Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Quyền của bị hại theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.3 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ NGỌC LÊ

QUYỀN CỦA BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN CỦA BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên
: Bùi Thị Ngọc Lê
Lớp
: Cao học Luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình do chính tơi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Mọi kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học khác được sử dụng trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng và
được trích dẫn đầy đủ, trung thực theo đúng quy định của Trường.
Tác giả sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Ngọc Lê


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Quyền của bị hại theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là đề tài tơi
chọn nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp sau hai năm theo học chương trình cao
học chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự tại trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh.
Để hồn thành luận văn này, lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc
đến TS. Lê Huỳnh Tấn Duy, Phó trưởng khoa luật Hình sự, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh. Thầy đã trực tiếp chỉ dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu để tơi
hồn thiện luận văn này. Ngồi ra, tơi xin chân thành cảm ơn Thầy, Cơ của Khoa
Luật Hình sự đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình giảng dạy.
Nhân dịp này, tơi xin chân thành cảm ơn Khoa Luật Hình sự, Trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh; lãnh đạo và các anh chị đang cơng tác tại Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang đã tạo điều kiện và thời gian hỗ trợ tôi suốt quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã hỗ trợ, giúp đỡ tơi
hồn thành khóa học và luận văn này.
Mặc dù cố gắng rất nhiều nhưng nội dung luận văn không tránh khỏi những
thiết sót, tác giả rất mong nhận được sự thơng cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý
kiến của các nhà khoa học, của quý thầy cô, các cán bộ trong ngành pháp luật và

các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS
BLTTHS

: Bộ luật Hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự

HSPT

: Hình sự phúc thẩm

HSST

: Hình sự sơ thẩm

TAND
TANDTC
TTHS

: Tịa án nhân dân
: Tòa án nhân dân tối cao
: Tố tụng hình sự


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. QUYỀN YÊU CẦU VÀ RÚT YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA BỊ HẠI ............................................................................................6
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự của bị hại ...................................................................................6
1.2. Thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
của bị hại ..............................................................................................................10
1.3. Kiến nghị hồn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về quyền yêu
cầu, rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại ............................................19
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................21
CHƯƠNG 2. QUYỀN ĐỀ NGHỊ HÌNH PHẠT, MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI, BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA BỊ HẠI ......22
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về quyền đề nghị hình phạt, mức bồi
thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi thường của bị hại...........................22
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại,
biện pháp đảm bảo bồi thường của bị hại ........................................................26
2.3. Kiến nghị hướng dẫn thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về
quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi
thường của bị hại ................................................................................................38
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................40
KẾT LUẬN ..............................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bị hại là một chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đây là
chủ thể mang quyền và tham gia tích cực vào q trình giải quyết vụ án hình sự, các
quyền của bị hại được ghi nhận trong luật tố tụng hình sự, thể hiện rõ mục tiêu bảo
vệ, nâng cao quyền con người, quyền công dân và phù hợp với tinh thần của Hiến
pháp 2013, tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nhằm
cụ thể hóa quan điểm của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật, trên cơ
sở kế thừa BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền mới
của bị hại (Điều 62): Quyền đưa ra chứng cứ, quyền được đề nghị chủ tọa phiên tòa
hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; hay quyền được tham gia một số
hoạt động tố tụng; đồng thời, luật cũng tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi mở rộng hơn một
số quyền cơ bản khác. Đây được xem là công cụ pháp lý quan trọng để bị hại chủ
động hơn trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, giúp xác định sự thật
khách quan của vụ án.
Trên cơ sở quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng nghiêm
chỉnh chấp hành, tạo điều kiện để bị hại thực hiện tốt quyền của mình nhằm làm
sáng tỏ và đảm bảo công bằng cho vụ án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quyền của bị
hại trong tố tụng hình sự chưa được thực hiện một cách chủ động, tồn diện, cịn
nhiều vướng mắc và hạn chế cần được làm rõ:
Vấn đề yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố của bị hại đang gặp nhiều khó khăn
khi thực hiện. Điều 155 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định
“chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134,
135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của BLHS khi có yêu cầu của bị hại…”,
trong khi đó quyền yêu cầu khởi tố được gắn liền với chức năng buộc tội và quyền
buộc tội của bị hại, quyền buộc tội đó có được xem có giá trị như cáo trạng của cơ

quan công tố không và vị trí pháp lý của họ trong trường hợp này có được xác định
giống như kiểm sát viên không? nhưng đến thời điểm này vẫn chưa hướng dẫn cụ
thể về trình tự, thủ tục khởi tố để bị hại thực hiện quyền này; hay rút khởi tố là một
quyền của bị hại được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào được quy định tại
khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015, nhưng nhà làm luật vẫn chưa tính đến hậu
quả pháp lý của án sơ thẩm, các chủ thể liên quan trong vụ án, các thiệt hại vật chất
khác nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại giai đoạn phúc thẩm. Như vậy, hướng


2
giải quyết bản án sơ thẩm, trách nhiệm của thẩm phán xét xử sơ thẩm, các nội dung,
đồng phạm khác trong vụ án sẽ thực hiện như thế nào, hiện tại vẫn chưa có văn bản
quy định chi tiết về vấn đề này. Bên cạnh, quyền đề nghị hình phạt, đưa ra mức bồi
thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường của bị hại được quy định tại khoản
2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 sự tuy có thực hiện nhưng thụ động, bị hại chưa thật
sự biết một cách cụ thể các quyền của mình và vai trị của các cơ quan có thẩm
quyền để bị hại thực hiện quyền này còn quá mờ nhạt, sự chồng chéo giữa quy định
Điều 62 BLTTHS năm 2015 và quy định của BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt
hại và biện pháp đảm bảo bồi thường của bị hại trong vụ án hình sự đang là một vấn
đề cần trả lời thấu đáo.
Chính vì vậy, học viên chọn đề tài: “Quyền của bị hại theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm phần nào làm rõ hơn quy
định của pháp luật về vấn đề này, đề pháp luật được áp dụng trong thực tiễn một
cách thống nhất.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quyền của bị hại là một chế định có phạm vi rộng. Qua khảo sát, tác giả tiếp
cận được các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn bao gồm:
- Bài viết: “Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại,
đương sự trong vụ án hình sự” của tác giả Võ Thị Kim Oanh, Ngô Quang Cảnh
đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, năm 2016.

