sở hữu quyền tác giả. Lúc đó, các đồng tác giả
sẽ nắm chung các quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với tác phẩm. Để tạo sự
thuận tiện, các đồng tác giả cần có sự thỏa thuận trước với nhau trong việc thực hiện
hai nhóm quyền trên. Chính sự thỏa thuận này sẽ hạn chế việc phát sinh những tranh
chấp khơng đáng có về sau. Pháp luật vẫn có sự linh hoạt trong việc quy định các
đồng tác giả có thể tách ra sử dụng độc lập phần riêng biệt của mình trong tác phẩm
mà khơng làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác16. Sau khi thực hiện
việc tách ra sử dụng độc lập, đồng tác giả đó cũng có các quyền nhân thân và quyền
tài sản đối với phần riêng biệt đã tách. Có thể nói quy định này giúp mỗi đồng tác giả
trở nên độc lập hơn trong việc thực hiện các quyền đối với phần của mình trong tác

phẩm, nhưng cần đáp ứng điều kiện không gây phương hại đến phần của các đồng
tác giả khác.
Thứ ba, chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác
giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả. Tại khoản 1 Điều 39 Luật SHTT 2005, sửa
đổi, bổ sung 2009, 2019, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả là người thuộc tổ chức
mình sáng tạo tác phẩm sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Về
trường hợp giao kết hợp đồng với tác giả, theo khoản 2 Điều 39 Luật SHTT 2005,
sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, tổ chức hoặc cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả để
Xem thêm Điều 37 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
Xem thêm khoản 1 Điều 38 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
16
Xem thêm khoản 2 Điều 38 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019.
14
15

17


sáng tạo ra tác phẩm thì trở thành chủ sở hữu quyền tác giả. Và cả hai trường hợp,
chủ sở hữu quyền tác giả sẽ nắm quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm và các quyền tài sản (khoản 3 Điều 19 và Điều 20 Luật SHTT 2005,
sửa đổi, bổ sung 2009, 2019). Ví dụ, một công ty chuyên về thiết kế các bản vẽ kiến
trúc của nhà ở đã giao nhiệm vụ cho nhân viên thuộc công ty (kiến trúc sư) làm bản
vẽ thiết kế kiến trúc, thì lúc này cơng ty là chủ sở hữu quyền tác giả còn nhân viên là
tác giả của bản vẽ trên. Hay một ca sĩ ký hợp đồng với nhạc sĩ để sáng tác một bài
hát cho mình, thì nhạc sĩ là tác giả của bài hát và ca sĩ là chủ sở hữu quyền tác giả với
các quyền nêu trên. Trong điều kiện kinh tế thị trường, trường hợp chủ thể sở hữu
tách biệt với chủ thể sáng tạo tài sản trí tuệ là rất phổ biến, nhất là đối với khu vực
doanh nghiệp17. Chính sự tách biệt này sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo và khai thác
tác phẩm, tức chủ sở hữu quyền tác giả sẽ thực hiện các quyền nêu trên để đem lại lợi

ích kinh tế, cịn tác giả sẽ nhận được khoản thù lao cho q trình lao động trí tuệ của
mình.
Thứ tư, chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế. Theo quy định tại Điều 105
và Điều 115 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc
hội, quyền tài sản được xem là một loại tài sản và gồm có quyền tài sản đối với đối
tượng quyền SHTT. Cho nên quyền tài sản đối với đối tượng quyền tác giả cũng có
thể trở thành di sản thừa kế. Cụ thể, Điều 40 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009,
2019 đã nêu tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật
về thừa kế sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả, và từ đó sẽ nắm quyền công bố tác phẩm
hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm và các quyền tài sản (khoản 3 Điều 19
và Điều 20 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019). Có thể thấy, tất cả các
quyền tài sản đều được thừa kế, còn đối với quyền nhân thân thì chỉ có duy nhất quyền
nhân thân gắn với tài sản tại khoản 3 Điều 19 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung
2009, 2019 mới được thừa kế. Các quyền nhân thân cịn lại sẽ khơng được thừa kế do
gắn liền với yếu tố nhân thân của chính tác giả, kể cả sau khi tác giả chết.
Thứ năm, chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền. Theo
khoản 1 Điều 41 Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, khi tổ chức, cá nhân
được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản tại Điều 20 và quyền
công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm tại khoản 3 Điều 19

Ngô Tuấn Nghĩa (2011), Bảo đảm quan hệ lợi ích hài hịa về sở hữu trí tuệ trong hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, tr. 17.
17

18


×