Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

qua quá trình nghiên cứu quan hệ ngoại giao giữa 2 nước dù là tích cực hay tiêu cực, là thù địch hay hợp tác, đều có những nhân tố chủ yếu của thời đại, chính sách đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.62 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Môi trường văn hoá và tác động của nó đối với hoạt động
kinh doanh quốc tế
I. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế và sự cần thiết phải nghiên
cứu
1. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh
II. Khái quát môi trường văn hoá
1. Khái niệm
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu môi trường văn hoá
III. Tác động của môi trường văn hoá đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
Chương II: Môi trường văn hoá Mỹ
I. Sơ lược về lịch sử và nguồn gốc con người nước Mỹ
II. Nền văn hoá Mỹ
1. Ngôn ngữ và bản săc dân tộc
2. Tôn giáo
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con người Mỹ
4. Quan niệm về kinh tế - xã hội của con người Mỹ
Chương III: Đôi điều cần lưu ý khi tiếp cận với các doanh nhân Mỹ
I. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng, phương thức giao dịch kinh doanh của các
doanh nhân Mỹ
II. Đạo đức và văn hoá doanh nhân Mỹ
1. Quan niệm về đạo đức trong kinh doanh
2. Văn hoá doanh nghiệp Mỹ qua suy nghĩ của doanh nhân Mỹ
III. Quan hệ giao tiếp và đàm phán trong kinh doanh
1. Vấn đề giao tiếp và đối thoại
2. Danh thiếp và sự tôn trọng cấp bậc trong kinh doanh
3. Thoả thuận, mặc cả và đàm phán
4. Làm việc với phụ nữ


5. Kinh doanh ở cộng đồng người thiểu số
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới diễn biến phức tạp đầy biến động.
Trong tình hình đó nổi lên những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế: Hoà
bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển, ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia và dân tộc trên thế giới; xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc
tế về kinh tế, thương mại, chính trị ngày càng tăng, ý thức độc lập tự chủ, ý thức
về chủ quyền và bản sắc dân tộc ngày càng được nâng cao, nổi bật là xu thế vừa
hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ chính trị xã
hội khác nhau.
Trước xu thế như vậy, Tổng thống Bill - Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995) là phù hợp với xu thế phát triển của thế
giới hiện nay. Đó là một mốc quan trọng, chấm dứt 50 năm quan hệ bất bình
thường, mở ra một trang sử mới trong quan hệ hai nước.
Xuất phát từ nhận thức trên, việc nghiên cứu quan hệ Việt - Mỹ là rất cần
thiết vì đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, thời sự quan trọng được khu vực
và thế giới quan tâm nghiên cứu. Qua đó làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt
ra trong quan hệ giữa hai nước, tiến tới đề xuất các kiến nghị, đóng góp vào
chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Mỹ.
Từ thực tiễn quan hệ Việt - Mỹ hơn 5 năm qua kể từ khi hai nước bình
thướng hoá quan hệ ngoại giao cho thấy sự lựa chọn đề tài này là phù hợp và
cần thiết.
Thời gian 5 năm cũng mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình lâu dài còn
đang tiếp tục tiếp diễn trong tương lai, nhiều vấn đề chưa bộc lộ hết còn đang
tiềm ẩn. Do vậy đề tài chỉ đánh giá quan hệ Việt - Mỹ 5 năm qua để thấy rõ
những biểu hiện cụ thể của hai nước. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết
và đưa ra những kiến nghị mới.

Do hiểu biết và trình độ có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót. Tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I
MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI NGHIÊN CỨU
1. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, trình độ
nhận thức, tập quán nên mỗi quốc gia tồn tại môi trường kinh doanh không giống
nhau. Môi trường kinh doanh là sự tổng hợp và tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh
hưởng không chỉ đối với các hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nước
ngoài đang hoạt động tại nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến cả kết quả hoạt động của
các doanh nghiệp kinh doanh nội địa. Vì vậy, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu
quả, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am hiểu nhất định về môi trường
kinh doanh nước ngoài.
Môi trường kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trường thành phần, như môi
trường luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá, cạnh tranh, tài chính Nó là toàn bộ các
điều kiện bên trong và bên ngoài nước có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của
doanh nghiệp, chi phối bình quân hoạt động tức là sự thành công hoặc thất bại đối với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ngoài. Chúng ta tác động và chi phối
mạnh mẽ đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, buộc các doanh
nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động của mình
cho thích ứng, nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong
kinh doanh. Trong những điều kiện mở cửa xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và khu
vực hoá nền kinh tế thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh quốc
tế ngày càng được mở rộng và phát triển. Thích ứng với xu hướng này, các doanh
nghiệp đang từng bước tăng dần khả nănghoà nhập, thích ứng của mình với điều kiện
mới của môi trường kinh doanh trong nước và ngoài nước nhằm tăng cơ hội, giảm

thách thức, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
2. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh
Tại mỗi quốc gia cũng như từng khu vực lãnh thổ của quốc gia mà doanh nghiệp
đang và sẽ hoạt động đều có những đặc trưng khác nhau về môi trường kinh doanh.
Các nhân tố, điều kiện của môi trường kinh doanh rất phong phú, đa dạng và luôn biến
đổi khá phức tạp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải có sự am
hiểu về môi trường kinh doanh và đưa ra cách ứng xử cho phù hợp, nhằm đạt được
hiệu quả cao trong kinh doanh.
Sự thành công nhiều hay ít trong hoạt động kinh doanh quốc tế của các nhà kinh
doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức và hiểu biết của họ về môi
trường kinh doanh mà họ vận hành các hoạt động của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu
môi trường kinh doanh quốc tế là sự cần thiết cho mọi người, trước hết là cho những ai
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Nó trang bị kiết thức cơ bản để các cán
bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh quốc tế có thể đưa ra được những quyết định tác
nghiệp hợp lý nhằm tối đa hoá mong muốn của họ.
Môi trường kinh doanh quốc tế tác động chi phối đến mục đích, hình thức và kết
quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiểu biết tốt về môi trường kinh doanh mà mình hoạt
động sẽ cho phép các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có được những đánh giá một
cách hệ thống các ý tưởng kinh doanh. Kiến thức về địa lý, về sự phân bố dân cư, hiểu
biết về lịch sử sẽ gợi mở cho các nhà kinh doanh quốc tế hiểu rõ hơn chức năng hoạt
động cuả mình. Kiến thức chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế, những đánh giá
về kinh tế đang có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc nghiên cứu môi trường cạnh tranh cũng hết sức cần thiết, môi trường này
đang tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, buộc doanh
nghiệp phải có sự điều chỉnh linh hoạt, thay đổi các biện pháp, các chức năng hoạt
động của mình cho thích ứng với các điều kiện mới.
I. KHÁI QUÁT MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ
Môi trường kinh doanh với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các môi
trường thành phần là những bộ phận không tách rời, giữa chúng có sự tác động qua lại
và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu đứng trên góc độ thực tế, tức là xem xét môi trường ở

trạng thái “tĩnh” ít thay đổi có thể chia môi trường kinh doanh thành môi trường địa lý,
chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hoá, thể chế
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, em chỉ xin trình bày về môi trường văn
hoá.
1. Khái niệm
Theo định nghĩa văn hoá của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng.
Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nó
cung cấp những định hướng cho các thành viên trong xã hội. Những định hướng này
cung cấp những giải pháp cho những vấn đề mà xã hội cần giải quyết.
Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả khả năng khác mà con người có được.
Văn hoá quy định hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan hệ giữa người với
người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các
nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở
môi trường đó. Điều này trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận
của doanh nghiệp đối với môi trường văn hoá nước ngoài. Sự khác nhau về văn hoá
dẫn đến sự khác nhau trong mô hình quản lý của các doanh nghiệp.
2. Những đặc tính văn hoá cần nghiên cứu
Để tăng khả năng thành công của hoạt động kinh doanh quốc tế, các nhà kinh
doanh quốc tế cần phải am hiểu về môi trường văn hoá mà mình hoạt động. Việc thuê
mướn nhân công, buôn bán của doanh nghiệp đều được điều chỉnh và sở hữu của con
người. Con người chính là chủ thể trong quan hệ kinh tế đó – mà con người lại bị tác
động bởi cái văn hoá trong môi trường họ sinh sống. Vì vậy, doanh nghiệp phải cân
nhắc, dự đoán, am hiểu về văn hoá của nước sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế
giới. Có như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh đó mới có khả quan.

Tuy nhiên, một số vấn đề mà nhà kinh doanh quốc tế nên ưu tiên nghiên cứu, đó
là ngôn ngữ, lối sống, thông tin, tín hiệu, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lễ hội Các
nhân tố này được coi là “hàng rào chắn” các hoạt động giao dịch kinh doanh. Mỗi
quốc gia, thậm chí trong từng vùng của mỗi quốc gia, các dân tộc khác nhau cũng có
tập quán, lối sống và ngôn ngữ riêng. Do đó, các nhà kinh doanh cần phải biết rõ và
hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới.
a. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và phong cách tư duy. Nó là sản phẩm
của văn hoá và là một nhân tố cấu thành của văn hoá. Nó cung cấp cho các nhà sản
xuất kinh doanh một phương tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh
quốc tế. Đối với các công ty đa quốc gia, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trước
hết đòi hỏi phải thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ. Thông thường hoạt động kinh
doanh quốc tế tất yếu liên quan hoặc đòi hỏi sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Để
giải quyết tình trạng sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong giao tiếp kinh doanh,
chúng ta có thể thuê phiên dịch và nhà giao dịch hoặc thuê cố vấn hay các chuyên gia.
b. Tôn giáo:
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày
của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiịep kinh doanh quốc tế
cần phải hiểu biết về các tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà các doanh
nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh. Thông thường, các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế phải quan tâm đến bốn vấn đề và tôn giáo, đó là:
+ Tôn giá thống trị.
+ Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội.
+ Mức độ thuần nhất của tôn giáo.
+ Sự tự do tín ngưỡng trong xã hội.
Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh
hưởng dến hoạt động kinh doanh. Ví như thời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ,
kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tổ
chức cho phù hợp với từng loại tôn giáo.
c. Lối sống và suy nghĩ của con người