Nội dung bài viết chỉ ra một số điểm mới của BLTTHS năm 2015 về bị hại,
đương sự trong vụ án hình sự. Trong đó chỉ ra một số u cầu trong thực tiễn áp
dụng một số điểm mới về bị hại, liên quan đến các vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự như: bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; hoàn trả tài sản bị
chiếm đoạt; việc sửa chữa, khắc phục tài sản bị hư hỏng hoặc thiệt hại về uy tín do
hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho cơ quan nhà nước, tổ chức vẫn chưa
có căn cứ để xác định…; Bài viết chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các quyền đó của bị hại chưa
được phát huy.
- Bài viết: “Một số vấn đề về quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại”
của tác giả Ngơ Văn Lượng đăng trên Tạp chí khoa học kiểm sát, năm 2018.
Nội dung bài viết cho thấy chế định này được quy định cụ thể từ khi
BLTTHS năm 1988 được ban hành và thông qua (Điều 88); BLTTHS năm 2003
tiếp tục ghi nhận tại Điều 105 và BLTTHS năm 2015 kế thừa và quy định tại Điều


3
155 nhưng về hình thức yêu cầu, thời hạn thực hiện quyền yêu cầu, phạm vi yêu cầu
của bị hại như thế nào thì chưa được nhận thức thống nhất và có hướng dẫn cụ thể,
dẫn đến khơng tính khả thi trong thực tế.
- Bài viết: “Thời điểm bị hại có quyền rút u cầu khởi tố vụ án hình sự và
kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Phan Thành Nhân (TAND tỉnh Đồng Tháp), Đỗ
Thị Nhung (TAND thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương) đăng trên Tạp chí TAND điện
tử, năm 2019.
Bài viết phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2015 về thời điểm bị
hại hoặc người đại diện của bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố hình sự, thực tiễn áp
dụng và đề xuất giải pháp hồn thiện. Theo đó, thời điểm bị hại hoặc người bị hại
rút yêu cầu khởi tố vụ án, nhất là ở giai đoạn xét xử phúc thẩm sẽ gây hậu quả pháp
lý bởi các quy định về xét xử phúc thẩm của BLTTHS năm 2015 không đề cập đến
vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án.

Một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình nêu trên được học viên kế thừa
và phát triển trong luận văn. Qua rà sốt, có nhiều cơng trình nghiên cứu chung về
quyền và nghĩa vụ của bị hại hoặc quyền của bị hại hoặc nghĩa vụ của bị hại, nhưng
chưa có cơng trình nào phân tích chun sâu về thực tiễn áp dụng các quyền liên
quan đến nội dung như vừa trình bày ở trên. Do đó, đề tài học viên lựa chọn khơng
có sự trùng lặp hồn tồn với các cơng trình nghiên cứu trước, đáp ứng được tính
mới trong nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng, đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện và nâng
cao hiệu quả thực hiện một số quyền của bị hại trong tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, học viên xác định cần phải thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích, đánh giá quy định của luật tố tụng hình sự về một số quyền của
bị hại;
- Trình bày, đánh giá thực tiễn thực hiện một số quyền của bị hại trong tố
tụng hình sự; phát hiện những hạn chế, vướng mắc và xác định nguyên nhân;
- Đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung một số quy định của luật
tố tụng hình sự về quyền của bị hại và nâng cao hiệu quả thực hiện.


4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật tố tụng về
quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại; quyền đề nghị hình
phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi thường của bị hại và thực
tiễn thực hiện các quyền này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá quy định của
BLTTHS năm 2015 về quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị
hại; quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi
thường của bị hại.
- Về không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu, khảo sát thực tiễn thực
hiện quy định quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại;
quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi thường
của bị hại trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2018 đến khi hoàn thành
luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Qua quy định của pháp luật, cùng với các giáo trình, tài liệu có liên quan
khác, đề tài sẽ được nghiên cứu bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh; trong từng trường hợp cụ thể, các phương pháp sẽ được kết hợp để
làm rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu. Trong đó, phương pháp phân tích, tổng hợp
được sử dụng xun suốt tồn bộ luận văn làm sáng tỏ những yếu tố vướng mắc,
hạn chế của quy định pháp luật có liên quan, từ đó, định hướng cho việc đề ra giải
pháp và rút ra được những vấn đề cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn
cụ thể hơn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại; quyền đề nghị hình
phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp đảm bảo bồi thường của bị hại của bị hại,
giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất quan điểm khi áp dụng pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đánh giá tính khả thi của pháp luật
khi triển khai trong thực tiễn; giúp các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng linh động
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Luận văn cịn là một nguồn; tài liệu tham
khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật.



