Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đặt câu hỏi nêu vấn đề trong phân tích tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.61 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................. 2
I. Lý do chọn đề tài............................................................................ 2
II. Mục đich nghiên cứu.................................................................... 2
III. Phương pháp nghiên cứu............................................................ 3
IV. Giới hạn đề tài và những luận điểm bảo vệ................................ 3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ................................................................4
I. Cơ sở lí luận....................................................................................4
II. Cơ sở thực tiễn...............................................................................4
III. Giải pháp và tổ chức thưc hiện.....................................................5
1. Đặt câu hỏi theo dạng: Vì sao khơng A mà B................................6
2. Đặt câu hỏi theo dạng thức lựa chọn: A hay B...............................8
3. Đặt câu hỏi theo dạng thức so sánh các tư liệu có liên quan
hay kiến thức thực tế với tác phẩm văn học........................................9
4. Đặt câu hỏi theo dạng thức giả định..............................................10
IV. Tổ chức thực hiện một giờ giảng cụ thể......................................12
V. Kiểm nghiệm.................................................................................17
C. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................19

1


A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I - LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề trong phân tích tác phẩm văn học ở
bậc THPT đã được thực hiện từ khá lâu. Thế nhưng không phải tiết dạy nào
cũng thành cơng bởi cái khó nhất là làm thế nào nêu lên tình huống có vấn đề
nhằm đưa học sinh (đối tượng trung tâm) vào quá trình tư duy. Một bài văn,
một tác phẩm văn chương, một số phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy
tư của mỗi người khi chính người đó nhận ra trong đó có một tình huống, một


vấn đề, một tâm trạng có liên quan đến tầm suy nghĩ hay rung động của mình.
Tác phẩm nào cũng có vấn đề cả. Nhưng khơng phải bất kì vấn đề nào trong
tác phẩm cũng tự nhiên trở thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người
đọc - học sinh.
Chúng ta cũng biết rằng, cảm thụ tác phẩm văn học bao giờ cũng mang
tính chất cá nhân sâu đậm. Một giờ giảng văn, một bài phân tích tác phẩm văn
học muốn thành cơng, nhất thiết phải xây dựng được một hay nhiều tình
huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận có ý thức. Chúng ta đã từng phàn
nàn rất nhiều về tình trạng học sinh không hứng thú khi học văn, học sinh
trong giờ giảng văn thờ ơ, lạnh lùng trước số phận của các nhân vật. Theo tơi,
đó là vì giáo viên chưa đặt học sinh vào tình huống có vấn đề. Tạo được tình
huống có vấn đề trong giảng văn là tạo được một trạng thái tâm lí văn học cần
thiết để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn. Xây
dựng được tình huống có vấn đề là một hoạt động sư phạm phù hợp với mục
đích dạy học mới hiện nay, vừa thích ứng với quy luật cảm thụ văn học và đặc
trưng của văn học.
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Học sinh bám sát văn bản để tìm hiểu, khám phá.
- Học sinh là chủ thể trong giờ học.
- Tạo hứng thú trong giờ dạy.
2


- Thu thập những phát hiện mới, độc đáo từ học sinh.
III - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tìm đọc tài liệu.
- Đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
- Tham khảo ý kiến các đồng nghiệp.
IV - GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG LUẬN ĐIỂM BẢO VỆ
- Đề tài tập trung đưa ra một số dạng câu hỏi nêu vấn đề.

- Luận điểm bảo vệ:
+ Giáo viên: Giáo án với những câu hỏi gợi ý dẫn dắt vào tình huống có vấn
đề.
+ Học sinh: Phải có một số yêu cầu (tri thức, kinh nghiệm. kĩ năng...).