Tính cách và suy nghĩ của con người Mỹ quyết định phần lớn đến hành vi của họ.
Đặc biệt, trong quan hệ kinh doanh quốc tế, hiểu biết về đối tác của mình là vấn đề cần
thiết cho bất kỳ thương gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các đối tác nước ngoài.
Nó không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
d. Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu vì hàng
hoá dù có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng
khó được họ chấp nhận. Ví như nếu nhà kinh doanh nào đó mang các sản phẩm chế
biế từ thịt lợn đến tiêu thụ ở Irắc, Xiri hoặc đem thịt bò đến bán ở Ấn Độ thì đó là
một điều nguy hiểm, vì những sản phẩm đó theo tập quán, tôn giáo thì các quốc gia
này không tiêu dùng. Nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, doanh
nghiệp kinh doanh có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng. Chính
thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng
châu lục, từng dân tộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo.
3. Mục đích nghiên cứu môi trường văn hoá
Kinh doanh ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải cố gắng thích nghi với môi
trường văn hoá của các nước sở tại nhằm nâng cao dần vị thế của mình trên thương
trường quốc tế. Chỉ trên cơ sở đó họ mới có thể mở rộng và nâng cao sự hiểu biết của
mình về văn hoá tương ứng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Như
vậy, tuỳ thuộc vào nhu cầu và trình độ hiểu biết về văn hoá mà công ty sẽ có hoạt động
thích ứng và hiệu quả. Nếu nhu cầu và trình độ hiểu biết văn hoá đối với nước sở tại
còn ở mức thấp thì công ty chỉ nên kinh doanh với một công ty nước ngoài và một
nước mà chức năng hoạt đọng của công ty đó còn hạn chế. Ngược lại, nếu nhu cầu và
trình độ am hiểu nền văn hoá nước sở tại ở mức cao, thì khi đó công ty có thể tiến
hành kinh doanh với nhiều nước, nhiều công ty khác nhau và công ty có điều kiện
thuận lợi trong việc mở rộng các chức năng và biện pháp hoạt động của mình.
Vì thế, nghiên cứu môi trường văn hoá mà mình hoạt động nhằm giúp các doanh
nghiệp cá nhân và tổ chức kinh doanh có hiệu quả, phòng tránh rủi ro và tối đa hoá
mong muốn của mình.
II. TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH

DOANH QUỐC TẾ.
Mỗi nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành
theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng
của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá
nhiều tập tính tiê dùng chung cho mọi dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền
thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng.
Có những thị trường với bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật Bản )
song cũng có những thị trường hết sức pha tạp Về văn hoá (Hoa Kỳ) vì thế môi trường
văn hoá mà doanh nghiệp nghiên cứu sẽ giúp cho việc kinh doanh ấy có hiệu quả.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch được tiến hành,
loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuếch trương có thể được
chấp nhận.
Giữa các nền văn hoá cũng có sự khác biệt về quản lý nhân lực, chính sách
Marketing và phương thức đàm phán giao tiếp. Nhân tố văn hoá có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động kinh doanh quốc tế bởi nó tác động trực tiếp đến suy nghĩ và tính cách
của doanh nhân - chủ thể của hoạt động kinh doanh quốc tế.
CHƯƠNG II
MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ MỸ
I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ NGUỒN GỐC CON NGƯỜI NƯỚC MỸ.
Đất nước của những người nhập cư
Khi Côlông đặt chân lên lục địa châu Mỹ, ông ta đã tìm ra một thế giới với những
người dân sinh sống. Về nguồn gốc, có nhiều khả năng họ là những người da vàng có
cùng chủng tộc với các dân tộc châu Á. Họ đã từ lục địa châu Á, khoảng từ 20.000
năm đến 40.000 về trước, qua mũi Bêring đã di cư sang lục địa châu Mỹ.
Những chuyến đi khám phá ra châu Mỹ của Côlông được Vương quốc Tây ban
nha bảo trợ, và những người da trắng đầu tiên đến định cư ở thế giới mới này đều là
những người gốc Tây ban nha theo Đạo Thiên chúa ở Rôma. Họ định cư tập trung ở
các vùng miền Nam nước Mỹ ngày nay.
Người Anh đến Mỹ vào thời điểm muộn hơn người Tây ban nha, nhưng họ lại
giữ vai trò nòng cốt của xã hội thuộc địa Mỹ. Trong tổng dân số da trắng là 3,2 triệu

người trong cuộc điều tra dân số năm 1790, có tới 60 đến 80% là người Anh.
Một nước Mỹ mới: từ năm 1783 đến nay
Sau khi giành được độc lập, số dân Mỹ tăng nhanh chóng. Từ năm 1790 đến năm
1835, số dân tăng lên chủ yếu là do sự nhân giống của người “Mỹ chính gốc”. Nhưng
từ năm 1830 đến năm 1860, thì chủ yếu là do người di cư từ Bắc Âu sang.
Cũng trong thời gian này, lãnh thổ nước Mỹ được mở rộng ra rất nhiều. Đến năm
1860, công việc định cư đã vượt khỏi sông Mítsisipi sang Minêsôta, Kandát, Mítsuri,
Áckansa, và miền đông Tếchdát. Việc di cư đến Ôrigơn để tìm các vùng đất tự do và
tới Caliphoócnia để tìm vàng đã là nhân tố thúc đẩy hai bang này gia nhập liên bang.
Vào khoảng năm 1860, những đặc điểm của xã hội Mỹ đã trở nên rõ ràng hơn.
Trong hơn 80 năm từ khi giành được độc lập, tốc độ tăng dân số – kể cả người chính
gốc và người mới di cư tới – sánh kịp với tốc độ mở rộng lãnh thổ. Cũng như ở thời kỳ
thuộc địa, sự tăng trưởng của người da đen và người di cư từ Bắc Âu sang đã làm cho
da màu của người Mỹ thay đổi dần. Tính cách của người Mỹ về cơ bản vẫn như ở thời
kỳ thuộc địa: cần cù, chăm chỉ, độc lập, táo bạo, dân tộc chủ nghĩa Tuy nhiên, cho
đến năm 1860, dân tộc Mỹ vẫn bị chia rẽ. Chỉ sau khi nội chiến kết thúc thì quyền
thống trị của nhà nước liên bang đối với các bang mới được thiết lập, và chế độ nô lệ
người da đen mới được bãi bỏ.
Từ năm 1860 đến nay, số dân nước Mỹ có những thay đổi đáng kể. Cùng với tốc
độ tăng của số dân khá nhanh, một xu thế rất quan trọng là cộng đồng người di cư
trong tổng số dân nước Mỹ lớn dần lên và gốc người nhập cư đến Mỹ cũng thay đổi.
Những người di cư từ các nước Bắc và Tây Âu giảm, từ Đông và Nam Âu tăng lên.
Đồng thời, luồng di cư từ châu Á đến Mỹ cũng tăng lên, bắt đầu là người Trung Quốc,
sau đến người Nhật Chính những thayđổi này đã có tác động lớn đến sự hình thành
về sau này, một dân tộc Mỹ tuy phức tạp, không đồng nhất nhưng sáng tạo và năng
động.
ii. NỀN VĂN HOÁ MỸ
Nền văn hoá của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thật đa dạng, phong phú, cũng giống
như một cây xanh cao to, gồm nhiều cành, nhánh và dĩ nhiên là chúng mọc xúm xít
chung quanh thân hình chính, làm nên diện mạo đầy đủ cho vây xanh đó.

Người ta thường coi văn hoá Mỹ bắt đầu từ năm 1607 khi mà sự nhập cư của
người Anh đã tương đối ổn định. Rồi muộn hơn – năm 1668, Wiliam Stoughton một
học giả gốc Anh đã thành công ở xứ sở Hoa Kỳ đã viết “Chúa đã sàng lọc cả một dân
tộc từ nước Anh để có thể chuyển thành những hạt giống tốt nhất tới mảnh dất hoang
dã là Mỹ quốc này”. Văn hoá Mỹ nhìn chung chủ yếu thừa hưởng một số kinh nghiệm
và địa danh của người bản xứ (Inđiô), còn hầu hết các mặt như ngôn ngữ, thể chế, tôn
giáo, văn học, kiến trúc, âm nhạc đều có xuất xứ từ châu Âu nói chung và nước Anh,
Tây Âu nói riêng.
Tuy bắt nguồn từ văn hoá Tây Âu là chính nhưng khi hình thành phát triển thì
văn hoá Mỹ thể hiện là một nền văn hoá đa dạng – phức tạp do gần 300 năm hấp thụ
được ở những người nhập cư và tỵ nạn từ khắp thế giới, tức là xã hội Mỹ có nhiều nền
văn hoá và các nhánh văn hoá phụ.
1. Ngôn ngữ và bản sắc dân tộc
Theo số liệu của Bộ lao động và thương mại nêu trong cuốn sách “một thế kỷ
tăng trưởng dân số”, cho biết: Khi người Anh đến Mỹ nhập cư ngày một gia tăng
chiếm 60 đến 80% dân số Mỹ thì 13 thuộc địa đầu tiên là do người Anh cai trị. Luật
pháp, cơ cấu tổ chức chính quyền, đời sống văn hoá xã hội thuộc địa Mỹ chủ yếu
mang đặc điểm Anglo – saxon. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở tất
cả mọi nơi trừ những cộng đồng “nước ngoài” biệt lập.
Cho đến tận ngày nay, nước Mỹ vẫn chưa có ngôn ngữ chính thức, 1/3 số bang
lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chích thức, 2/3 số bang còn lại coi tiếng Mỹ hoặc khôing
coi ngôn ngữ nào là chícnh thức. Riêng bang đảo Hawai lại tuyên bố có hai ngôn ngữ
chính thức tiếng Anh và tiếng Hawai. Việc ủng hộ tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức
cũng khác nhau, tuy nhiên, trong kinh doanh quốc tế, tiếng Anh là ngôn ngữ chính
được sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ những cộng đồng “nước ngoài” biệt lập.
Trước đây, sự phân rẽ cổ điển là giữa người da trắng và người da đen. Những
người Cộng hoà có xu hướng phân biệt hơn. Còn những người Dân chủ lại muốn thử
tiến hành hội nhập. Cùng với việc gia tăng nhiều dân tộc, các chiến lược này đều đã
quá thời và cần được thay thế bằng tư tưởng chia sẻ những giá trị dân tộc, những khả
năng tài chính và các kết quả của nền kinh tế mới.