5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được bố cục như sau:
Chương 1. Quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Chương 2. Quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp
đảm bảo bồi thường của bị hại


6
CHƯƠNG 1
QUYỀN YÊU CẦU VÀ RÚT YÊU CẦU KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA BỊ HẠI
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về quyền yêu cầu và rút yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Bị hại là khái niệm mới, được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. Trước đây
BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 đều sử dụng tên gọi “người bị hại”, đó là
“người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra”1. Theo đó,
người bị hại chỉ có thể là một người cụ thể bị tội phạm gây thiệt hại về thể chất, về tinh
thần hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư
cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết
thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại
diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy, các mối quan hệ
xã hội luôn luôn đa dạng về chủ thể, tội phạm không chỉ xâm phạm, gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân mà còn xâm hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của các tổ chức khác, do đó quy định “người bị hại” tại BLTTHS ban hành
năm 1998 và năm 2003 chưa toàn diện, chưa điều chỉnh hết các vấn đề phát sinh
của xã hội và chủ thể của những mối quan hệ đó. Qua sửa đổi, bổ sung, BLTTHS

năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ “bị hại” nhằm điều chỉnh toàn diện hơn về đối
tượng. Việc mở rộng đối tượng “bị hại” của BLTTHS năm 2015 phù hợp với thực
tiễn hoạt động TTHS, thống nhất với Hiến pháp, BLHS và các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan khác; đồng thời, việc xác định này cũng thể hiện sự bình
đẳng giữa chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, bình
đẳng về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị; đảm bảo mọi chủ thể
đều được hưởng quyền và nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia TTHS.
Bị hại theo BLTTHS năm 2015, là “cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm
gây ra hoặc đe dọa gây ra”2. Theo quy định này thì bị hại bao gồm cá nhân hoặc cơ
quan, tổ chức.
1
2

Khoản 1 Điều 39 BLTTHS năm 1988, khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003.
Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015.


7
Bị hại được xác định qua đặc điểm là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại
trực tiếp do tội phạm gây ra; những thiệt hại đó có thể là thể về chất, tinh thần, tài
sản đối với cá nhân; hoặc thiệt hại về vật chất, uy tín đối với cơ quan, tổ chức. Cá
nhân, cơ quan, tổ chức trở thành bị hại khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
xác nhận bằng các quyết định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật. Bị hại có các đặc điểm sau: (1).Là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
(2).Thiệt hại do tội phạm gây ra bao gồm: cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín mà trong một
số trường hợp khơng bắt buộc có thiệt hại xảy ra; (3).Thiệt hại của bị hại phải có
mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại, đây là
điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và các chủ thể khác trong vụ án hình

sự; (4).Cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách
là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Đây là đối tượng
gánh chịu thiệt hại do một tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra nên bị hại có quyền
được yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Có thể hiểu quyền của bị hại là những quyền được pháp luật
ghi nhận cho họ khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTHS.
* Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định bị hại và người đại diện của
họ có rất nhiều quyền, bao gồm: Được thơng báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
quy định tại Điều 62 BLTTHS; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình
bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy
định của pháp luật; Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; Đề nghị
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá
tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Đề nghị hình phạt, mức bồi thường
thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; Tham gia phiên tịa; trình bày ý kiến, đề
nghị chủ tọa phiên tịa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tịa;
Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Tham gia các
hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng


8
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Các quyền khác theo quy
định của pháp luật.
Ngoài những quyền tố tụng đã liệt kê ở trên, bị hại hoặc người đại diện (nếu
bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc

đã chết) cịn có quyền u cầu khởi tố vụ án hình sự nếu thuộc các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015. Theo quy định mới tại Luật sửa đổi,
bổ sung BLTTHS năm 2021 có 09 tội được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc
người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất hoặc đã chết, bao gồm các tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều
134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 BLHS năm 2015, cụ thể: Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134); Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt
quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136); Tội vơ ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138); Tội vơ ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính (Điều 139); Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội cưỡng dâm (Điều
143); Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội vu khống (Điều 156). Đây là những
tội danh mà người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại cũng như làm ảnh hưởng đến Nhà nước và xã hội nhưng ở mức độ
hạn chế, việc mặc nhiên khởi tố vụ án hình sự có thể ảnh hưởng đến uy tín, danh dự,
nhân phẩm và tổn hại thêm tinh thần của họ. Do đó, pháp luật TTHS cho phép bị
hại, người đại diện của họ quyền quyết định có u cầu khởi tố vụ án hình sự về các
tội danh trên hay khơng.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng hình sự, là
nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sau khi xác định có các
dấu hiệu của tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên các căn cứ như: tố
giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện
thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự
thú. Bị hại là chủ thể bị thiệt hại, tổn thương và cần được pháp luật bảo vệ. Họ được
pháp luật tạo điều kiện để chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thơng
qua việc u cầu khởi tố vụ án hình sự trong những trường hợp đã đề cập ở trên.