3


B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN
Phương pháp đặt câu hỏi nêu vấn đề trong phân tích tác phẩm văn học
đã được ra đời từ thế kỉ XIX ở phương Tây - khi chủ nghĩa tư bản phát triển.
Lúc đó, khoa học kĩ thuật và cơng nghệ tạo ra những bộ mặt mới về đời sống
xã hội trong xã hội tư bản. Các nước đó địi hỏi giáo dục phải tạo ra những
học sinh có phẩm chất: thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ... để đủ sức
thực hiện nhiệm vụ của nền kinh tế xã hội. Nó phê phán mạnh mẽ nền giáo
dục phong kiến chỉ tạo ra những con người chỉ biết thừa hành, bắt chước,
phục tùng... mà khơng thích ứng được với xã hội mới.
Câu hỏi nêu tình hướng có vấn đề đã được trình bày trong “Phương
pháp dạy học văn” của Giáo sư Phan Trọng Luận như một phương pháp dạy
học có hiệu quả. Đây cũng là nội dung cơ bản trong “Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên” chu kì 1997 - 2000. Phương pháp này cũng được trình bày
trong bài viết “Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn THCS” của
PGS- TS Vũ Song Nho... Tuy nhiên ở những tài liệu này chưa cung cấp cho
giáo viên phương pháp đặt câu hỏi nêu vấn đề, bởi người viết tài liệu cũng
khẳng định vai trò tự học, tự bồi dưỡng, tự khám phá của giáo viên trong quá
trình dạy học.
II - CƠ SỞ THỰC TIỄN
Qua tìm hiểu thực tế giảng dạy ở nhà trường, tôi thấy rằng, cách đặt câu
hỏi trong giờ dạy tác phẩm văn chương vẫn còn tồn tại những hạn chế. Giáo

viên q ham kiến thức nên khơng cịn thời gian đặt câu hỏi, hoặc nếu có thì
lượng câu hỏi đưa ra ít ỏi khơng tương ứng với phần thuyết trình. Ngược lại,
có trường hợp giáo viên nêu câu hỏi nhiều nhưng chưa tập chung hoặc chưa
có hệ thống, câu hỏi còn thiếu sự phát huy sáng tạo của học sinh.
Trong khi giảng dạy hoặc dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi luôn
đặt ra câu hỏi: - Đâu là vấn đề cần khai thác? - Với tác phẩm đó cần có hệ
thống câu hỏi như thế nào để kích thích học sinh tham gia tìm hiểu nội dung
4


tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm?... Từ đó tơi cố cơng tìm tịi
nghiên cứu và xin trao đổi ở đây một kinh nghiệm nhỏ “ Đặt câu hỏi nêu vấn
đề trong phân tích tác phẩm văn học” nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy học văn trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
cho phù hợp với xu thế của thời đại.
III - GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề và tình huống có
vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm,
phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, khuyến khích
học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Trong nhiều trường hợp, khi đã xác định
được vấn đề, nhờ câu hỏi (tùy thuộc vấn đề đơn giản hay phức tạp) mà giáo
viên tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái chưa biết, cuốn
hút sự quan tâm của học sinh và tiên lượng trước khả năng giải quyết vấn đề
của các em.
Câu hỏi nêu vấn đề trong phân tích tác phẩm văn học hoàn toàn khác
hẳn về bản chất với câu hỏi tái hiện. Đành rằng những câu hỏi tái hiện cũng
có thể buộc học sinh phải tư duy nhưng mục đích vẫn là tái hiện kiến thức
theo phương thức cũ. Có thể nêu ra hai dạng câu hỏi khác nhau về một vấn đề
để chúng ta thấy được bản chất của hai dạng câu hỏi này.
Dạng câu hỏi tái hiện: - Ý nghĩa của nhan đề “Tắt đèn” mà tác giả

Ngô Tất Tố đã đặt tên cho tác phẩm của mình?
Dạng câu hỏi nêu vấn đề: - Có nhà văn nói, theo ơng thì có thể lấy cái
tên Chị Dậu mà đặt tên cho tác phẩm “Tắt đèn”. Em thấy ý kiến đó như thế
nào?
Dạng câu hỏi tái hiện: - Ý nghĩa tố cáo của truyện ngắn “Chí Phèo”
của Nam Cao?
Dạng câu hỏi nêu vấn đề: - Tại sao ở lần in sau, Nam Cao không chấp
nhận cái tên “Đôi lứa xứng đôi” do nhà xuất bản Đời Mới - Hà Nội 1941 đặt