Giữa những năm 20, Mỹ đã thông qua một chính sách hạn chế sự nhập cư. Chính
sách này kéo dài 40 năm. Năm 1965, chính sách này thay đổi hoàn toàn, nó cho phép
tiếp nhận những người nhập cư mới, trước hết là những người từ châu Mỹ la tinh và
châu Á tới. Chính sách này đưa lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ người Mỹ sinh ở ngoài nước
Mỹ đã tăng gấp đôi từ những nam 60. Gần 11% dân số có nguồn gốc Tây ban nha,
12% người Mỹ gốc Phi và 3% gốc châu Á. Ở New York, những người gốc Tây ban
nha đã tạo ra nhóm thiểu số quan trọng nhất. Năm 1997, lần đầu tiên số lượng trẻ em
gốc Tây ban nha vượt quá số lượng trẻ em Mỹ gốc Phi.
Sự phát triển này sẽ tăng tốc độ trong nửa đầu thế kỷ tới. Ngay từ năm 2005,
những người Tây ban nha sẽ trở thành nhóm thiểu số đầu tiên của Mỹ. Năm 2050, họ
sẽ chiếm 1/4 dân số Mỹ và những người châu Á chiếm 8% (người Mỹ gốc Phi chiếm
13,5%). Tỷ lệ người da trắng không phải gốc Tây ban nha tụt xuống còn 53%, và ở
nhiều bang họ trở thành thiểu số.
Do đó các dữ kiện bầu cử sẽ bị thay đổi sâu sắc. Các nhà có trách nhiệm về chính
sách bắt đầu quan tâm đến điều đó. Vì vậy, những người của đảng Cộng hoà - họ từng
xem người Mỹ gốc Phi, người Tây ban nha ở Caliphoócnia, ở Tếchdát và Florida như
kẻ thù – sẽ xem xét lại đường lối của họ trong những năm tới.
Một chính sách tập hợp các dân tộc khác nhau lại không thể chỉ được khẳng định
trên nguyên tắc. Nó cũng cần phải vạch ra giải pháp cụ thể cho các vấn đề nâng cao
đời sông cho mọi người.
2. Tôn giáo
Mỹ là một nước đa chủng tộc, gần như không thiếu một màu da nào, một dân tộc
nào trên đất nước này. Góp vào bức tranh xã hội đầy màu sắc, tôn giáo Mỹ hết sức đa
dạng, phong phú, mang một bản sắc riêng không thấy ở bất cứ quốc gia nào khác.
Các nhà nghiên cứu về xã hội Mỹ nêu lên một nhận xét rằng, khi thấy người Mỹ
đi ghi tên tham gia vào các đoàn thể thì có thể ước đoán với độ chính xác khá cao là họ
đăng ký gia nhập một tổ chức tôn giáo nhiều hơn tất cả các hội tự nguyện khác gộp lại.
Khoảng 60% tổng số người dân Mỹ là thành viên các hiệp hội tôn giáo, đông hơn
nhiều so với các nước Tây Âu và Canađa.
Tính đến năm 1989, có 145.384 triệu người Mỹ theo tôn giáo, trong đó khoảng

79 triệu người theo Đạo Tin lành, 55 triệu người theo Đạo Thiên chúa La mã, 6 triệu
người theo các giáo hội phương Đông, 100.000 người theo Đạo Phật, v.v
Tôn giáo có một vai trò quan trọngtrong xã hội, và đa số người Mỹ cho rằng nhà
thờ phải tách khỏi nhà nước. Thuy nhiên, vị trí của tôn giáo trong xã hội đã có những
thay đổi to lớn so với những thời kỳ đầu tiên của lịch sử nước Mỹ. Những người di cư
đến lập nghiệp ở nước Mỹ đều mang trong mình tâm niệm là làm theo ý Chúa, và là
quá trình xây dựng những bậc thang lên thiên đàng. Họ coi tôn giáo là nền tảng của kỷ
cương trong xã hội. Khuôn mặt của một vị linh mục (do mọi người trong thị trấn bầu
ra, chứ không phải chỉ những người trong họ đạo) là hiện thân của điều thiện và phúc
lợi xã hội; đồng thời năng lực, phẩm chất của ông ta là cơ sở cho trật tự kỷ cương
trong thị trấn đó. Tuy nhiên, đến nay ta không còn thấy được chuyện đó nữa, thậm chí
ở cả những vùng xa xôi, hẻo lánh. Tôn giáo đã hoàn toàn trở thành một công việc
mang tính chất cá nhân. Đa số người Mỹ coi việc theo đuổi tín ngưỡng là việc riêng
của mình, chẳng có liên quan đến ai cả. Chẳng thế mà có người nói mỉa mai rằng trong
tương lai, đời sống tôn giáo nước Mỹ sẽ phân chia thành 249 triệu loại tín ngưỡng, cứ
mỗi người có một loại tín ngưỡng cho riêng mình.
Nhưng hiện nay, ở Mỹ có khoảng 219 tôn giáo nhỏ phân chia thành 341 nghìn tổ
chức địa phương. Tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất nước này là Christmas (còn gọi
là đạo KiTô hay Cơ Đốc Giáo) có khoảng 76,8 triệu tín đồ; Protestant (Tân Giáo), 52
triệu tín đồ; Roman Catholics (Thiên chúa La Mã), 3,9 triệu tín đồ; Judaism (Do Thái),
4 triệu tín đồ; tiếp theo là Eastern Othodox Church (Chính giáo phương Đông); rồi Hồi
giáo, Phật giáo, Quaker, Mormons Hàng năm có khoảng 45 triệu trẻ em, chưa kể
người lớn, theo học ở các lớp do các tổ chức tôn giáo mở. Với một nền tôn giáo đa
giáo phái và với một số lượng khổng lồ người tham gia các hoạt động tôn giáo như vậy
mà trên nước Mỹ hiện nay không hề xảy ra các cuộc tàn sát hay xung đột tôn giáo.
Trong khi hiện nay tôn giáo và sắc tộc là hai vấn đề rất tế nhị và đã là khởi điểm của
nhiều cuộc xung đột hoặc khủng bố đẫm máu.
Vậy vì lý do gì mà nước Mỹ có thể duy trì được sự ổn định cho một nền tôn giáo
đa dạng như vậy? Tai sao ở Mỹ lại có hiện tượng cùng một nhà thờ có thể dùng làm
nơi hành lễ của hai giáo phái? Tại sao cùng một bang, một thành phố, thậm chí cùng

một quận tồn tại nhiều trung tâm của các tôn giáo khác nhau? Phải chăng tôn giáo luôn
được chính phủ “quan tâm chăm sóc” hay người Mỹ là những người hiền lành, yêu
hoà bình, nhân ái?
Lời giải đáp chính xác và đầy đủ nhất đó chính là nền tôn giáo Mỹ với tính cách
đặc biệt của nó. Nhận xét về nền tôn giáo Mỹ ngày nay, nhà nghiên cứu văn hoá
Esther Waming đã viết trong cuốn Culture Shock (Sốc văn hoá) như sau: “Rất có thể ít
nhiều do tình cảm tôn giáo truyền lại từ khuynh hướng tôn giáo của nước Mỹ lúc ban
đầu”.
Càng về giai đoạn cuối của thế kỷ XVII, khi những đợt di cư ồ ạt từ khắp nơi đổ
về, nước Mỹ thực sự trở thành nước đa tôn giáo. Thanh giáo từ Anh, Do Thái giáo từ
Đức, Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Hồi giáo theo chân những nô lệ châu Phi
Hơn thế, Hoa Kỳ còn như bà đỡ khéo tay cho sự ra đời hàng loạt tôn giáo mới như
Quaker, Mormons Đó là chưa kể đến sự phân tách của các giáo hội thành các giáo
phái mới. Các giáo phái dến Mỹ hay được thành lập ở Mỹ đều chung một ý tưởng coi
đây là Tân Thế Giới, một miền đất hứa, thậm chí coi nơi đây chỉ là lãnh đậo của giáo
phái họ thôi. Tất cả các ý tưởng nhằm đưa một tôn giáo lên thành quốc giáo hay dùng
tiền của, quyền lực áp đặt buộc người dân phải theo một tôn giáo nào đó đều bị loại
bỏ. Nếu có một giáo hội nào dám đi ngược với tiêu chí, với khuynh hướng tôn giáo
Mỹ đã hình thành từ buổi ban đầu thì đều phải trả giá. Nó sẽ bị cô lập, bị phản dối
hoặc bị trục xuất khỏi mảnh đất đang sinh sống.
Theo thời gian, những tình cảm hoà đồng tôn giáo Mỹ trở nên bình thường, mọi
cộng đồng tôn giáo vừa độc lập, vừa cùng nhau sinh sống. Những điều đó có được là
nhờ 3 yếu tố cơ bản là Nhà nước, gia đình và tư tưởng người dân.
Ở Mỹ, hiện tượng trong một gia đình có năm người mà có ba, bốn quốc tịch là
chuyện bình thường. Như một gia đình có người bố là người Anh theo Tân giáo, người
mẹ là người Ireland theo phái Calvin, các người con mỗi người theo một tôn giáo. Như
vậy, sự hoà đồng trong tôn giáo chỉ có ở một đất nước như Mỹ khi mà quyền tự do cá
nhân được tôn trọng: Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do điều trần và không ngoại
trừ tự do tín ngưỡng, không ai có thể ép buộc ai phải theo tôn giáo mình đã theo:
chồng không thể ép vợ, bố không thể ép con nhưng vợ chồng con cái vẫn cùng

chung sống trong một mái nhà. Từ những hạt nhân như vậy mà tính hào đồng trong
tôn giáo được kế tục và phát triển. Ngoài ra, các phán quyết của Toà án tối cao ban
hành khi xét xử các vụ án tôn giáo đã tăng cường tính pháp lý cho việc tự do tinh
ngưỡng.
Chính quyền các bang cũng trợ cấp cho các giáo hội tiền bạc hoặc đất đai trên
tinh thần thận trọng và công bằng. Nói chung, ở thời điểm hiện nay, khi các cuộc xung
đột và khủng bố mang tính chất tôn giáo ngày càng gia tăng, tính hoà đồng trong tôn
giáo Mỹ tỏ ra có nhiều mặt tích cực trong cuộc sống.
3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con người Mỹ
a. Chủ nghĩa cá nhân – cốt lõi của nền văn hoá Mỹ
Khi nói đến tính cách con người và nền văn hoá Mỹ, điều không thể không nhắc
đến là chủ nghĩa cá nhân. Người Mỹ tin tưởng ở năng lực và “đạo đức thánh thiện”
của từng nhân cách cá nhân. Trong hoài bão và hy vọng của họ, điều cao cả nhất và
hoà hiệp nhất đều liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. Mặc dù chủ nghĩa cá nhân đã làm
nảy sinh nhiều vần đề xã hội phức tạp, nhưng các nhà nghiên cứu về văn hoá Mỹ đèu
cho rằng không thể làm cho dân Mỹ mất đi tích chất cá nhân chủ nghĩa, vì như thế là
tước bỏ một đặc điểm chủ yếu của người Mỹ với tư cách là một dân tộc.
Điều quan trọng nhất để hiểu người Mỹ là biết rằng họ là những người rất sùng
bái “chủ nghĩa cá nhân”. Sự kết hợp giữa tự do cá nhân và tính độc lập được đánh giá
cao ở Mỹ. Họ coi những công việc hoàn thành của cá nhân và những cuộc chiến để
giành được nhiều tự do. Họ có thể làm theo sở thích hoặc thay đổi lối sống của mình,
cho dù có phải từ bỏ mọi cam kết với gia đình, với cộng dồng. Quan điểm này đã bị
phản ứng mạnh mẽ của những người thuộc trường phái văn hoá cho rằng, mỗi cá nhân
là một thành viên của gia đình, xã hội và nhấn mạnh vai trò gắn kết với cộng đồng, đặt
sức mạnh của tổ chức cộng đồng lên trên cá nhân, phản đối chủ nghĩa cá nhân. Thực
tế, nhiều thành tựu đạt được ở Mỹ là nhờ phát kiến của những nhóm người, mỗi người
thực sự là một cầu thủ trong đội hình. Hiện nay, một số công ty Mỹ, có xu hướng sử
dụng sức mạnh của mỗi cá nhân bằng cách kết hợp các nhóm thành viên có năng lực
khác nhau để thực hiện những mục tiêu nhất định.
Hơn nữa, họ cho rằng sau một thời gian sống ở Mỹ người ta sẽ cảm thấy thoát