9
Các vụ việc khởi tố theo yêu cầu của hại thường có tính chất nguy hiểm khơng cao,
phạm tội do vô ý hoặc cố ý nhưng thiệt hại không lớn, tính chất khơng nghiêm
trọng, thường liên quan trực tiếp đến bản thân của bị hại. Đây là một quy định biệt
lệ, bởi vì về ngun tắc chỉ có Nhà nước mới có quyền quyết định việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Đối với những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm
2015 thì yêu cầu khởi tố của bị hại là căn cứ làm phát sinh việc xem xét khởi tố vụ
án hình sự. Điều này có nghĩa là dù vụ việc có dấu hiệu của tội phạm nhưng nếu bị
hại không yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền khơng thể khởi tố vụ án. Có
những vụ việc, bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ không muốn giải quyết
bằng con đường tố tụng vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình;
hoặc vì giữa bị hại và người gây thiệt hại có mối quan hệ huyết thống, quan hệ hôn
nhân gia đình, quan hệ cơng tác hoặc vì tốn kém thời gian, chi phí… hay trong một
số trường hợp, bị hại quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bồi thường dân sự.
Trong trường hợp thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì bị hại cũng
khơng trực tiếp thực hiện việc khởi tố, truy tố mà chỉ đưa ra yêu cầu khởi tố và đưa ra
lời buộc tội công khai tại phiên tòa, VKSND là cơ quan giữ vai trò quyết định trong
việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thay mặt Nhà nước kiểm sát tính có căn cứ và tính
hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hình sự và các loại văn bản có liên quan đến
việc khởi tố vụ án đó; đồng thời, giữ vai trị chính thực hiện buộc tội tại phiên tịa.
* Quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Khi vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại có quyền rút u
cầu khởi tố vụ án ở bất kỳ giai đoạn nào nhằm chấm dứt việc giải quyết vụ án đó
mà khơng ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội và nhiệm vụ của nhà nước trong phòng,
chống tội phạm3.
Khi bị hại rút yêu cầu khởi tố, vụ án sẽ được đình chỉ và bị hại (hoặc người
đại diện của họ) không có quyền yêu cầu lại nếu việc rút yêu cầu khởi tố đó là tự

nguyện, khơng bị ép buộc, cưỡng bức. Đây là một quy định được kế thừa từ
BLTTHS năm 2003 và có sửa đổi, bổ sung về quyền yêu cầu của người bị hại trong
khởi tố vụ án hình sự. BLTTHS năm 2003 quy định trong trường hợp người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tịa sơ thẩm thì vụ án phải được đình
chỉ; điều này có nghĩa nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án sau khi mở phiên
tòa sơ thẩm thì vụ án sẽ khơng được đình chỉ vì lý do này.
3

Khoản 2, 3 Điều 155 BLTTHS năm 2015


10
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thời điểm bị hại và người đại diện của họ rút
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự so với BLTTHS 2003. Khoản 2 Điều 155 quy định
“Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”.
Việc đình chỉ vụ án hình sự được quy định cụ thể trong từng giai đoạn, trong giai
đoạn điều tra, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra; trong giai đoạn truy
tố, VKSND quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án; trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tịa ra quyết định đình chỉ vụ án.
Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359
của BLTTHS năm 2015 hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm,
Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút u cầu, khơng phải do lỗi của Tòa án cấp sơ
thẩm4. Như vậy, trong giai đoạn phúc thẩm nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án thì
Tịa án cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm trước khi đình chỉ vụ án.
Thông qua quy định mở rộng thời gian bị hại được rút yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự dẫn đến chấm dứt việc giải quyết vụ án, nhà làm luật đã có sự tơn trọng quyền
tự định đoạt của bị hại; mở rộng quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình

sự. Bảo vệ bị hại khơng chỉ đơn thuần là trừng trị người phạm tội mà còn phải xem xét
đến nguyện vọng của họ muốn xử lý vụ việc như thế nào. Đây là một quy định quan
trọng của Nhà nước thể hiện tính dân chủ, nhân văn, tôn trọng quyền tự định đoạt của
bị hại khi bị tội phạm gây thiệt hại về vật chất, thể chất, uy tín hoặc tinh thần, cho họ
được tự chọn lựa phương án giải quyết phù hợp với quyền, lợi ích của mình.
1.2. Thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự của bị hại
Để tìm hiểu thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự của bị hại, tác giả tiến hành khảo sát ba bản án hình sự phúc thẩm tại ba địa
phương là An Giang, Tuyên Quang và Cần Thơ.
Vụ án thứ nhất5:
Khoảng 17 giờ ngày 18/6/2018, trong lúc uống rượu tại nhà Lê Thị Thúy (tổ
06, khóm Vĩnh Xuyên, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang)
Công văn 254/TANDTC-PC của TANDTC, ngày 26/11/2018 của TANDTC.
Bản án HSPT số 41/2019/HS-PT ngày 27/02/2019 về “Huỳnh Văn Khanh cố ý gây thương tích” của TAND
tỉnh An Giang.
4
5


11
Huỳnh Văn Khanh và Huỳnh Kim Quang xảy ra mâu thuẫn cự cãi nhau. Khanh
dùng kéo đâm nhiều cái, trúng vùng lưng, tay, chân của Quang, gây thương tích;
được mọi người can ngăn, đưa Quang đi cấp cứu, điều trị. Ngày 21/6/2018, Huỳnh
Kim Quang có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Huỳnh Văn Tính và Huỳnh Văn
Khanh, không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Kết luận giám định pháp y số 157/18/TgT ngày 01/8/2018 của Trung tâm
Pháp y tỉnh An Giang xác định Huỳnh Kim Quang tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08%.
VKSND thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn Khanh
về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS năm