5


cho, mà lại đặt là “Chí Phèo” ? Hai tên truyện phản ánh hai quan niệm khác
nhau của người đặt tên truyện như thế nào?
Những câu hỏi nêu vấn đề trên đây tuy chưa thể bao hàm đầy đủ những
đặc điểm cơ bản của câu hỏi nêu vấn đề, song chúng ta có thể thấy được bản
chất của câu hỏi nêu vấn đề như sau:
Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung. Nó chứa
những băn khoăn, thắc mắc, những mâu thuẫn, những bế tắc mà học sinh gặp
phải trên con đường nhận thức. Nếu muốn nhận thức tiếp phải giải quyết vấn
đề đó.
Theo tơi, có thể dựa vào những tình huống có vấn đề đã học trong các
tài liêu giảng dạy về phương pháp dạy học văn để đặt ra câu hỏi nêu vấn đề
với các dạng thức sau đây:
1 - Đặt câu hỏi theo dạng: Vì sao khơng A mà B (Tình huống bất ngờ)
Khi phát hiện được một tín hiệu nội dung hay một tín hiệu nghệ thuật
nào đó trong tác phẩm có tính chất kì lạ, bất bình thường, ta vận dụng dạng
thức trên để khơi gợi sự khám phá sáng tạo của học sinh.
Ví dụ 1: - Tại sao chàng trai trong bài ca dao “Tát nước đầu đình”
khơng nói là để quên chiếc áo trên những cành cây khác mà lại nói là “để

quên chiếc áo trên cành hoa sen”? Cách nói này thể hiện chàng trai là người
như thế nào?
Giáo viên có thể giải đáp câu hỏi này theo gợi ý sau: Mọi người đều
biết rằng, cây sen khơng có cành và hoa sen cũng vậy. Hoa sen chỉ có một
cuống hoa mọc từ dưới đất lên và cuống hoa đó rất yếu nên khơng thể giữ
được chiếc áo trên đó được. Như vậy, chuyện chàng trai nói mất áo là khơng
có thật. Đó chỉ là chuyện do anh bịa ra để có cớ làm quen, trị chuyện với cơ
gái anh u mến mà thơi. Qua cách nói ấy ta thấy chàng trai trong bài ca dao
vừa rất thơng minh lại vừa hóm hỉnh.
Ví dụ 2: - Vì sao, nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” có
lúc nghĩ mình như con trâu, con ngựa, thậm chí khơng bằng con trâu con ngựa
6


trong nhà Thống Lí Pá Tra mà khơng so sánh mình với thân con bọ ngựa, con
chẫu chuộc như cơ gái trong truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” của đồng bào
dân tộc Thái?
Giáo viên giải thích: Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” và cô gái trong truyên thơ “Tiễn dặn người yêu” của đồng bào dân tộc
Thái đều tiêu biểu cho những người phụ nữ miền núi có số phận bất hạnh
dưới chế độ phong kiến. Cơ gái trong “Tiễn dặn người yêu” của đồng bào dân
tộc Thái thấy mình chỉ là thân con bọ ngựa, chỉ bằng thân con chẫu chuộc thơi
vì cơ q đau khổ khi bị cha mẹ ép gả cho người mà cô không yêu thương.
Qua sự so sánh này ta thấy thân phận mỏng manh, yếu ớt và bất lực của cô gái
trước hồn cảnh thực tại. Cơ gái ở đây đang cịn ở với cha mẹ, vì vậy cơ chưa
bị áp bức bóc lột sức lao động. Cịn Mị, với thân phận con dâu gạt nợ cho nhà
thống lí Pá Tra, cô phải việc quần quật suốt ngày, suốt tháng, suốt năm mà
không được nghỉ ngơi. “Dù lúc đi hái củi, lúc bung ngơ, lúc nào cũng gài một
bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời
như thế. Con ngưa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đúng gãi chân,

đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Hình ảnh so sánh này vừa cho người đọc thấy Mị bị bóc lột sức lao động thật
tàn nhẫn, đồng thời tố cáo tội ác dã man của cường quyền phong kiến miền
núi đối với người dân nơi đây.
Vì dung lượng bài viết có hạn, sau đây tôi chỉ nêu câu hỏi với những
dạng thức trên chứ không đưa ra hướng giải đáp. Bởi vì, lời giải đáp khơng
chỉ duy nhất đúng. Các em có thể trả lời theo cảm nhận riêng của mình, miễn
sao sáng tỏ được vấn đề.
- Tại sao chàng trai trong bài ca dao “Hơm qua tát nước đầu đình”
khơng nói là “áo anh bị rách đường tà” mà lại nói “áo anh sứt chỉ đường
tà” ? Dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?