khỏi những ràng buộc bên ngoài và sẽ cảm thấy biết ơn nếu để yên cho họ “làm mọi
thứ theo cách của họ” hay “đạt được điều gì đó theo cách của họ”.
Theo quan niệm này, ít nhất một số người Mỹ không nhận ra thực tế là họ đang
chia sẻ một nền văn hoá với nhau. Như đã đề cập ở trên, họ có ý tưởng rằng họ hoàn
toàn độc lập để quyết định về những giả định hay giá trị riêng của họ. Quan niệm rằng
các nhân tố xã hội bắt họ trở thành như những người khác và trong trường hợp này đã
làm cho họ có cảm giác tính tự chủ bị tổn thương.
Như vậy, người Mỹ xem mẫu người lý tưởng phải là một người độc lập, tự chủ
và riêng biệt. Còn quan điểm về “chủ nghĩa cá nhân” - đó là phải tự đứng bằng đôi
chân của mình và tự quyết định – thì có thể nói rằng, người Mỹ rất khác biệt. Ví dụ
nhiều người Mỹ xem các cá nhân là anh hùng, bởi họ “nổi bật trong một đám đông” do
tiên phong làm một điều gì đó, lâu và thường xuyên, hay nói cách khác là làm những
điều tốt nhất, chẳng hạn như các phi công lừng danh: Charles Lindberg và Amelia
Earhart Người Mỹ thán phục những ai có thể vược qua khó khăn như nghèo khổ hay
tàn tật để thành công trong cuộc sống. Nhà giáo dục da đen Brooker T. Washington,
một tác giả vừa bị mù vừa bị điếc là một ví dụ.
Sự tôn sùng “chủ nghĩa cá nhân” vẫn thường thể hiện qua việc người Mỹ sử dụng
các câu như “Hãy làm cái gì đó theo cách của mình”, “Tôi làm cái gì đó theo cách của
tôi”, “Hãy tự quyết định điều đó”, “Mình làm mình chịu”, “Đừng trông cậy vào sự
giúp đỡ của người khác” và “Hãy cố gắng là điều tốt nhất”
Mối liên hệ chặt chẽ vốn có tầm quan trọng lớn mà người Mỹ gắn liền với chủ
nghĩa cá nhân là sự riêng tư. Người Mỹ cho rằng, con ngưòi ta “cần có những lúc ở
một mình” hoặc “để trầm tĩnh lại” để nghĩ lại mọi sự hoặc hồi phục năng lượng, tâm lý
đã hao tổn. Người Mỹ thực sự không hiểu những người nước ngoài mà thường thích
có ai đó để bầu bạn và họ dường như không thích ở một mình. Thái độ của người Mỹ
về riêng tư có vẻ rất khó hiểu đối với người nước ngoài. Nhà, sân chơi, thậm chí văn
phòng của người Mỹ có thể mở rộng cửa đón tiếp bạn, song, họ lại có những biên giới
mà đơn giản là người khác không thể bước qua. Khi những biên giới này bị xâm phạm,
có thể thấy người Mỹ hoàn toàn bị cứng lại, và thái độ của họ trở nên lạnh nhạt và xa
lánh.

b. Sự ngay thẳng
Trong ứng xử, người Mỹ thường bộc lộ tính cách thẳng thắn, chân thực, họ luôn
có ý kiến về những vấn đề mà họ quan tâm; tự nhận mình là những người có tham
vọng, lao động chăm chỉ, có nghị lực và tự hào về mức sống cao của mình, về vai trò
quan trọng của nước Mỹ trên thế giới. Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn, căng thẳng về vấn
đề chủng tộc, nòi giống giữa các nhóm sắc tộc trong xã hội, người Mỹ vẫn cố gắng
biểu hiện sự thân thiện, sẵn sàng kết bạn và dường như tạo ra mức độ quen thân rất
nhanh (điều mà ở một số nước khác phải mất khá nhiều thời gian). Sự nhanh chóng
này thường làm cho khách ngạc nhiên, thậm chí có thể hiểu lầm không chỉ bởi nó diễn
ra quá nhanh, mà còn bởi sự không chắc chắn về chất trong mối quan hệ đó. Nhưng
theo họ, sự thân thiện là một cử chỉ lịch sự. Tuy nhiên, mức độ thân thiện còn tuỳ
thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể và đều được thực hiện có suy xét ở người Mỹ.
c. Sự bình đẳng
Người Mỹ cũng rất đặc biệt khi nhìn nhận theo góc độ rằng họ tin vào lý tưởng,
như được phát biểu trong tuyên ngôn độc lập, rằng “tất cả mọi người sinh ra công bằng
như nhau” mặc dù trong những hành động thực tế họ vi phạm lý tưởng này, nhất là
trong vấn đề giải quyết các mối quan hệ chủng tộc. Tuy nhiên, người Mỹ có một niềm
tin sâu sắc rằng, về cơ bản thì tất cả mọi người đều có giá trị như nhau và rằng không
ai sinh ra cao sang hơn người khác. “Mỗi người một phiếu”, họ nói. Điều này thể hiện
ý tưởng rằng ý kiến của một người đều có giá trị và đáng nhận được sự chú ý như bất
cứ những người khác.
Người Mỹ thường cảm thấy không thoải mái khi mà họ được đối xử một cách
trịnh trọng. Họ không thích là đối tượng để người khác thể hiện sự kính trọng như
được cúi đầu chào hay được kính cẩn, được đối xử như người không làm điều gì sai
trái và không bao giờ có những yêu cầu vô lý vậy.
Theo quan niệm người Mỹ thì không chỉ nam giới sinh ra có sự công bằng mà
phụ nữ cũng vậy. Trong khi người Mỹ thường vi phạm ý tưởng này, bởi trong thực tế
họ lại luôn cho rằng phụ nữ công bằng với đàn ông, xứng đáng được nhận sự kính
trọng như nam giới. Điều này không có nghĩa là người Mỹ không phân biệt giữa họ
trong các vấn đề về giới tính, tuổi tác, của cải hay địa vị xã hội, và trên thực tế là có.

Nhưng sự phân biệt này chỉ tồn tại ở dạng tinh vi, khó nhận thấy. Giọng điệu của lời
nói, cách ra lệnh, cách dùng ngôn từ, vị trí chỗ ngồi – tất cả những điều này là cách để
người Mỹ công nhận vị trí xã hội khác nhau giữa họ. Người ở vị trí cao hơn có thể có
quyền nói trước, nói to hơn và lâu hơn. Họ ngồi ở đầu bàn hay trong một ghế thoải mái
nhất. Họ cảm thấy tự do để có thể chen ngang. Người có vị trí cao trong xã hội có thể
đặt tay lên vai của người có vị trí xã hội thấp hơn. Nếu có vấn đề đề cập đến giữa
những người có liên quan, thì người có vị trí cao hơn sẽ được nói đến trước.
Những người nước ngoài quen với những cách thể hiện sự kính trọng rõ ràng hơn
như cúi chào, quay mắt sang phía người có vị trí cao hơn, hay dùng tên, tước hiệu
danh giá thì thường tỏ ra xem thường cách mà người Mỹ thể hiện sự kính trọng đối với
người có vị trí cao hơn trong xã hội. Họ nghĩ một cách hơi thiên lệch rằng, người Mỹ
thông thường không nhận ra sự khác nhau vị trí xã hội và thường tỏ ra bất nhã với
người khác. Điều đặc biệt trong quan điểm người Mỹ về vấn đề công bằng là những
giả định quan trọng, theo đó bất kể vị trí xã hội lúc đầu của một người như thế nào thì
người đó cũng có khả năng đề đạt những vị trí xã hội cao và rằng mọi người dù bất
hạnh đến mấy cũng xứng đáng được hưởng sự đối xử cơ bản ngang nhau.
d. Sự thoải mái
Các khái niệm về công bằng đã làm cho người Mỹ khá thoải mái trong phong thái
noi chung của họ và trong các mội quan hệ của họ với người khác. Ví dụ như người
bán hàng hay người phục vụ bàn đều có thể giới thiệu bằng tên và nói chuyện với
khách hàng rất thoải mái và cởi mở. Những thư ký Mỹ, như những người khác, được
dạy rằng họ cũng hữu ích như mọi người khác, thậm chí cả khi họ làm cố định một
công việc mà người khác cho có thể cho là thấp kém. Thái độ thoải mái này có khi làm
mếch lòng người nước ngoài, những người đang có vị trí xã hội ở những nước mà
không cho là “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng”.
Những người đến từ xã hội mà sự cư xử một cách trịnh trọng thường dễ bị xốc
bởi sự xuề xoà trong cách giao tiếp, ăn mặc, cách đi đứng của người Mỹ. Cách nói sử
dụng các thuật ngữ hay còn gọi là tiếng lóng được thấy thường xuyên trong hầu hết
các dịp và những lời phát biểu trịnh trọng chỉ dành cho các sự kiện có đông công
chúng hay trong những tình huống khá trịnh trọng. Sự thân thiện bề ngoài thường thấy

ở người Mỹ là cách tiếp cận bình dân và thoải mái của họ đối với người khác. “Chào”
– Họ có thể nói với bất cứ ai “Mọi việc có ổn không?” hay “Có khoẻ không?” Cách
giao tiếp này phản ảnh ít hứng thú, đặc biệt đối với ngưòi đang nói chuyện, hơn là
muốn thể hiện rằng người đối thoại cũng chỉ là một người bình thường như những
người khác, là thành viên của một nhóm người bình dân.
Sự thoả mái đi đôi với quyền độc lập, tự do, dân chủ. Tự do và độc lập còn phù
hợp với quan điểm cho rằng, nước Mỹ là miền đất của moi cơ hội, nơi mà việc chấp
nhận rủi ro lại được đề cao. Họ tự hào với những doanh nhân mới vào nghề mà dám
thực hiện một cuộc cách mạng về sản phẩm, hay đưa ra một dịch vụ mới. Thực tế ở
Mỹ và các nước phương Tây khác, các công ty bị thất bại nhiều hơn các công ty thành
đạt, sự tự do lựa chọn số phận cho riêng mình, cũng co nghĩa là tự do lựa chọn sự thất
bại.
Cùng với chủ nghĩa cá nhân, độc lập, tự do, dân chủ là sự cạnh tranh. Người Mỹ
hiểu rõ điều này qua bản chất của những cuộc đọ sức giữa họ. Họ vận dụng một cách
triệt để trong lĩnh vực kinh doanh, thậm chí cả trong cuộc sống. Mục tiêu chính của
các doanh nhân Mỹ là giành chiến thắng ở các cuộc đàm phán trong kinh doanh, và
khi việc giành thắng lợi trở nên thực sự quan trọng với họ, thì sự cạnh tranh có thể
quyết liệt và không thể nhân nhượng.
e. Tương lai, sự thay đổi và tiến bộ
Người Mỹ ít quan tâm đến lịch sử và truyền thống hơn là con người của các xã
hội trước đó. Nhiều người có thể nói “lịch sử không quan trọng”, “tương lai mới quan
trọng”. Họ là những người hướng về phía trước. Họ cho rằng những gì xảy ra trong
tương lai nằm trong sự kiểm soát của mỗi người và ít nhất chịu sự ảnh hưởng của họ.
Họ tin rằng một con người có lý trí và trưởng thành cần phải đặt mục đích cho tương
lai của mình và biết làm việc một cách có hệ thống để đạt được những mục đích đó.
Họ tin rằng tất cả các cá nhân, từng người một hoặc làm tập thể, đều có thể thay đổi tất
cả các mặt của môi trường vật chất xã hội một khi đã quyết định làm như vậy với
những kế hoạch đúng đắn và thực sự bắt tay vào công việc. Sự thay đổi được xem là
tiền đề để tạo ra sự phát triển. Những điều mới sẽ tốt hơn điều cũ.
Hai khẩu hiệu lâu năm của hai tập đoàn Công ty nổi tiếng của Mỹ đã thể hiện sâu