2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại bản án HSST số 86/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 của TAND thành phố
Châu Đốc, tỉnh An Giang đã quyết định: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134;
điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Khanh phạm tội "Cố ý gây thương
tích"; xử phạt Huỳnh Văn Khanh 06 (sáu) tháng tù; ngồi ra, án sơ thẩm cịn tun
về phần xử lý vật chứng; án phí hình sự và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 03/12/2018, bị cáo Huỳnh Văn Khanh có đơn kháng cáo với nội dung
xin được hưởng án treo và bị hại ông Huỳnh Kim Quang có đơn rút yêu cầu khởi tố
vụ án6.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Văn Khanh vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo xin được hưởng án treo, ông Huỳnh Kim Quang vẫn xác định kháng
cáo xin rút toàn bộ yêu cầu khởi tố đối với bị cáo Khanh là hồn tồn tự nguyện,
khơng bị ai ép buộc. Tại bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định khơng có
cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo và ông Quang xác định vẫn giữ nguyên ý
kiến kháng cáo xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khơng u cầu xử lý hình sự
đối với bị cáo Khanh; và việc rút yêu cầu khởi tố là hoàn toàn tự nguyện. Hội
đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 359 của BLTTHS năm 2015 và
Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TANDTC thấy cần hủy bản
án HSST số 86/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 của TAND thành phố Châu Đốc,
tỉnh An Giang và đình chỉ vụ án. Việc hủy bản án sơ thẩm không phải do lỗi của
Tòa án cấp sơ thẩm, mà hủy bản án sơ thẩm với lý do người đã yêu cầu khởi tố vụ
Công văn 254/TAND-PC ngày 26/11/2018: “…trường hợp kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút u cầu thì Tịa án phải hướng dẫn họ
làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm”.
6


12
án hình sự rút u cầu khởi tố, hồn tồn phù hợp với quy định của pháp luật

TTHS. Do đó, TAND tỉnh An Giang căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359
của BLTTHS năm 2015; Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của
TANDTC tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-ST ngày 27/11/2018
của TAND thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang và đình chỉ vụ án.
Vụ thứ hai7:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 05/01/2020, tại khu vực đường bê tông thuộc
thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, Phạm Văn D đã có hành vi dùng 01 đoạn
gậy gỗ dài khoảng 80 cm đường kính 03 cm vụt 03 phát vào lưng, cổ tay trái, đùi
phải của anh Bàn Văn C, gây thương tích với tỷ lệ tổn thưởng cơ thể 1%. Tại Bản
án HSST số 51/2020/HS-ST ngày 02/7/2020 của TAND huyện Y, tỉnh Tuyên
Quang đã quyết định căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều
51; Điều 38 của BLHS tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “cố ý gây thương
tích”, xử phạt bị cáo Phạm Văn D 06 (sáu) tháng tù. Buộc bị cáo Phạm Văn D phải
bồi thường cho bị hại Bàn Văn C tổng số tiền 3.718.700 đồng.
Nhận định của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm: Hành vi phạm tội của bị cáo
là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác; xâm
phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương. Tuy nhiên, trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, giữa bị cáo và bị hại đã thỏa thuận được với nhau
về bồi thường thiệt hại, nên trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa phúc thẩm bị hại
Bàn Văn C đã tự nguyện rút yêu cầu khởi tố vụ án; tại phiên tịa phúc thẩm bị cáo
rút tồn bộ nội dung kháng cáo.
Xét, việc bị hại Bàn Văn C rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và bị cáo Phạm
Văn D rút toàn bộ nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sự việc bị cáo
Phạm Văn D có hành vi dùng 01 đoạn gậy gỗ dài khoảng 80 cm đường kính 03 cm
vụt 03 phát vào lưng, cổ tay trái, đùi phải của anh Bàn Văn C gây thương tích với tỷ
lệ tổn thương cơ thể 1% cho anh Bàn Văn C là hành vi trái pháp luật và thuộc
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, do đó các cơ quan tiến
hành tố tụng huyện Y, tỉnh Tuyên Quang tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
bị cáo Phạm Văn D về tội Cố ý gây thương tích là hồn tồn đúng quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, trước khi mở phiên tòa phúc thẩm bị hại Bàn Văn C xin rút

yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, tại phiên tịa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn D xin rút
Bản án HSPT số 26/2020/HSPT ngày 10/9/2020 về “Phạm Văn D cố ý gây thương tích” của TAND tỉnh
Tuyên Quang.
7


13
toàn bộ nội dung kháng cáo, việc xin rút các yêu cầu trên của bị hại và bị cáo là
hoàn tồn tự nguyện, khơng phải do bị ép buộc, cưỡng bức, vì vậy cần chấp nhận đề
nghị của bị hại Bàn Văn C, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Việc hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án khơng phải do lỗi của Tịa án cấp sơ thẩm mà do bị hại
Bàn Văn C đã rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
TAND tỉnh Tuyên Quang căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều
355; Điều 359 BLTTHS hủy bản án sơ thẩm số 51/2020/HSST ngày 02/7/2020 của
TAND huyện Y, tỉnh Tuyên Quang và đình chỉ vụ án; đề nghị người có thẩm quyền
thuộc Cơng an huyện Y, tỉnh Tun Quang tiến hành xem xét xử phạt vi phạm hành
chính đối với Phạm Văn D theo quy định của pháp luật.
Vụ thứ ba8:
Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 11/6/2018, sau khi uống rượu–bia, Nguyễn Lưu
Hoài T cùng Trần Anh Tuấn và Huỳnh Nghĩa Trọng về nhà trọ tại địa chỉ số 96 đường
số 24, khu dân cư Thới Nhựt, phường An Khánh, quận N, thành phố Cần Thơ (nơi T ở
trọ để đi học). Trong lúc thay quần áo, T nhìn thấy chị Phan Nhật T2 đang ở tầng 1 nhà
số 94 liền bên nên nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị T2, T khơng mặc quần áo
trèo từ ban công nhà số 96 sang ban công nhà chị T2. T dùng vũ lực đè chị T2 xuống
để quan hệ trái với ý muốn của chị T2; chị T2 truy hô, bà Lý Thị Ngoan (cô của chị
T2) chạy đến phịng tắm nhìn thấy sự việc, bà Ngoan truy hô lên, chị T2 dùng chân đạp
vào người T và vùng bỏ chạy. Ngày 12/6/2018, chị Phan Nhật T2 có đơn u cầu khởi
tố vụ án hình sự và xử lý Nguyễn Lưu Hồi T về hành vi hiếp dâm, khơng u cầu bồi
thường. Q trình điều tra, Nguyễn Lưu Hồi T thừa nhận hành vi phạm tội.
Tại bản án HSST số 14/2019/HSST ngày 14/01/2019 của TAND quận Ninh