7


- Vì sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài “Tự Tình” khơng lựa chọn
thời gian nghệ thuật để bộc lộ cảm xúc vào buổi sáng, buổi trưa hay lúc “bóng
xế tà” mà lại chọn thời điểm “đêm khuya” ?
- Vì sao nhà văn Nam Cao khơng mở đầu tác phẩm của mình bằng sự
kiện Chí Phèo ra đời ở cái lò gạch bỏ hoang mà lại bắt đầu truyện ở thời điểm
hiện tại, khi Chí Phèo đã bị tha hóa? Cách mở đầu truyện như thế có ý nghĩa
gì?
2- Đặt câu hỏi theo dạng thức lựa chọn: A hay B (Tình huống lựa chọn)
Tình huống lựa chọn là tình huống xuất hiện khi có nhiều ý kiến khác
nhau về một vấn đề buộc ta phải lựa chọn cách giải quyết hợp lí nhất, tối ưu
nhất.
Ví dụ 1: Khi giảng bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (Ngữ Văn
11), giáo viên có thể hỏi: - Có người cho rằng đây là bài thơ miêu tả vẻ đẹp
thiên nhiên thơn Vĩ? Có người cho rằng bài thơ là tình u thầm kín giữa
Hàn Mặc Tử với Hồng Cúc? Có người lại cho rằng thôn Vĩ chỉ là cái cớ để

nhà thơ bộc lộ tâm trạng của mình? Em tán thành ý kiến nào? Vì sao?
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích khổ cuối của bài thơ. Để giúp học sinh
giải quyết được câu hỏi trên, giáo viên có thể gợi mở giúp học sinh thấy được
tín hiêu quan trọng nhất của bài thơ nằm ở hai chữ “ở đây” trong câu thơ “Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh”. Từ tín hiệu đó, tìm ra hệ thống kí hiệu - kết
cấu: trong này - ngoài kia. Hàn Mặc Tử đã đứng ở thế giới bị cách li, ở “lãnh
cung” mờ mờ nhân ảnh để nhìn ra thế giới bên ngoài và khát khao trở lại
trong niềm vui tuyệt vọng. Thi sĩ tìm đến vườn đẹp, trăng đẹp, người đẹp.
Khơng tìm được vẻ đẹp này thì lại gắng gượng tìm vẻ đẹp khác... cứ thế thành
một hành tâm trạng: kiếm tìm, thất vọng rồi lại kiếm tìm.
Ví dụ 2: Khi giảng bài “Thương Vợ” của Tú Xương, giáo viên có thể
đặt câu hỏi như sau: - Ấn tượng hai câu kết của bài thơ là một tiếng chửi, theo
mạch văn thì đó là tiếng chửi của bà Tú hay của ông Tú? Tại sao em hiểu
như vậy? Ý nghĩa của tiếng chửi này là gì?
8


Như chúng ta đã biết, theo mạch văn thì đây là lời bà Tú. Bà Tú chửi,
cũng là trách “thói đời”, con người bạc bẽo, ông chồng “hờ hững” vô tình. Có
thể đấy là chút tâm sự riêng thầm kín của người người phụ nữ trải qua nhiều
gian truân, vất vả lúc bực bội trách cứ người này, người khác. Song chúng ta
biết, bà vốn đoan trang, khiêm nhường nên tiếng chửi kia không phải là lời
trực tiếp của bà mà chính là một cách Tú Xương bơng đùa, trào lộng để tự phê
phán mình, tự trách mình làm khổ vợ, vơ tình, vơ tâm với vợ. Qua tiếng chửi
này ta thấy ông Tú thương vợ biết nhường nào.
Đặt câu hỏi theo dạng này giúp các em phát triển óc phán đốn, suy
luận, nhận xét để tìm ra nội dung hợp lí nhất. Từ đó các em thấy rõ tính thẩm
mĩ của văn chương.
3 - Đặt câu hỏi theo dạng thức so sánh các tư liệu khác có liên quan hay
kiến thức thực tế với tác phẩm đang phân tích (Tình huống khơng phù

hợp).
Sự so sánh đối chiếu là một hình thức của thao tác phân tích trong tư
duy. Thơng qua những câu hỏi so sánh, đối chiếu học sinh có thể nhận ra
những nét độc đáo, những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Các câu hỏi dạng
này có thể so sánh các hình ảnh trong chi tiết tác phẩm hoặc với các tác phẩm
khác nhau.
Ví dụ 1: Khi phân tích “Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh, giáo
viên có thể hỏi: - Có thể lấy câu “Thay trời hành hóa, hồng thượng truyền
rằng” trong “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi để thay cho lời mở đầu
“Hỡi đồng bào cả nước” trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh
có được khơng? Vì sao?
Ví dụ 2: - Để sống được, đường cùng người ta phải bán tất cả để có
cái ăn. Thậm chí phải ăn xin, tha phương cầu thực. Tại sao lão Hạc không
chọn cách ấy mà lại tự tử?