sắc những giả định Mỹ về tương lai và về sự thay đổi. Một nhãn mác của đồ điện dân
dụng đã chấm dứt thương nghiệp máy tính và radio với khẩu hiệu “Sự tiến bộ là sản
phẩm quan trọng nhất của chúng ta”. Một công ty hoá chất lớn chuyên sản xuất sợi
tổng hợp và nhựa đa dạng có khẩu hiệu “Ngành hoá chất chuyên sản xuất những sản
phẩm tốt hơn để cho cuộc sống tốt hơn”.
Niềm tin mãnh liệt vào sự tiến bộ và một tương lai hoàn toàn ngược lại với thai
độ tin vào số phận của nhiều nền văn minh khác, trong đó tiêu biểu là Latinh, châu Á,
Ả Rập, mà ở đó người ta rất coi trọng quá khứ. Ở những nước này, tương lai được xem
như nằm trong bàn tay của “số phận”, “Chúa” hoặc ít nhất là trong tay của những
người có quyền lực nhất trong xã hội. Cái ý tưởng có thể định đoạt được tương lai của
chính mình đối với họ dường như rất thơ ngây hoặc thậm chí hơi lố bịch.
f. Bản chất thánh thiện của loài người
Tương lai không thể tốt hơn nếu con người về cơ bản không có lòng nhân ái và
tiến thủ. Người Mỹ thường cho rằng bản chất con người vốn dĩ là tốt, chứ không phải
là tội lỗi. Người nước ngoài thường thấy họ làm việc mà dựa trên giả định con người
bản chất tốt và có thể ngày càng làm cho bản thân tốt hơn. Một số ví dụ chứng minh
cho điều này:
Được hưởng nền giáo dục hay đào tạo tốt: Giáo dục chính thức không chỉ giành
cho lớp trẻ mà cho tất cả mọi người. Ngành giáo dục có những khoá học mở rộng,
những lớp học buổi tối, lớp học tại chức và cả những khoá học dạy trên ti vi dành để
cho những người đi làm hay sống xa các trường đại học cũng có thể có điều kiện để có
học vấn cao hơn. Nhiều học sinh trung học đã ra trường là những người đã trưởng
thành thì có thể tìm cách để cải thiện học vấn của mình bằng cách tự đào sâu thêm.
Vậy mà đến gần đây người ta đã nhận thấy nguy cơ về chất lượng giáo dục trung học
kém cỏi của Mỹ so với các nước khác và chính Tổng thống Clinton cũng đã thừa nhận
đó là một vấn đề quốc sách.
Giáo dục không chính thức nằm dưới dạng xưởng học nghề, hội thảo hay các
chương trình đào tạo rộng rãi. Nhờ chúng người ta có thể tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm, từ việc để trở thành ông bố bà mẹ tốt hơn, đến việc biết cách đầu tư tiền một
cách khôn ngoan hơn hoặc xử sự tự tin hơn.

Sự cải tạo: Ngoại trừ các trường hợp tỏ ra quá bất lực, còn tất cả đều nỗ lực để
cải tạo những người tàn tật do tai nạn hay bệnh tật. Một người “học đi” sau vụ tai nạn
khủng khiếp thì rất được khâm phục.
Sự cải tạo không chỉ dành cho những người bị tàn tật không thôi mà còn cho
những người không thành công trong xã hội. Nhà tù và các trung tâm giam giữ nhằm
để cải tạo tù nhân trở nên có ích cho xã hội vừa để trừng phạt tội lỗi của họ. Một quan
niệm rộng rãi đó là người mà phạm luật sở dĩ làm như vậy bởi vì điều kiện môi trường
không may mắn đối với họ chứ không phải do bản chất họ tội lỗi.
Niềm tin vào chính phủ dân chủ. Có thể nói một cách ngắn gọn rằng niềm tinh
vào chế dộ dân chủ là niềm tin cơ sở cho mọi niềm tin của người Mỹ, trong đó nó thể
hiện niềm tin về chủ nghĩa cá nhân, tự do và bình đẳng. Nói cách khác, người Mỹ tin
rằng con người có thể làm cho cuộc sống của bản thân mình và của người khác tốt hơn
thông qua chính phủ mà họ đã lựa chọn.
Tự nguyện: Vấn đề này không những chỉ thông qua Chính phủ hay các ban ngành
có thẩm quyền nào khác có vốn, có thể là cho cuộc sống của con người tốt hơn mà còn
nhờ sự tự nguyện của công dân nữa. Nhiều người nước ngoài đã phải ngạc nhiên trước
những hoạt động mà người Mỹ rất ủng hộ. Đó là những hành động tự nguyện cơ bản
như: các tổ chức ở trường học giữa bố mẹ và thầy cô giáo, cộng đồng gọi là “các câu
lạc bộ dịch vụ” để quyên góp tiền cho các mục đích từ thiện; các gia đình thì cho các
sinh viên nước ngoài ở; các chiến dịch “lau sạch, sơn, sửa chữa” để góp phần làm đẹp
cộng đồng; các tổ chức bảo vệ động vật hoang dã và nhiều tổ chức khác nữa
Các chiến dịch giáo dục: Khi người Mỹ nhận thấy có một vấn đề xã hội, họ có
thể nhanh chóng thành lập một chiến dịch giáo dục để công chúng có thể nhận ra
những nguy hiểm của vấn đề đó và khuyên nhủ mọi người để có những biện pháp
phòng ngừa hay sửa chữa. Do vậy, có những vấn đề liên quan đến hút thuốc, thuốc
phiện, lạm dụng trẻ con và nhiề căn bệnh khác nữa.
Sự tư cải thiện: Người Mỹ cho rằng bản thân họ có thể tự cải thiện mình. Nhờ sự
tự tìm tòi, qua những gì họ đọc, họ thấy và thông qua các câu lạc bộ họ tham gia,
người Mỹ có thể cai thuốc, rượu, giảm cân và cố gắng để thời gian của họ có hiệu quả
nhất, tốt hơn trong công việc, tự cải thiện họ theo nhiều cách khác.

Người Mỹ thường nói rằng “ở đâu có ý chí, ở đó có tương lai”. Người mà đang
có khát vọng là cho cuộc sống tốt hơn thì ước muốn đó của họ sẽ đạt được miễn là họ
có một động cơ đủ mạnh.
g. Thời gian
Đối với người Mỹ, thời gian chính là nguồn của cải quý giá giống như nước hay
than đá, cái mà con người có thể sử dụng tốt và cũng có thể sử dụng không tốt: “Thời
gian là tiền bạc”, “Cuộc đời bạn chỉ có từng ấy thời gian và bạn nên biết cách sử dụng
một cách khôn ngoan” Ngay từ rất bé, người Mỹ đã được dạy rằng tương lai không
thể tốt hơn quá khứ và hiện tại nếu con người ta không sử dụng thời gian của mình cho
những mục đích củng cố xây dựng và có định hướng cho tương lai. Vì thế nên người
Mỹ tỏ ra rất khâm phục người có “đầu óc tổ chức tốt”, những người thường viết ra họ
sẽ làm gì trong ngày. Con người có lý tưởng theo họ phải là người đúng giờ và biết
quý trọng thời gian của người khác.
Thái độ về thời gian không được số đông trên thế giới chia sẻ, nhất là không phải
là châu Âu. Họ có thể coi thời gian như một cái gì đó đơn giản nhưng vô hình ở xung
quanh họ chứ không phải là một cái gì đó mà họ có thể sử dụng được. Một trong
những điều khó đối với người nước ngoài sống ở Mỹ là phải điều chỉnh để mình quen
với khái niệm thời gian cần phải tiết kiệm bất cứ khi nào có thê và hàng ngày phải biết
cách sử dụng cho khôn ngoan.
Trong cố gắng để sử dụng thời gian cho tốt, người Mỹ bị người nước ngoài nhìn
nhận rằng, họ giống như những cỗ máy, những sinh vật không có cảm xúc. Do luôn
quá coi trọng thời gian nên họ không thể tham gia hay hoà đồng vào cộng đồng chung
của loài người, điều mà thực sự rất quan trọng trong cuộc sống.
Hiệu quả mà người Mỹ đặt lên hàng đầu có mối quan hệ chặt chẽ đến quan niệm
của họ về tương lai, sự thay đổi và thời gian. Làm điều gì đó có hiệu quả tức là làm
theo một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất.
h. Thẳng thắn và tự tin
Người Mỹ luôn cho rằng họ rất trung thực, thẳng thắn, cởi mở khi họ giao tiếp
với người khác. Họ có thể không ngần ngại nói rằng: “Hãy lật ngửa ván bài lên” hay
“Thôi khỏi cần đánh đố nhau nữa, hãy đi thẳng cào vấn đề đi” Những câu này và