Kiều đã căn cứ khoản 1 Điều 141, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 15 và Điều 57
BLHS tuyên bố bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T phạm tội “Hiếp dâm”, xử phạt bị cáo
Nguyễn Lưu Hồi T 02 năm tù. Sau khi tuyên án sơ thẩm, vào ngày 24/01/2019, bị
cáo Nguyễn Lưu Hồi T có đơn kháng cáo xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự với
lý do bị cáo đã ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả. Ngày
24/01/2019, bị hại Phan Nhật T2 có đơn xin rút lại tồn bộ u cầu khởi tố đối với
bị cáo Nguyễn Lưu Hồi T.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo
theo quy định tại khoản 1 Điều 141 BLHS là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Bản án HSPT số 39/2019/HS-PT ngày 27/3/2019 về “Nguyễn Lưu Hồi T phạm tội hiếp dâm” của TAND
thành phố Cần Thơ.
8


14
Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng được quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS nên không thuộc trường hợp không có sự
việc phạm tội quy định tại khoản 1 và hành vi không cấu thành tội phạm quy định
tại khoản 2 Điều 157 BLTTHS. Do đây là vụ án được khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS, việc người bị hại tự nguyện
rút yêu cầu khởi tố vụ án là tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn xét xử phúc thẩm;
bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo kháng cáo xin được miễn hình phạt
nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 357 BLTTHS.
TAND thành phố Cần Thơ căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 357 BLTTHS áp
dụng khoản 1 Điều 141; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 57 và Điều 59
BLHS tuyên bố: Nguyễn Lưu Hồi T phạm tội “Hiếp dâm” và miễn hình phạt đối
với Nguyễn Lưu Hồi T.
Qua ba bản án hình sự phúc thẩm, tác giả nhận thấy các quy định pháp
luật tố tụng liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án còn nhiều vướng mắc;

bên cạnh, Tòa án cấp phúc thẩm của ba địa phương áp dụng pháp luật không
thống nhất trong trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án mà nguyên nhân
một phần là do quy định của pháp luật TTHS chưa rõ ràng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 không quy định về thời hạn thực hiện quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại, điều này được hiểu là bị hại có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc nào. Thực tế, khi xảy ra hành vi có dấu hiệu tội
phạm thuộc khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 thì cơ quan có thẩm quyền vẫn
khơng thể khởi tố vụ án khi chưa có yêu cầu của bị hại; kéo theo việc xử lý tin
báo, tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố quy định tại Điều 147 BLTTHS năm 2015. Ngồi ra, việc khơng
quy định thời hạn u cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại về bản chất có mâu
thuẫn với thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 27 BLHS
năm 2015. Bởi vì, điểm a khoản 2 Điều 27 quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 05 năm và điểm b khoản 2 Điều
27 BLHS quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
nghiêm trọng là 10 năm; trong khi các tội phạm khởi tố theo yêu cầu của bị hại tại
khoản 1 Điều 155 BLHS năm 2015 là những tội phạm ít nghiêm trọng và có 2 tội
phạm nghiêm trọng (tội “Hiếp dâm” quy định tại Điều 141, tội “Cưỡng dâm” quy


15
định tại Điều 143 BLHS) nhưng khơng có quy định thời hạn cho bị hại thực hiện
quyền yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này được hiểu là bị hại có quyền yêu cầu khởi
tố vụ án ở bất kỳ thời gian nào. Có thể thấy, cùng là một tội danh, cùng là chủ thể
có quyền khởi tố vụ án và có quyền yêu cầu khởi tố vụ án nhưng pháp luật quy
định cho phép một chủ thể thực hiện quyền khởi tố trong thời hạn quy định (cơ
quan, người tiến hành tố tụng), còn một chủ thể được thực hiện quyền yêu cầu
khởi tố vô thời hạn (bị hại). Nếu căn cứ vào yếu tố “yêu cầu” của bị hại để không
quy định thời hạn yêu cầu khởi tố vụ án (chỉ là “yêu cầu” cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng khởi tố vụ án, cịn việc được chấp nhận hay khơng là
chuyện khác), xét thấy cũng chưa phù hợp.
Thứ hai, quy định trình bày lời buộc tội của bị hại tại phiên tòa theo khoản 3
Điều 62 BLTTHS năm 2015 chưa được hướng dẫn cụ thể. Pháp luật TTHS quy
định rằng trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại
hoặc người đại diện của bị hại được trình bày lời buộc tội tại phiên tịa. Vấn đề
được đặt ra là việc trình bày lời buộc tội của bị hại tại phiên tịa vẫn chưa có hướng
dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền. Cũng cùng mang yếu tố “buộc tội” nhưng
tính pháp lý “buộc tội” của bị hại có giống với “buộc tội” của cơ quan thực hành
quyền công tố không? Và khi bị hại đã trình bày lời buộc tội thì cơ quan cơng tố có
cần đọc cáo trạng giống như những phiên tịa xét xử vụ án hình sự khác? Trong thực
tiễn xét xử cho thấy tại các phiên tòa, quyền buộc tội vẫn thuộc về cơ quan thực
hành quyền công tố, bị hại trong trường hợp này về vai trị, vị trí vẫn giống như bị
hại ở các vụ án khác. Trong các bản án đã nêu trên, tất cả các trình tự, thủ tục khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đều được thực hiện bởi cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; và tại phiên tòa, quyền buộc tội vẫn thuộc về cơ quan
thực hành quyền công tố.
Tại Điều 320 BLTTHS năm 2015 quy định trình tự phát biểu khi tranh luận
tại phiên tịa, trước tiên Kiểm sát viên trình bày luận tội; bị cáo trình bày lời bào
chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị hại, đương sự, người đại
diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trong phần xét
hỏi tại phiên tòa, bị hại chỉ được đề nghị với chủ tọa phiên tịa hỏi thêm các tình tiết
cần làm sáng tỏ vụ án, trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị
hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình
bày luận tội. Điều này không thỏa đáng khi bị hại là chủ thể có quyền yêu cầu khởi
tố vụ án nhưng chỉ được bổ sung ý kiến sau phần luận tội của Kiểm sát viên và trình