9


Ví dụ 3: - Sự xuất hiện của Xn tóc đỏ cùng sáu chiếc xe trong đám
tang của cụ cố tổ giống và khác nhau như thế nào với sự xuất hiện hai chiếc
xe trống rỗng trong đám tang lão Gôrio (Tiểu thuyết “Lão Gôrio” của Ban
Dắc và tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng).
Ví dụ 4: Khi phân tích truyện ngắn “Chí Phèo”, giáo viên có thể đặt
những câu hỏi như sau:
- Các nhân vật thuộc giai cấp nông dân của Nam Cao trước Cách
mạng Tháng Tám 1945 đều có kết cục hết sức bi thảm (tự tử). Hãy so sánh
cách tự tử của lão Hạc giống và khác nhau như thế nào với cách tự tử của
nhân vật Chí Phèo?
- Em hãy so sánh hình tượng nhân vật Chí Phèo với hình tượng nhân
vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố (Ngữ Văn lớp 9 - Tập

2), từ đó chỉ ra những phát hiện độc đáo của Nam Cao khi miêu tả hình
tượng người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám.
Khi đặt câu hỏi dạng này, giáo viên phải liên tưởng đến những tác
phẩm khác hoặc liên tưởng đến thực tế đời thường để đối sánh với hình tượng
văn học nhằm nêu bật lên những nét đẹp về nội dung và nghệ thuật cũng như
dụng ý mà tác giả muốn gửi đến chúng ta.
4 - Đặt câu hỏi theo dạng thức giả định (Tình huống giả định).
Ví dụ 1: Khi giảng bài thơ “Thương Vợ” của Tú Xương, giáo viên có
thể đặt tình huống giả định như sau: - Em thử dùng các từ gần nghĩa với từ
“mom sông” để thay thế cho từ này trong câu thơ “Quanh năm buôn bán ở
mom sơng” và so sánh tác dụng của nó với khi dùng từ “mom sơng” trong
câu thơ trên.
Ví dụ 2: - Nếu em là nhà văn Hộ, em sẽ có sự lựa chọn như thế nào?
(“Đời Thừa” - Nam Cao)
Ví dụ 3: - Nếu em là ơng Huấn Cao, em có cho viên quản ngục chữ
không?
(“Chữ người tử tù” - Nguyễn Tuân)
10


Ví dụ 4: - Nếu em là Thúy Kiều thì em có lạy Thúy Vân trước khi
trao dun hay khơng?
(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
Ví dụ 5: - Nếu em là anh cu Tràng thì em có đưa người “vợ nhặt” đó
về nhà mình khơng?
(“Vợ Nhặt” - Kim Lân)
Đặt câu hỏi theo tình huống giả định khiến các em được rèn luyện cách
ứng xử, thấy được hành vi cao đẹp của nhân vật văn học để tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, phát triển nhân cách. Đó là nội dung quan trọng trong mục
đích giáo dục nói chung và văn học nói riêng.


11


IV - TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT GIỜ GIẢNG CỤ THỂ
Từ những dạng thức đó, tơi đưa vào áp dụng thử nghiệm hai tiết giảng
dạy tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân trong sách giáo khoa Ngữ Văn
12 với hệ thống câu hỏi nêu vấn đề như sau:
1- Khi nhận thấy “ nhan đề” tác phẩm có tính chất kì lạ, giáo viên có thể
đặt câu hỏi: - Tại sao nhà văn Kim Lân không đặt nhan đề tác phẩm này là
“Nhặt vợ” mà lại đặt là “Vợ nhặt”? Cách đặt nhan đề đó có ý nghĩa gì?
Giáo viên gợi ý: Nếu đặt nhan đề tác phẩm là “Nhặt vợ” có nghĩa là
anh cu Tràng - đang ế vợ - là người chủ động lợi dụng lúc miếng ăn bằng cả
sinh mệnh con người mà lấy được vợ một cách dễ dàng và như thế thì sự
khinh thường người “vợ nhặt” đó khơng những có ngay trong lịng anh cu
Tràng mà cịn có ở bản thân người đọc khi bắt đầu đọc truyện. Nhan đề “Vợ
nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Chữ nhặt
trong “Vợ nhặt” không phải là danh từ như chúng ta có thể lầm tưởng nếu chỉ
đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết hợp từ
rất đặc biệt. Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong
cảnh đói năm 1945 người lao động dường như khó ai thốt khỏi cái chết.
Bóng tối của nó phủ xuống mọi xóm làng. Trong hồn cảnh ấy, giá trị một
con người thật vơ cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát
bánh đúc ngồi chợ - đúng là nhặt được vợ như tơi nói trong truyện”. Như
vây, nhặt trong vợ nhặt là động từ. Một kết hợp từ đặc biệt chỉ có trong bối
cảnh năm 1945 kinh hồng ấy. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch:
mạng người trở nên rẻ rúng có thể “nhặt” được như người ta nhặt cái rơm, cái
rác ngoài đường, ngoài chợ. Phải đặt vào truyền thống của dân tộc coi “người
ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự: “Trăm năm tính cuộc
vng trịn - Phải dị cho đến ngọn nguồn lạch sông”, mới thấy hết chuyện vợ