nhiều câu khác nữa thường mà người Mỹ thường dùng muốn nói nên rằng người ta
nên nói thẳng những gì họ nghĩ và họ muốn từ người khác. Người Mỹ cho rằng các
mâu thuẫn có thể được giải quyết bằng những cuộc nói chuyện thẳng thắn. Từ “tự tin”
là tính từ dùng để nói về một người mà họ trình bày ý kiến một cách rõ ràng và thẳng
thắn. Người mà không đủ lòng tự tin có thể tham dự vào các khoá học “đào tạo lòng tự
tin”.
Người Mỹ thường sẽ nói thẳng thắn và cởi mở những điều họ không thích. Họ cố
gắng duy trì phong thái “xây dựng” khi nói những điều như thế có nghĩa là người nghe
sẽ không cảm thấy bị xúc phạm hay không thể chấp nhận. Nếu như họ không thể nói
ra bằng lời thì họ sẽ thể hiện bằng hành động, ví dụ như qua nét mặt, động tác, lời nói.
Họ không cho là sai nếu thể hiện cảm xúc của mình trong một chừng mực nhất định.
Nhiều người châu Á cảm thấy xấu hổ về phản ứng mạnh mẽ của người Mỹ về một vấn
đề nào đó. Nói tóm lại, người Mỹ thì thẳng thắn và cởi mở hơn những người khác ở
các nước khác.
i. Thay cho lời kết
Chủ nghĩa cá nhân, sự bình đẳng, sự thoải mái, tương lai thay đổi và tiến bộ, bản
chất thánh thiện của con người cùng với ý niệm về thời gian đã hình thành nên hệ
thống tư tưởng của người Mỹ. Đó là những giá trị và giả định đã góp phần tạo nên
phong cách sống của người Mỹ và nét riêng biệt đối với các quốc gia khác.
Đánh giá một cách khách quan thì những quan niệm về giá trị và giả định của
người Mỹ có mặt tiến bộ, mà điều đáng nói nhất là vai trò chủ đạo của con người được
đưa lên hàng đầu. Nếu một ai đó đang sống ở một xã hội khác mà ở đó quy tắc xã hội
hà khắc thì khi đến nước Mỹ, cái đầu tiên mà họ cảm nhận được là không khí tự do,
dân chủ. Lúc đó có thể họ sẽ tìm thấy lại được cái tôi của chính mình. Do vậy các giá
trị và giả định của người Mỹ như vậy đã khẳng định lại vai trò của mỗi một con người
đối với xã hội, đã tạo cho bất cứ ai cũng có thể có cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, nói
như thế không có nghĩa là các giá trị và giả định của họ là vẹn toàn, mà đôi lúc ta cũng
có thể tìm thấy sự thái quá trong đó, ví dụ như quan niệm về chủ nghĩa cá nhân chẳng
hạn, tình trạng bất bình đẳng dân tộc, bất bình đẳng thu nhập, những hiện tượng tha
hoá con người. Nếu quá tôn sùng mà thiếu đi sự cân bằng thì điều đó có thể làm cho

con người ta trở nên vị kỷ, điều mà ít nhiều một số người nước ngoài đã thấy ở người
Mỹ. Nhưng xét cho cùng, từ tư tưởng để đi đến hành vi là cả một vấn đề và điều đó
phụ thuộc vào mỗi cá nhân và nhiều điều kiện khác nữa.
Nếu so sánh với các nước Tây Âu như Pháp, Anh, Italia thì có thể nói cuộc
sống ở Mỹ gấp gáp hơn, văn hoá Mỹ mang tính thương mại cao hơn và có nhiều biểu
hiện của chủ nghĩa cực đoan. Về phương diện nào đó, văn hoá Mỹ đồng cảm với chủ
trương của các nhà vạch chính sách Mỹ là khuếch trương một số khía cạnh văn hoá
Mỹ, lối sống Mỹ ra các khu vực khác trên thế giới, làm cho văn hoá Mỹ chiếm vị trí
thượng phong, được hoan nghênh và hỗ trợ cho kỳ vọng nước Mỹ luôn mạnh nhất thế
giới, chỉ huy được các quốc gia khác, mọi quyền lợi (kể cả văn hoá) của họ phải ít
nhiều phục vụ cho chủ nghĩa thực dụng của Mỹ.
4. Quan niệm về kinh tế – xã hội của con người Mỹ
a. Ngày nay Mỹ và hầu hết mọi khu vực khác đều phải thích ứng với các giá trị
phổ biến của tiến bộ xã hội như:
Cuộc cách mạng công nghệ - thông tin làm cho mọi hoạt động con người (chính
trị, kinh tế, văn hoá - xã hội) được trí tuệ hoá ngày càng cao. Đến lượt nó, sự trí tuệ
hoá hoạt động của con người là cái thay đổi tận gốc bản chất của mọi mối quan hệ
giữa người và người, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần nói riêng.
Dân trí ở những quốc gia trên cũng được nâng theo: chính trị, kinh tế, văn hoá sẽ
phục vụ tới đa số cộng đồng hơn. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử chứ không thuần
tuý chỉ là vấn đề đạo đức học hay tư tưởng chính trị.
Cũng chính cuộc cách mạng công nghệ - thông tin đã đưa đến sự quốc tế hoá đời
sống nhân loại. Không những nền kinh tế thị trường mang tính quốc tế, tính toàn cầu
mà lĩnh vực văn hoá cũng có những cởi mở, trao đổi, hợp tác giữa các dân tộc với
nhau để các dân tộc hiểu nhau hơn, tăng cường giao lưu, hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau
để cùng tồn tại và phát triển.
Các nước tư bản nói chung và Mỹ nói riêng có những đặc điểm chung của hệ
thống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Cơ chế thị trường, nhất là thị trường cạnh
tranh xuất hiện có ý nghĩa như một cơ chế bảo đảm tình hiệu quả trong việc phát hiện
những nhu cầu xã hội và việc hình thành những cân đối của sản xuất xã hội (tất nhiên

là phụ thuộc vào khả năng điều tiết, hạn chế tác động mặt trái vốn có của kinh tế thị
trường ở từng nước ra sao?).
Trên thực tế, sự thành công của nền kinh tế thị trường của nhiều nước không chỉ
đem lại sự phồn vinh cho quốc gia mà còn góp phần tạo thuận lợi cho văn hoá phát
triển (tuy cũng có một số hạn chế nhất định). Tiến bộ khoa học, công nghệ đã góp
phần làm cho văn hoá đến được nhiều người. Không phải ngẫu nhiên, trong thông điệp
Liên bang ngày 27/1/1998, Tổng thống Bill Clinton đã tự hào nói: nước Mỹ là nơi mà
mọi đứa trẻ đều có thể với tay lên bàn máy tính và được “chạm” vào mọi cuốn sách
được viết ra, mọi bức tranh được vẽ nên, mọi bản nhạc giao hưởng được sáng tác
Chính nền văn hoá hướng tới chủ nghĩ nhân văn, hướng tới hoàn thiện cá nhân,
xử lý tốt quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng sé ảnh hường trở lại làm cho xã hội phát
triển lành mạnh; đáng tiếc là tại những cường quốc như Mỹ và nhiều nước khác, bên
cạnh những thành tựu còn có những mảng tối - đó là các tệ nạn xã hội và bạo lực
khủng bố, tệ mãi dâm, tuyên truyền khiêu dâm làm xói mòn đạo đức, con người phải
chịu những sức ép to lớn của sự cạnh tranh, sự phân cách giàu nghèo quá mức, nhiều
người bế tắc tinh thần và đấy cũng là những thách thức to lớn đối với nhiều quốc gia.
Nhìn chung, theo các chuyên gia thì tuy văn hoá Mỹ đã định hình rõ nét, xác lập
được vị trí của mình những nó cũng vẫn có xu hướng mang tính phổ biến. Đó là:
Về tính chất: Văn hoá mang tính công nghiệp ở Mỹ đã và đang chuyển mạnh
sang văn hoá tin học. Sự thành công của xã hội ngay càng phụ thuộc rất lớn vào việc
thu nhận thông tin và khả năng truyền tải và xử lý thông tin.
Về tính hỗ tương: Trước đây, Mỹ thích chủ động tuyên truyền áp đặt cái mà họ
gọi là “văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ” cho nhiều nước.Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá
mạnh mẽ, có nhiều yếu tố văn hoá mang tính dộng, các nước tăng cường sự hợp tác
với các quốc gia và dân tộc mình, họ chủ động học tập điều tốt ở nước Mỹ, và nước
Mỹ cũng tích cực hơn trong việc thu nhận những tinh hoa văn hoá từ bên ngoài.
Về quyền lực trong văn hoá (chỉ tư cách sáng tạo, việc tiếp nhận, hưởng thụ và
khả năng chi phối văn hoá): Từ chỗ bị một số người của giai cấp cầm quyền và tầng
lớp văn nhân lũng đoạn, nền văn hoá Mỹ có những bước chuyển sang sự bình đẳng
hơn nhiều mặt do tin học phát triển. Cơ cấu văn hoá thay đổi do mạng lưới tin học

thống nhất hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ngôn ngữ đã giúp đông đảo công chúng
tham gia vào quyền lực nói trên.
Các tầng lớp văn hoá Mỹ hỗn dung, tương hợp, nhưng có đỉnh cao: Khi văn hoá
lũng đoạn không chiếm địa vị chủ yếu thì văn hoá đại chúng sẽ nổi dần lên, có một vị
tri hẳn hoi. Đại chúng ở đây không có nghĩa là không văn hoá, mà là văn hoá mang
tính phổ cập, cùng sự phát triển dân trí sẽ là khoảng cách giữa các nhà văn hoá và phi
văn hoá, giữa chuyên gia và người thường càng thu hẹp. Tuy nhiên, ở đất nước mà chủ
nghĩa cá nhân phát triển ở mức cao, pháp luật rõ ràng, tổ chức xã hội khá chặt thì việc
thẩm định giá trị cũng khắt khe. Nếu muốn cả xã hội công nhận tác phẩm của mình,
coi là đỉnh cao thì phải chấp nhận cạnh tranh, thi dấu, sàng lọc thật nghiêm khắc.
Có thể thấy sự khác biệt giữa người Mỹ và người Á Đông qua bảng sau:
NĂM GIÁ TRỊ CON NGƯỜI QUAN TRỌNG NHẤT
Người Đông Á Người Mỹ
1. Cần cù 1. Tự lực cánh sinh
2. Hiếu học 2. Thành đạt cá nhân
3. Trung thực 3. Cần cù
4. Tự lực cánh sinh 4. Thành công trong cuộc sống
5. Kỷ luật 5. Giúp đỡ mọi người
SÁU GIÁ TRỊ XÃ HỘI QUAN TRỌNG NHẤT
Người Đông Á Người Mỹ
1. Một xã hội trật tự 1. Tự do ngôn luận
2. Sự hoà nhập xã hội 2. Sự hoà nhập xã hội
3. Các quan chức có trách nhiệm 3. Quyền cá nhân
4. Cởi mở đón nhận tư tưởng
mới
4. Tự do tranh luận
5. Tự do ngôn luận 5. Suy nghĩ về bản thân
6. Tôn trọng chính quyền 6. Các quan chức có trách nhiệm
QUAN NIỆM KHÁC VỀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Giá trị Người Đông Á Người Mỹ