16
bày ý kiến bảo vệ quyền, lợi ích của mình sau cả phần bào chữa của bị cáo, cũng

khơng có quyền đặt câu hỏi trực tiếp với bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác theo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa9. Nếu đã quy định bị hại có quyền u
cầu khởi tố vụ án hình sự thì phải có quy định khác hơn so với vụ án hình sự thơng
thường và phải có trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa phù hợp hơn, đúng với
quyền mà bị hại được pháp luật cho phép.
Thứ ba, quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại không được
BLTTHS năm 2015 quy định ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Với mục tiêu bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cũng như quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, uy tín, danh
dự, tương lai của bị hại trong một trường hợp nhất định10, pháp luật TTHS đã trao
cho bị hại quyền tự quyết và định đoạt đó là quyền yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án là chấm dứt tiến trình giải quyết vụ án,
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của bị hại nhưng khơng ảnh hưởng đáng kể đến lợi
ích của xã hội và nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước11. Quyền
này được BLTTHS năm 2015 quy định theo hướng mở là bị hại được rút yêu cầu tại
bất kỳ giai đoạn tố tụng nào của vụ án12 có thể là ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
(cấp sơ thẩm, phúc thẩm). Pháp luật quy định “mở”, không giới hạn giai đoạn tố
tụng là để giúp cho bị hại sau khi yêu cầu khởi tố vụ án có thời gian cân nhắc có
nên tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay khơng. Tuy nhiên,
việc không quy định thời hạn bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án phần nào gây tốn kém
về thời gian, chi phí tố tụng, nhất là việc bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét
xử phúc thẩm.
Thứ tư, khơng có căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án trong trường
hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Theo quy định tại khoản
2 Điều 155 BLTTHS năm 2015, trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì
vụ án phải được đình chỉ. Quy định tại Điều 359 BLTTHS năm 2015 về hủy án sơ
thẩm và đình chỉ vụ án không quy định về trường hợp khi bị hại hoặc người đại diện
của họ rút khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử được quyền hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án. TANDTC có Cơng văn 254/TANDTC-PC ngày
Điều 26 BLTTHS năm 2015.
Khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của BLHS năm 2015.

11
Phan Thành Nhân, Đỗ Thị Nhung “Thời điểm bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và kiến
nghị hồn thiện”; Tạp chí TAND điện tử (11/11/2019) cập ngày 30/3/2021).
12
Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ
án phải được đình chỉ”.
9

10


17
26/11/2018 hướng dẫn áp dụng về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút
yêu cầu theo Điều 155 BLTTHS ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Theo Công văn trên, nếu bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn phúc
thẩm thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút
gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Việc hướng dẫn hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án trong trường hợp này thiết nghĩ là
chưa phù hợp, bởi lẽ trong các điều luật quy định để làm căn cứ hủy án sơ thẩm và
đình chỉ vụ án khơng có trường hợp bị hại (đại diện của bị hại) rút yêu cầu khởi tố
vụ án. Điều 359 BLTTHS năm 2015 quy định, khi có một trong các căn cứ quy định
tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của BLTTHS thì Hội đồng xét xử phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, nhưng tại các khoản này của Điều 157 khơng
có quy định nội dung “bị hại rút yêu cầu khởi tố”. Như vậy, căn cứ để hủy bản án sơ
thẩm trong trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án ở giai đoạn phúc thẩm không
được pháp luật TTHS quy định. Nội dung hướng dẫn tại Công văn 254/TANDTCPC của TANDTC chỉ là một giải pháp tạm thời để khắc phục điểm thiết sót trong
BLTTHS năm 2015.
Thứ năm, các bị cáo Huỳnh Văn Khanh tại bản án HSPT số 41/2019/HSPT
và Phạm Văn D tại bản án HSPT số 26/2020/HS-PT đều bị Tòa án cấp xét xử sơ
thẩm tuyên phạm tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều 134

BLHS; điều này đồng nghĩa hành vi của Khanh và D là tội phạm (ít nghiêm trọng).
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị hại rút yêu cầu khởi tố, Tòa án cấp phúc thẩm
chỉ đơn thuần tuyên đình chỉ vụ án và trong bản án phúc thẩm cũng khơng nói đến
trách nhiệm hình sự của Khanh và D, điều này vơ tình được hiểu các nội dung của
vụ án đã được chấm dứt giải quyết, kể cả trách nhiệm hình sự của bị cáo, vơ hình
trung Khanh và D được xem là miễn trách nhiệm hình sự13. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra
bản án sơ thẩm đã tuyên đúng người, đúng tội, Tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm và
đình chỉ vụ án chỉ vì bị hại rút yêu cầu khởi tố theo hướng dẫn tại Công văn
254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TANDTC, nhưng bản án phúc thẩm không
đề cập đến vấn đề trách nhiệm hình sự của bị cáo; hoặc nếu Tịa sơ thẩm đã tun
phạt án tù có thời hạn bằng thời gian bị tạm giam của bị cáo để phục vụ cơng tác
điều tra, xét xử (thì xem như bị cáo đã chấp hành xong hình phạt) thì hiện tại chưa
Khoản 3 Điều 29 BLHS quy định: “Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
do vơ ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người
bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có
thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
13