nhặt theo không như thế này thật éo le làm sao! Hồn cảnh đói khát cần duy
trì sự sống làm cho người ta quên đi lễ nghĩa đã đành, còn phải bước qua thể
diện để theo khơng về làm vợ người. Mới hiểu vì sao chị vợ nhặt tủi hổ như
12


thế trước những ánh mắt nhìn ngó, soi xét trên đường theo Tràng về nhà.
Nhan đề đã gói trọn tình hưống truyện. Đặt trong hồn cảnh gia đình anh cu
Tràng, nhan đề “Vợ nhặt” còn cho chúng ta thấy vẻ đẹp của tình người.
Người ta nhặt nhau về và về với nhau khơng phải chỉ vì muốn có miếng ăn, có
một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái
ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói
khi no” của người dân lao động. Đằng sau nhan đề ấy, Kim Lân muốn gửi
gắm một thông điệp khác: “khi đói người ta khơng nghĩ đến con đường chết
mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù
kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào
sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
2 - Khi phân tích nhân vật Tràng, bên cạnh những câu hỏi tái hiện,
những câu hỏi phát hiện, giáo viên có thể đặt học sinh vào tình huống giả
định sau:
- Nếu em là Tràng, em có đưa người “vợ nhặt” đó về nhà mình khơng?
Hành động đó của Tràng cho thấy vẻ đẹp nào trong tâm hồn và nhân cách
của nhân vật?
Giáo viên chuẩn bị những tình huống mà học sinh có thể đưa ra sau câu
hỏi này. Học sinh sẽ có nhiều phương án trả lời nhưng người giáo viên cần
phải có sự định hướng cuối cùng để các em có những suy nghĩ tích cực, đúng
đắn, từ đó thấy được hành vi cao đẹp của nhân vật văn học nhằm rèn luyện
đạo đức, phát triển nhân cách của các em.
Trong hoàn cảnh miếng ăn bằng cả sinh mạng con người, thế nhưng
một người kéo xe bò thuê, cuộc sống cũng vô cùng khổ cực như Tràng mà

dám sẵn sàng bỏ tiền ra đãi một người không hề quen biết đã cho ta thấy anh
là một người thật hào phóng. Tràng đến với người đàn bà ấy, trước hết là sự
chia sẻ của những người nghèo cùng trong cảnh hoạn nạn. Đưa thị về làm vợ,
tức là thêm một gánh nặng nữa, một miếng ăn nữa vào cái gia đình vốn cũng
đã vất vả của mình. Cho nên, có lúc anh cảm thấy “chợn” khi nghĩ về tương
13