1. Thực hiện nghĩa vụ đối với người khác 39% 19%
2. Thành công trong cuộc sống 50% 59%
3. Thành đạt cá nhân 33% 59%
4. Hiếu học 69% 15%
5. Kỷ luật cá nhân 48% 22%
Trong xã hội Mỹ hiện nay, dù nền kinh tế phát triển, lạm phát và thất nghiệp
thấp, song vẫn còn không ít thanh niên không có việc làm, họ không đủ thu nhập đẻ
tạo dựng một gia đình cho chính mình. Nhiều người trong số họ vẫn phụ thuộc vào sự
trợ giúp của bố mẹ. Ngoài ra, sự phát triển của y tế và sự gia tăng dân số đã làm cho tỷ
lệ người già phát triển nhanh, họ phải dựa vào con cái về tài chính và cùng sống trong
một mái nhà. Với những quốc gia khác, tình trạng trên là bình thường, nhưng ở Mỹ thì
đó là trường hợp ngoại lệ trong suốt thế kỷ 20 này. Nói một cách tổng quát rằng, người
Mỹ ngày nay lớn lên từ một gia đình hạt nhân, cha mẹ cùng những người con, họ
không được chuẩn bị đầy đủ về tài chính và tình cảm để có thể mở mang cuộc sống gia
đình tốt hơn. Mặt khác, các hộ độc thân (phần lớn là phụ nữ) đang tăng nhanh. Sự ổn
định và các nguồn để tạo nên gia đình hạt nhân không phải lúc nào cũng thuận tiện,
đặc biệt với các gia đình chỉ có một bố hoặc một mẹ.
CHƯƠNG III
ĐÔI ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI TIẾP CẬN VỚI CÁC
DOANH NHÂN MỸ
Quan hệ Mỹ và các đối tác nước ngoài đã và đang ngày càng được cải thiện. Bởi
vậy, việc tìm hiểu cách ứng xử của người Mỹ, đặc biệt là các doanh nhân Mỹ là điều
bổ ích và cần thết cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường Mỹ.
I. TẬP QUÁN, THỊ HIẾU TIÊU DÙNG, PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH KINH
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MỸ
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP năm 1999 hơn 9.200 tỷ USD. Tăng
trưỏng liên tục với tốc độ cao trong suốt 9 năm qua đã khiến cho nhu cầu và tiêu dùng
cá nhân tại Mỹ không ngừng tăng lên, điều đó có nghĩa là nhu cầu mua sắm hàng hoá,
đặc biệt là hàng hoá cá nhân như quần áo, giầy dép vẫn sẽ ở mức cao. Nhập khẩu của
Mỹ là hơn 1.227 tỷ USD (năm 1999) trong đó mức nhập siêu lên tới 267 tỷ USD. Hầu

như hàng hoá mọi quốc gia đều có mặt trên thị trường siêu khổng lồ này. Một ví dụ
điển hình là Trung Quốc, sau hơn 20 năm tích cực và liên tục thâm nhập thị trường
Mỹ, năm 1999, Trung Quốc đã đạt mức xuất siêu với Mỹ lên đến hơn 50 tỷ USD, đem
lại nguồn ngoại tệ to lớn cho đất nước này, thúc đẩy nhiều ngành sản xuất và dịch vụ
phát triển mạnh tạo ra rất nhiều công ăn việc làm.
Một điểm khác đặc trưng của nền kinh tế này khác so với các nước khác là dai
phân loại thị trườngrộng, vì thế nó có thể thu hút và tiêu thụ vô số chủng loại hàng hoá
khác nhau với số lượng rất lớn thuộc đủ mọi chất lượng từ trung bình đến cao. Hơn
nữa, với mục tiêu “sản xuất những gì ngưòi khác không sản xuất nổi”, Mỹ chủ trương
tập trung vào các ngành dịch vụ và công nghệ cao trong khi khuyến khích nhập khẩu
hàng hoá về cần nhiều lao động như quần áo, giày dép, đồ gia dụng từ các nước khác
khiến cho sức mua của nền kinh tế ngày càng lớn và mức sống của người dân ngày
càng cao.
Một đặc điểm khác nữa của nền kinh tế Mỹ, luôn thu hút mọ nhà xuất khẩu trên
khắp thế giới là họ có thể bán hàng với quy mô lớn. Một khi đã qua được giai đoạn
giới thiệu sản phẩm và thâm nhập được vào hệ thống phân phối, các nhà xuất khẩu
ngoại quốc sẽ nhận được những đơn đặt hàng rất lớn, ổn định và lâu dài, đem lại
những nguồn doanh thu ổn định và ngày càng tăng, giúp nhà sản xuất tăng cường đầu
tư tái sản xuất mở rộng, liên tục phát triển. Chính sách thương mại của Mỹ nói chung
là sự tự do và mở rộng. Trừ một số ít mặt hàng có hạn ngạch và một số mặt hàng phải
đạt được những yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, còn lại
đều tự do về nguồn hàng lẫn thương nhân, mọi công ty của Mỹ đều có quyền xuất
nhập khẩu trực tiếp.
Chính vì những yếu tố hết sức cuốn hút như trên mà các nhà sản xuất và xuất
khẩu Việt Nam luôn quan tâm đến thị trường Mỹ và việc đưa hàng hoá vào thị trường
này là mơ ước của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Hàng hoá nước ngoài vào thị
trường Mỹ phải chịu các mức thuế khác nhau và phải chịu sự điều chỉnh của các luật lệ
và quy định của nước này. Biểu thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu của Mỹ mà các
doanh nghiệp Việt Nam cần biết về cơ bản gồm 2 mức thuế: có MFN và không có
MFN. Hàng hoá phải chịu mức thuế không MFN thường cao hơn từ 3 đến 10 lần so

với hàng hoá được hưởng mức thuế có MFN. Mới đây Mỹ đã đổi tên gọi thuế MFN
(Tối huệ quốc) thành NTR (Quan hệ thương mại bình thường). Kể từ khi thiết lập quan
hệ ngoại giao giữa hai nước năm 1995, mặc dù phải chịu mức thuế không MFN,
nhưng hàng hoá của ta xuất khẩu vào Mỹ vẫn tăng đều, chủ yếu ở những mặt hàng mà
mức chênh lệch giữa thuế có MFN và không MFN không lớn lắm như cà phê, tôm
đông lạnh, chè, gia vị chưa chế biến, một số loại giày dép Năm 1999, kim ngạch xuất
khẩu của ta vào Mỹ theo số liệu của Bộ thương mại Mỹ đạt 601,9 triệu USD, tăng
16% so với dùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu chính hầu hết là
nguyên liệu thô, còn giày dép thì chủ yếu là các công ty con của các công ty giày Mỹ
đặt ở các nước xung quanh chúng ta đầu tư vào Việt Nam để tận dụng lao động rẻ, làm
hàng gia công xuất khẩu sang Mỹ.
Sau khi hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ được ký kết và Quốc hội hai nước
phê chuẩn, hàng hoá Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế có MFN (tức là NTR). Điều
này đồng nghĩa với việc hàng hoá của ta vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng mức thuế
thấp như hàng hoá của đa số các nước khác (trung bình khoảng 3%). Việc này sẽ làm
tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Mỹ bởi hàng hoá của
ta vốn có giá thành sản xuất rẻ. Khi được hưởng Quy chế quan hệ thương mại bình
thường (NTR) thì những mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu mạnh sẽ là dệt
may, giày dép, thực phẩm chế biến, hàng nông hải sản, linh phụ kiện điện tử, đồ thủ
công mỹ nghệ, đồ gỗ, đồ gia dụng
Tuy nhiên, hàng hoá của ta vốn có nhược điểm là chất lượng chưa phải lúc nào
cũng cao và đồng đều mẫu mã, chưa phải lúc nào cũng đẹp và hợp thị hiếu khách
hàng. Hơn nữa, việc đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ thường phải qua các kênh phân
phối cũng như hệ thống bán lẻ vốn đã định hình sẵn. Mặt khác, các luật lệ, quy định và
thủ tục nhập khẩu vào Mỹ rất phức tạp và đồ sộ, việc nắm bắt thông hiểu và áp dụng
những quy định và thủ tục này không phải là đơn giản một sớm một chiều và thường
phải có sự giúp đỡ, tư vấn của các chuyên gia thương mại và luật sư.
1. ĐẠO ĐỨC VÀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP MỸ
1. Quan niệm về đạo đức trong kinh doanh
Trong xã hội hiện đại Mỹ, có nhiều quan điểm về kinh doanh. Phần lớn các nhà

kinh doanh đều tự coi mình là những người theo chủ nghĩa thực dụng, mà chủ nghĩa
thực dụng lại bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của Mỹ, trong đó bao gồm quan
điểm thực tế, chủ nghĩa cá nhân, tính vị kỷ, tính cần cù và sự thành đạt và rất coi
trọng hiệu quả kinh tế.
Nhưng ở Mỹ, không phải nhà kinh doanh nào cũng làm như vậy. Vẫn còn nhiều
người cho rằng, những tiêu chuẩn đạo đức thường ngày như sự công bằng và tính
trung thực rất cần có trong kinh doanh, bởi bản thân nó đã tạo ra sự ổn định cho việc tổ
chức kinh doanh đạt những kết quả tốt. Hay nói cách khác, kinh doanh có vị trí nhất
định giành cho đạo đức và đạo đức là công cụ giúp cho việc kinh doanh giữ được lợi
nhuận và khả năng cạnh tranh của công ty. Thực chất ở đây, nhà kinh doanh coi đạo
đức như một công cụ hay một điều kiện cần thiết để đạt được lợi nhuận mà thôi.
Nhưng số khác lại cho rằng, kinh doanh có nghĩa là làm kinh tế, là trách nhiệm xã hội
của các nhà kinh doanh và không cần yếu tố đạo đức.
2. Văn hoá doanh nghiệp Mỹ qua suy nghĩ của doanh nhân Mỹ
Văn hoá trong doanh nghiệp Mỹ có vẻ không ổn định và dễ nhầm lẫn. Một mặt,
các doanh nhân muốn xúc tiến kinh doanh ở mọi nơi, trong các bữa tiệc, trên máy bay,
ngoài phố, với những người xa lạ. Bởi vậy, họ dễ dàng kết hợp mối quan hệ giữa kinh
doanh với quan hệ xã hội. Họ có thể thu thập thông tin, lập kế hoạch buôn bán với
doanh nhân nước ngoài, đôi khi cả với nhà sản xuất một cách không chính thức. Mặt
khác, khi chuẩn bị đi đến quyết định, trên cơ sở tạo lập được quan hệ với bạn hàng, họ
lại muốn thực hiện ngay và công việc đó phải nhằm mục tiêu hiệu quả. Phong cách
doanh nhân Mỹ là đi thẳng vào vấn đề (phong cách trực tiếp). Tuy nhiên, các doanh
nhân Mỹ đánh giá caokiến thức kinh doanh. Họ luôn có mặt tại các cuộc hội thảo, các
khoá học do công ty tài trợ hoặc cá nhân tự túc để nâng cao nghiệp vụ và nâng cao
mức sống trực tiếp cho chính họ. Họ có thể cùng một lúc thực hiện nhiều phương án
khác nhau, cho dù phải đối mặt với hàng loạt các thất bại. Chính sự linh hoạt và kiên
định đó đã đưa nước Mỹ đứng đầu thế giới về các phát minh và sáng chế.
Bên cạnh đó, quan hệ giữa những vấn đề riêng tư và công việc kinh doanh không
thường biểu hiện rõ ràng trong giới kinh doanh Mỹ. Người Mỹ có thể bàn bạc công
việc với sự có mặt của các thành viên trong gia đình, thậm chí bạn bè, đôi khi họ cần