18
có hướng dẫn. Lẽ ra khi Tịa phúc thẩm khi tuyên đình chỉ vụ án phải nói rõ các vấn
đề này trong bản án cùng với các nội dung khác về đương sự, chi phí bồi thường đã
thực hiện…
Thứ sáu, cũng cùng là tội phạm được liệt kê tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS
năm 2015 nhưng TAND tỉnh An Giang, TAND tỉnh Tuyên Quang và TAND thành
phố Cần Thơ khi xét xử phúc thẩm lại có cách áp dụng pháp luật không giống nhau
khi bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án, cụ thể như sau:
- Tại bản án HSPT số 41/2019/HS-PT về “cố ý gây thương tích”, TAND tỉnh
An Giang đã căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của BLTTHS năm 2015,
Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TANDTC để hủy án sơ thẩm

và đình chỉ vụ án.
- Tại bản án HSPT số 26/2020/HS-PT, TAND tỉnh Tuyên Quang về tội “cố ý
gây thương tích” cũng hủy án sơ thẩm, đình chỉ vụ án nhưng phần tuyên án không
căn cứ vào Công văn 254/TANDTC-PC.
- Trong khi đó, tại bản án HSPT số 39/2019/HS-PT về tội “hiếp dâm”,
TAND thành phố Cần Thơ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 357 BLTTHS; khoản 1
Điều 141; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 57 và Điều 59 BLHS xem rút yêu
cầu khởi tố của bị hại là tình tiết mới, tuyên bị cáo phạm tội “Hiếp dâm” nhưng
miễn hình phạt đối với bị cáo.
Trong ba bản án đều nhận định hành vi của các bị cáo là tội phạm và đều
căn cứ vào khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 để xét xử. Bản án số
41/2019/HS-PT về tội “cố ý gây thương tích” đơn thuần là hủy án sơ thẩm và đình
chỉ vụ án; Bản án số 26/2020/HS-PT tuyên hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
nhưng đề nghị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; cịn theo bản án
số 39/2019/HS-PT về tội “hiếp dâm” thì tun bị cáo có tội nhưng được miễn hình
phạt. Cách xử lý trong các bản án của các địa phương không giống nhau, cho thấy
do pháp luật quy định chưa cụ thể và hướng dẫn tại Công văn 254/TANDTC-PC
của TANDTC chưa rõ ràng nên việc thực hiện pháp luật tại các địa phương chưa
thống nhất.
Trong khi, việc hướng dẫn của TANDTC tại Cơng văn 254/TANDTC-PC là
để Tịa án các cấp nghiên cứu, đảm bảo áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử;
nhưng qua thực tế áp dụng còn nhiều vấn đề phát sinh chưa thể giải quyết, do tự bản
thân Công văn 254/TANDTC-PC hướng dẫn chưa rõ ràng, dẫn tới mỗi địa phương
có quan điểm áp dụng pháp luật khác nhau khi cùng xử lý trường hợp bị hại rút yêu


19
cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn xét xử phúc thẩm; do đó, các bị cáo tại các bản án
của các địa phương khác nhau sẽ chịu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm hành
chính khác nhau.

1.3. Kiến nghị hồn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về quyền yêu
cầu, rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Từ những vướng mắc được chỉ ra ở phần trên, nhằm hồn chỉnh và nâng cao
tính khả thi của pháp luật TTHS trong thực tiễn, tác giả có các kiến nghị sau:
Thứ nhất, bổ sung vào BLTTHS năm 2015 điều luật quy định quyền của bị
hại được rút yêu cầu khởi tố vụ án tại các giai đoạn tố tụng.
Thứ hai, gắn với quyền yêu cầu khởi tố là quyền buộc tội, nhưng thực tế
quyền này chưa được pháp luật quy định tương xứng với vị trí của nó, để đảm bảo
tính thống nhất, logich, cần phải sửa đổi Điều 320 BLTTHS năm 2015 quy định
trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa, cụ thể như sau:
“Điều 320. Trình tự phát biểu khi tranh luận
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy
khơng có căn cứ để kết tội thì rút tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tịa án tun
bố bị cáo khơng có tội.
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị
cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại; đương sự, người đại
diện của đương sự trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
4. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì sau khi kết thúc
việc xét hỏi, bị hại, đại diện của bị hại trình bày luận tội, Viện kiểm sát có thể trình
bày, bổ sung ý kiến luận tội; bị hại không muốn tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với bị cáo thì rút yêu cầu khởi tố.
Khi bị hại, đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố, Hội đồng xét xử căn cứ
khoản 2 Điều 155 Bộ luật này hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Thứ ba, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 359 BLTTHS năm 2015.
Theo Công văn 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TANDTC, khi bị
hại rút yêu cầu khởi tố tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì căn cứ vào khoản 2 Điều
155 và Điều 359 của BLTTHS, Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa tuyên hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, Điều 359 không quy định
việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại là căn cứ để hủy án sơ thẩm và

đình chỉ vụ án; nhận thấy Điều 359 là căn cứ chính xác để hủy bản án sơ thẩm và


×