lai. “Thóc cao gạo kém thế này, đến cái thân mình chưa chắc có ni nổi, lại
cịn đèo bịng” là một nỗi lo rất thực tế. Song phía sau câu nói tưởng như là
đùa vui bật ra từ người đàn ông nghèo khổ ấy - “Này nói đùa chứ có về với tớ
thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” - là khát vọng cháy bỏng có thật về một
mái nhà hạnh phúc, về tổ ấm gia đình. Ở Tràng có vẻ đẹp của tình người.
Trong hồn cảnh đó, Tràng đã cưu mang người nghèo khổ có hồn cảnh như
mình, thậm chí cịn nghèo khổ hơn mình. Truyền thống nhân đạo của người
Việt Nam có câu: “Lá lành đùm lá rách”. Câu tục ngữ ấy ở đây cần phải nói
khác đi một chút để thấy rõ hơn hành động cao đẹp đó của Tràng, đó là: Lá
rách nhiều đùm lá rách nhiều hơn. Đó là một con người nghèo tiền bạc nhưng
lại rất hào phóng và giàu tình người.
3 - Khi phân tích nhân vật người vợ nhặt, giáo viên có thể đưa ra câu
hỏi nêu vấn đề ở dạng tình huống lựa chọn như sau:
- Có người nói rằng nhân vật người vợ nhặt theo không chàng chỉ vì
miếng ăn, vì muốn thốt khỏi cảnh chết đói nhưng có người lại nói, người
đàn bà đó theo Tràng là đi theo tiếng gọi của khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc? Em nghiêng về ý kiến nào hơn? Vì sao?
Giáo viên định hướng: Nếu nhìn ở hình thức bên ngồi của sự việc thì
việc người đàn bà khốn khổ này đến với người đàn ông tội nghiệp kia là do
cái đói, cái nghèo xui đẩy. Nhưng bản chất của sự việc là đi theo tiếng gọi của
hạnh phúc gia đình. Bởi nếu chỉ vì miếng ăn đơn thuần thì họ chỉ gặp nhau
khi ăn bốn bát bánh đúc rồi chia tay nhau. Hoặc cùng lắm, nếu cần thiết để có

thêm miếng ăn nữa thì người đàn bà đó sẽ đi theo Tràng về nhà nhưng chắc
chắn chị ta sẽ dừng lại trước mái nhà xiêu vẹo, trống tuếnh trống toáng ấy của
mẹ con Tràng. Nhưng không, chị vẫn bước vào ngơi nhà ấy và bằng đơi bàn
tay của mình để vun vén cho tổ ấm gia đình mà mình vừa có được. Rõ ràng,
bản chất sâu xa của hành động ấy là đi theo tiếng gọi của khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc gia đình.

14


Việc đưa câu hỏi nêu vấn đề này vào quá trình phân tích người vợ nhặt
sẽ giúp cho học sinh có cái nhìn đa chiều sự vật, sự việc, tránh việc nhìn nhận
vấn đề một cách phiến diện, từ đó có sự cảm thơng cũng như phát hiện ra
những khía cạnh tốt đẹp trong phẩm chất của nhân vật này.
4 - Bà cụ Tứ là một nhân vật khá quan trọng trong tác phẩm này, vì
vậy khi đi phân tích, giáo viên không chỉ sử dụng những câu hỏi tái hiện,
câu hỏi gợi mở để thấy được tình yêu thương con của một bà mẹ nghèo
mà cần phải sử dụng thêm những câu hỏi nêu vấn đề để học sinh thấy
đây cũng là một nhân vật góp phần thể hiện ý nghĩa tư tưởng của tác
phẩm.
Ví dụ:
- Tại sao nhà văn Kim Lân để cho bà cụ Tứ nói hai chữ “mừng
lịng” trong câu “Ừ, thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng” chứ khơng nói bằng lịng? (Kim Lân để người mẹ nói hai
chữ mà thấy được tình người, thấy được tình yêu với con dâu của bà cụ.
“Mừng lịng” chứ khơng phải là bằng lịng bởi bằng lịng khơng thể hiện
được niềm vui và tình người. “Mừng lịng” là sự tự nguyện, khơng mang tính
ép buộc và là vui thực sự. Cịn nếu nói bằng lịng thì đó là buộc phải thừa
nhận sự việc chứ khơng có sự tự nguyện).
- Theo lẽ thường thì người trẻ thường hay nói về ngày mai, nói về

tương lai nhiều nhất. Vậy tại sao trong truyện ngắn này, bà cụ Tứ lại là
người nói nhiều nhất đến tương lai và ngày mai? (Lẽ thơng thường thì
Tràng và người vợ nhặt phải nói đến tương lai nhiều nhất mới là điều hợp lí vì
tương lai là thuộc về lớp trẻ. Nhưng ở đây là một người mẹ gần đất xa trời.
Phải chăng có một khía cạnh nào như kiểu nghệ thuật địn bẩy khơng? Tức là
một người già gần đất xa trời ấy mà cịn nói nhiều đến tương lai, đến ngày
mai thì niềm vui, niềm hi vọng, niềm tin ở ngày mai còn mạnh mẽ, mãnh liệt
hơn rất nhiều).
Để có một tiết giảng thành cơng với những câu hỏi nêu vấn đề, yêu cầu:
15