cả những lời khuyên hoặc nhận xét của những người không liên quan. Do mối quan hệ
không rõ ràng giữa cuộc sống cá nhân và công việc ở Mỹ, các thương nhân nước ngoài
khi được tham gia hoạt động xã hội ở Mỹ cần theo sự chỉ dẫn của các đồng nghiệp
Mỹ. Bởi vậy, để làm ăn thành công với một đối tác điển hình ở Mỹ, các doanh nhân
nước ngoài cần phát hiện những tính cách để dung hoà và tạo sự hấp dẫn cho cả hai
phía.
II. QUAN HỆ GIAO TIẾP VÀ ĐÀM PHÁN TRONG KINH DOANH
1. Vấn đề giao tiếp vầ đối thoại
Giới thiệu và chào hỏi nhau là những nghi thức thông thường và cần thiết trong
bất kỳ lĩnh vực nào. Người Mỹ không câu nệ bởi những nghi thức rườm rà, hình thức
như ở một số quốc gia khác, họ thường sắp đặt các cuộc gặp gỡ với bạn hàng bằng một
thông báo ngắn gọn, hoặc những cuộc hẹn càng sớm càng tốt. Các nhà kinh doanh Mỹ
rất tự hào về hệ thống kinh doanh của mình với nhiều ưu thế lớn trên thế giới, họ có
khả năng tiếp cận trực tiếp với khách hàng mà không cần có sự giới thiệu. Đó là một
trong những ý tưởng và cũng là những phẩm giá riêng của người Mỹ.
Trong mỗi lần gặp gỡ, họ chào nhau bằng nụ cười hay cái nhìn, cái bắt tay thân
thiện. Nếu bắt tay hời hợt thường để lại ấn tượng không tốt, hoặc thiếu tự tin, thiếu
chân thành Xiết chặt tay sẽ gây cảm giác khó chịu, nhưng nếu nắm tay chắc và
nhanh sẽ giữ được cảm giác dễ chịu. Thông thường, hành vi bắt tay ở Mỹ chỉ kéo dài
khoảng vài giây và cũng không có luật cấm bắt tay này hay tay kia như trong một số
nền văn hoá khác, thậm chí họ có thể bắt tay một cách ngẫu nhiên bằng cả hay tay
hoặc chỉ dùng tay trái (nếu tay kia bận hoặc không có khả năng).
Ngoài ra, những động tác trong chào hỏi cũng không có quy tắc, mà nó được thể
hiện ở nhiều mối quan hệ khác nhau. Chẳng hạn, những người đàn ông Mỹ đôi khi ôm
nhau rất nhanh và thường có động tác vỗ vào lưng. Họ không ôm hôn khi chào nhau,
nhất là những người cùng giới, bởi điều đó có thể hiểu lầm là hành vi của những người
đồng tính. Họ có thể chấp nhận hành vi ôm nhau giữa một người đàn ông với một
người đàn bà, hoặc giữa hai người đàn bà với nhau, chạm má hay hôn nhẹ vào má
nhau. Tuy nhiên, việc chào hỏi trực tiếp này được giành riêng cho những người ít nhất
là đã có sự quen biết nhau.

Sau những lời chào hỏi là hành vi tự giới thiệu về nghề nghiệp, trách nhiệm và vị
trí của mình hoặc các thành viên cũng như công việc họ đang làm. Người Mỹ thường
quan tâm dến thẩm quyền của đối tượng mà họ đang tiếp xúc, nếu người có chức danh
bình thường thì ít có ý nghĩa với họ. Họ luôn có thói quen đứng trong khi trò chuyện,
hoặc ngồi cách nhau khoảng một sải tay. Nếu có người ngẫu nhiên chạm vào tay, vào
vai họ trong khi nói chuyện, thì hành vi đó được xem là sự phiền toái, thậm chí xúc
phạm. Mặt khác, khi nói chuyện mà không có cử chỉ nhìn nhau thường xuyên, cũng
được hiểu một cách đơn giản là “người có con mắt gian giảo”, khiến cho cảm giác của
họ về người đó là không đáng tin cậy. Đây là một trong những khó khăn đối với các
nền văn hoá khác mà khi nhìn nhau trực tiếp lại bị coi là hành vi thô bạo, hoặc thiếu sự
tôn trọng. Còn ở Mỹ thì hành vi đó lại được giải thích là biểu hiện của sự thẳng thắn,
chân thành, luôn quan tâm đến nhau khi trò chuyện.
Người Mỹ thường có thói quen tranh thủ trao đổi trong các lần nghỉ giải lao sau
đàm phán, các buổi học tập, trong những bữa tiệc và các sự khiện thể thao (cả người
xem và người tham dự, thậm chí chơi golf còn được xem như một sự kiện kinh doanh
hơn thể thao). Vấn đề tôn giáo, chính trị, tình hình tài chính cá nhân và giới tính nói
chung được coi là chủ đề đối lập, không nên đưa ra bàn luận giữa các thương nhân
theo cách gọi là ngoại giao.
Nếu bạn làm ăn với một doanh nhân Mỹ, cử chỉ mời nhau đi ăn hay mời đến nhà
hoàn toàn được chấp nhận ngay cả khi bạn và họ mới chỉ biết nhau một tiếng đồng hồ.
Khi được mời ăn tối, thông thường, hoa sẽ được gửi đến sau bữa ăn để bày tỏ lòng
cảm ơn của bạn. Người Mỹ thường đến bữa tối với đủ loại quà lạ thường nhất: từ bánh
xà bông đến nước hoa và tất cả những gì có thể. Để bày tỏ tính lịch sự của mình, hãy
mở quà một cách phô trương và bày tỏ thích thú đối với món quà đó. Tại Mỹ, người ta
ăn trưa lúc 12.30 và ăn tối lúc 7.00 giờ. Nếu bạn được mời đến uống cà phê, hãy đến
vào lúc 10.30 hay 11.00 giờ, đó là giờ uống cà phê của người Mỹ.
Người Mỹ rất chính xác về giờ giấc. Kênh truyền hình CNN nổi tiếng của Mỹ, để
quảng cáo cho mình, cũng ghi: We know, in business, time is money (có nghĩa là:
Chúng tôi biết thời gian là tiền trong lĩnh vực kinh doanh). Do đó, bạn phải hết sức
đúng giờ. Thà đến sớm một tiếng còn hơn là đến chậm chỉ 3 phút - chậm trễ là chậm

trễ.
2. Danh thiếp và sự tôn trọng cấp bậc trong kinh doanh
Ở Mỹ, danh thiếp thường được đưa ra và trao đổi rộng rãi. Nếu có hành vi bỏ túi
ngay sau khi nhận từ phía đối tác thì được coi là thiếu tôn trọng hay xúc phạm. Nếu sử
dung thời gian trong lúc làm việc để xem danh thiếp cũng được xem là hành vi thô
thiển, cần quan tâm đến công việc và những người đang làm việc với mình, ngoại trừ
việc kiểm tra nhanh một số thông tin qua danh thiếp như tên, chức danh của đối tác mà
thôi.
Danh thiếp thường được giữ để liên hệ khi cần thiết, được thiết kế đẹp, rõ ràng, ít
thông tin, nhưng phải đầy đủ tên, nơi làm việc của bạn bằng tiếng Anh. Ngoài ra, đơn
vị bạn cần có một vài trang giấy hấp dẫn để giới thiệu hoạt động của đơn vị mình bằng
tiếng Anh. Tiếng Anh ở Mỹ được coi là ngôn ngữ của kinh doanh.
Về sự tôn trọng cấp bậc trong kinh doanh ở Mỹ thường có nhiều mức dộ khác
nhau được thể hiện ở tuổi tác, kinh nghiệm, vị trí xã hội hay nghề nghiệp, hoặc phụ
thuộc vào tính cách của từng người với nền văn hoá của họ. Một số người vẫn có hành
vi đứng dậy khi người lớn tuổi hơn vào hay ra khỏi phòng, hoặc có một số người đàn
ông làm như thế đối với phụ nữ. Nhưng nếu không có hành vi đó thì không nhất thiết
bị coi là thiếu tôn trọng; điều này phản ánh tính không nghi thức nói chung và là đặc
điểm của nền văn hoá ở Mỹ.
Trong môi trường kinh doanh, người Mỹ đều có thể tự giới thiệu mình với cái tên
đầu. Chức vụ thường không được quan tâm như các nền văn hoá khác. Nhưng họ rất
nhạy cảm về một người ở vị trị nào có thể có hoặc không làm việc được với họ. Người
Mỹ thường không khắt khe, luôn tỏ ra khiêm tốn, thân thiện và nhiệt tình chào hỏi, nói
chuyện một cách thoải mái. Điều này có thể không thích hợp với vị khách nước ngoài
có cấp bậc cao đã quen với những nghi lễ ở nước mình.
Các cuộc hẹn họp kinh doanh ở Mỹ thường bắt đầu đúng giờ. Có thể chấp nhận
sự chậm trễ của các chuyến bay hoặc ách tắc giao thông Để bạn phải chờ đợi không
phải là tính cách của người Mỹ. Nhưng sẽ không gặp may khi họ phải chờ đợi bạn mà
không có lời xin lỗi. Nói chung, bạn không được phép đến muộn trên 10 đến 15 phút
cho những cuộc hẹn.

Không giống với văn hoá các nước mang nặng thủ tục, nghi thức và tuân thủ các
hệ thống cấp bậc, quyền lực, địa vị cá nhân. Ở Mỹ người ta quan tâm chủ yếu đến
người có trình độ chuyên môn và khả năng ra quyết định. Họ có thể cử một kỹ thuật
viên cấp thấp đến dự cuộc họp với nhiều lãnh đạo cao cấp nước ngoài. Hành vi đó
không phải là coi nhẹ đối tác mà bởi nhân viên kỹ thuật đó có chuyên môn tốt. Ngược
lại, họ rất lúng túng khi thành viên cấp cao của họ gặp phải đối tác cấp thấp mà thiếu
hẳn thẩm quyền cam kết hoặc ra quyết định.
Nói chung, người Mỹ thích sự chân thành, cởi mở trong các cuộc giao dịch, họ
luôn hy vọng sẽ tạo cho bạn hàng của mình không khí dễ chịu, thoải mái và hợp tác,
loại bỏ những thủ tục rườm rà để đi đến mục tiêu cuối cùng là hiệu quả cho cả hai
phía.
3. Thoả thuận, mặc cả, đàm phán
Người Mỹ đã quen với việc trả theo giá đã được định sẵn và không mặc cả. Do
vậy, họ có ít kinh nghiệm ứng xử trong mặc cả. Nhưng cũng đừng hy vọng người Mỹ
tham gia mua bán sẽ chấp nhận những gì mà bạn đưa ra. Điều quan trọng là dù tỏ ra

×