Đối với giáo viên: phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài
dạy để đặt câu hỏi hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi nêu vấn đề
phải phù hợp với từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy móc, đơn
điệu. Nêu vấn đề phải hết sức hợp lí. Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu
cầu về cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở
học sinh. Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để
giáo án có chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi
trọng tâm của bài phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở
nhà.
Đối với học sinh: Khâu soạn bài (Học sinh đọc tác phẩm, chuẩn bị bài
theo câu hỏi mà giáo viên đã cho, đã hướng dẫn. Giáo viên phân công học
sinh chuẩn bị theo tổ, theo nhóm hoặc theo cá nhân. Động viên khích lệ học
sinh bằng điểm số khi các em tham gia xây dựng bài. Tạo khơng khí đối thoại
thoải mái trong tiết học giữa thầy và trò để phát huy tư duy sáng tạo của học
sinh. Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ sâu sắc giá
trị của đời sống văn hóa nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú
học tập của học sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện
nay. Tuy nhiên để biến những lí luận trên thành hiện thực địi hỏi người thầy

ngồi tri thức khoa học cần phải có lịng u nghề, tâm huyết với sự nghiệp
giáo dục đào tạo và phải có niềm tin vào học sinh.

16


V - KIỂM NGHIỆM
Sau một năm thử nghiệm đưa câu hỏi nêu vấn đề vào hai tiết giảng dạy
truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân, tôi nhận thấy:
- Học sinh hứng thú hơn trong giờ học.
- Học sinh tỏ ra quan tâm hơn tới tính cách, số phận của các nhân vật.
- Học sinh nắm bắt kiến thức một cách chủ động, có ý thức.
- Bản thân giáo viên thu thập được những phát hiện mới độc đáo từ học
sinh.
- Phát triển óc phán đốn, suy luận của học sinh.
Kết quả cụ thể bài kiểm tra
Năm học 2011-2012 (khi chưa đưa câu hỏi nêu vấn đề trong giờ giảng
Vợ Nhặt).
Lớp 12A2 (sĩ số 42)
Điểm 9 - 10: không có
Điểm 8: 1 bài
Điểm 7: 2 bài
Điểm 5 - 6: 31 bài
Dưới 5: 8 bài
Năm học 2012 - 2013 (khi tiến hành đưa câu hỏi nêu vấn đề trong quá
trình phân tích tác phẩm Vợ Nhặt)
Lớp 12C2 (sĩ số 39)
Điểm 9 - 10: 3 bài
Điểm 8: 2 bài
Điểm 7: 8 bài

Điểm 5 - 6: 19 bài
Điểm dưới 5: 7 bài

17


C - KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT
1. Ngoài bốn dạng thức câu hỏi nêu vấn đề trên, chắc rằng sẽ còn có
những dạng câu hỏi nêu vấn đề khác mà tơi chưa quy kết thành những dạng
thức nhất định. Rất mong đồng nghiệp góp ý thêm.
2. Trong q trình giảng dạy sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, tơi thấy khó
khăn nhiều nhất đó là vấn đề về thời gian. Thời lượng dành cho tiết dạy có
hạn trong khi trước một câu hỏi nêu vấn đề học sinh cần phải có nhiều thời
giờ để trao đổi, thảo luận. Vì vậy, tơi rất mong Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục
giảm tải chương trình Ngữ Văn 12 để cho các em học sinh tuy được học ít tác
phẩm nhưng khi học tác phẩm nào thì nắm chắc và hiểu sâu tác phẩm đó.
Tránh hiện tượng, tác phẩm nào cũng biết nhưng không hiểu được nội dung,
tư tưởng của những tác phẩm văn học đó là gì.

Thiệu Hóa, ngày 26 tháng 3 năm 2013
Người viết

Nguyễn Thị Hà

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận “Phương pháp dạy học” NXB ĐHSP Hà Nội 1995.
2. Phan Trọng Luận “Thiết kế bài học Ngữ Văn 12” Tâp I, II - NXBGD

Năm 2011.
3. Nguyễn Đăng Mạnh “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn” - NXBGD - 2000.
4. Nguyễn Đăng Mạnh “Bài giảng về tác gia trong văn học hiện đại Việt
Nam” Tập I, II, III - NXBĐHQG - HN 1999.

19



×