Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

thực trạng hoạt động ttqt tại ngân hàng vietcombank trong giai đoạn 2008- 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.6 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại ngày nay, chất lượng cuộc sống của con người đang
ngày một nâng cao. Cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ xoay quanh
phát triển công nghiệp, nông nghiệp mà đang từng bước phát triển thêm các ngành
dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tài chính và liên quan đến đầu tư. Khi mỗi nước
đang dần hội nhập hơn vào kinh tế toàn cầu, ngoại thương phát triển với tốc độ
nhanh chóng thì yêu cầu về các dịch vụ thanh toán quốc tế (TTQT) lại càng đa
dạng hơn. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ trong xu hướng phát triển chung
của cả thế giới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007, hoạt động
1
TTQT đã được chú trọng phát triển hơn tại các ngân hàng thương mại. Kinh tế
phát triển, đặc biệt là ngoại thương, đã khiến hoạt động TTQT trở thành dịch vụ
chủ đạo tại mỗi ngân hàng, dịch vụ TTQT có phát triển mới khiến cho các hoạt
động kinh tế được thuận tiện và dễ dàng hơn.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) trong những năm qua luôn giữ vị trí là “
Ngân hàng tốt nhất Việt Nam”. Hoạt động TTQT tại Vietcombank đã mang đến
cho ngân hàng những khoản lợi nhuận khổng lồ mỗi năm, đồng thời cũng góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, trong đó là sự phát triển buôn bán
với các nước bên ngoài. Bài tiểu luận với đề tài :
“ Thực trạng hoạt động TTQT tại ngân hàng Vietcombank trong giai đoạn
2008- 2010”
của chúng em sau đây hy vọng mang tới những đánh giá tổng quát nhất về sự phát
triển dịch vụ TTQT tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam, mà tiêu biểu là
ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về TTQT
Chương 2 : Thực trạng hoạt động TTQT tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam – Vietcombank
Chương 3 : Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động TTQT tại ngân


hàng.
2
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TTQT
I/ Những vấn đề cơ bản về TTQT của NHTM
1 .Khái niệm thanh toán quốc tế
Trong xu thế hội nhập hiện nay, bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát
triển đều phải tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới. Quan hệ quốc tế giữa
các nước bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, du lịch trong đó quan hệ kinh tế (mà chủ yếu là ngoại thương)
3
chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển.
Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến những nhu cầu chi trả, thanh
toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt
động TTQT, trong đó ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên.
Vậy, TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ
phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân
nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc
tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Như vậy, TTQT phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và phi kinh tế.
Tuy nhiên, trong thực tế, giữa hai lĩnh vực hoạt động này thường giao thoa với
nhau, không có một ranh giới rõ rệt. Hơn nữa, do hoạt động TTQT được hình
thành trên cơ sở hoạt động ngoại thương và phục vụ chủ yếu cho hoạt động ngoại
thương, chính vì vậy, trong các qui chế về thanh toán và thực tế tại các NHTM,
người ta thường phân hoạt động TTQT thành hai lĩnh vực rõ ràng là: Thanh toán
trong ngoại thương (thanh toán mậu dịch) và Thanh toán phi ngoại thương (thanh
toán phi mậu dịch).
Về cơ bản, TTQT phát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế, là khâu
cuối cùng của quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức và cá
nhân thuộc các quốc gia khác nhau.
Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng có

thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau, mà phải thông qua NHTM với mạng
lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Thay mặt khách
hàng thực hiện dịch vụ TTQT, các ngân hàng trở thành cầu nối trung gian thanh
toán giữa bên mua và bên bán. Ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế luôn cần
đến sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ và tài chính của ngân hàng. Ngân
hàng cung cấp các phương án lựa chọn phương thức TTQT, tài trợ xuất nhập khẩu,
4
đảm bảo an toàn và quyền lợi của cả hai bên mua bán, thông qua đó thúc đẩy
ngoại thương phát triển và mở rộng các quan hệ với các quốc gia trên thế giới.
2. Đặc điểm của Thanh toán quốc tế
* Thanh toán liên quan tới đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và
thời gian thanh toán
Khi tiến hành hoạt động TTQT, cần phải xác định năm vấn đề quan trọng, đó
là: Đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và thời gian thanh toán. Lựa
chọn đồng tiền nào là một vấn đề quan trọng, vì không phải bất kỳ đồng tiền của
nước nào cũng có khả năng thực hiện TTQT, mà đồng tiền đó phải “mạnh”, được
các nước thừa nhận thực hiện trong hoạt động TTQT, tiếp đến lựa chọn đồng tiền
nào để phù hợp với nội dung cụ thể của hoạt động TTQT, nhằm mang lại hiệu quả
(thanh toán nhanh, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, đáp ứng được lợi ích của các
bên ). Do vây, khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng, hay các dịch vụ,
các bên đàm phán thường thống nhất về loại ngoại tệ được dùng trong giao dịch là
đồng tiền của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hay nước thứ ba.
* Thanh toán quốc tế phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại
TTQT phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại; trong đó phần lớn
phục vụ cho các giao dịch trong lĩnh vực ngoại thương. Thanh toán là khâu quan
trọng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, cụ thể khi hoạt động
thanh toán diễn ra đồng nghĩa với việc đảm bảo chắc chắn kết thúc một phần hoặc
toàn bộ giá trị của một quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Nếu công tác TTQT
được tổ chức tốt thì giá trị của hàng hoá trao đổi và dịch vụ thực hiện giữa các chủ
thể ở các quốc gia khác nhau mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương

phát triển. TTQT trở thành một nhân tố quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh tế đối ngoại trong điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng.
* Gặp nhiều rủi ro do có sự biến động về tiền tệ
5
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gặp nhiều rủi ro do sự biến động
của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do sự khác biệt về luật pháp, cơ
chế chính sách, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách nhau làm hạn chế việc
tìm hiểu khả năng thanh toán của con nợ Do vậy các nghiệp vụ đảm bảo, bảo
lãnh của ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc tế ra
đời như là một yếu tố không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động TTQT. Có thể
khẳng định, TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động thương mại
liên hoàn của một nền kinh tế mở và gắn kết chặt chẽ với các giao dịch thương
mại quốc tế. TTQT là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua
chi trả lẫn nhau trong nghiệp vụ TTQT, thông qua đó, toàn bộ hoặc một phần giá
trị của hàng hoá và dịch vụ trao đổi được thực hiện. TTQT đã góp phần chủ yếu để
tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình giao thương
hàng hoá quốc tế.
3. Vai trò của hoạt động TTQT với các ngân hàng thương mại (NHTM)
Ngày nay, hoạt động TTQT chiếm vị trí quan trọng, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của ngân hàng, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của NHTM.
- TTQT là hoạt động trực tiếp tạo ra một khoản lợi nhuận không nhỏ đóng
góp vào lợi nhuận chung của ngân hàng. Thông qua cung cấp dịch vụ TTQT cho
khách hàng, các NHTM thu được phí dịch vụ chuyển tiền, phí thanh toán L/C, phí
bảo lãnh…. Thực tế cho thấy, đối với các NHTM hiện đại, thu nhập từ phí dịch vụ
có xu hướng ngày một tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng thu nhập của
ngân hàng. Đây cũng chính là mục tiêu mà các NHTM luôn vươn tới.
- TTQT không chỉ là một nghiệp vụ ngân hàng thuần tuý mà còn đóng vai trò là
khâu trung tâm không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh doanh, bổ sung
và hỗ trợ các mặt hoạt động nghiệp vụ khác của ngân hàng nên nó gián tiếp tạo ra

lợi nhuận từ các mặt hoạt động này.Với vai trò là trung gian thanh toán, TTQT
góp phần phát triển và đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tài trợ xuất nhập khẩu
6
(XNK), kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác, đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước, từ đó tăng qui mô hoạt động và mở
rộng thị phần của ngân hàng.
- TTQT tạo môi trường ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại trên thế
giới trong hoạt động ngân hàng. Thông qua việc tham gia nối mạng thông tin và
ứng dụng công nghệ cao trong xử lý thông tin giúp cho ngân hàng có thể theo kịp
với sự phát triển của thế giới, không bị lạc hậu và thua kém các ngân hàng nước
ngoài.
- Phát triển TTQT tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ với các
ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín trên trường quốc tế cũng như uy tín đối với
khách hàng trong và ngoài nước, từ đó khai thác được các nguồn vốn tài trợ của
các tổ chức tài chính quốc tế cũng như các ngân hàng nước ngoài, đáp ứng nhu
cầu về vốn trong kinh doanh.
4. Các phương tiện TTQT
4.1 - Hối phiếu:
· Khái niệm: theo Pháp lệnh thương phiếu 1999 của Việt Nam thì “Hối phiếu là
chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Việc lưu thông hối phiếu được tiến hành dưới các hình thức sau :
- Chấp nhận hối phiếu: hối phiếu sau khi ký phát phải được xuất trình cho người
trả tiền để người này ký chấp nhận trả tiền, đối với những hối phiếu có kỳ hạn.
Thông thường hối phiếu được gửi tới người trả tiền để người này ký chấp nhận bất
cứ lúc nào trước ngày hết hạn xuất trình hối phiếu. Sự chấp nhận được ghi vào mặt
trước của tờ hối phiếu và được thực hiện bằng chữ “chấp nhận”, “xác nhận”,
“đồng ý”, “đồng ý trả tiền” viết kế bên chữ ký của người trả tiền. Ngày tháng ký
chấp nhận là một yêu cầu bắt buộc của công thức ký chấp nhận. Đối với hối phiếu

7
có kỳ hạn kể từ ngày ký phát hối phiếu thì không cần thiết phải ghi chú ngày
tháng.
-Ký hậu hối phiếu
Ký hậu là một thủ tục pháp lý dùng để chuyển nhượng hối phiếu. Người hưởng
lợi muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải ký vào mặt sau của tờ
hối phiếu rồi chuyển hối phiếu cho người đó. Người ký hâu không cần phải nêu lý
do của sự chuyển nhượng và cũng không cần phải thông báo cho người trả tiền
biết về sự chuyển nhựợng đó. Người ký hậu không những đảm bảo rằng người trả
tiền hối phiếu có mắc nợ số tiền ghi trên hối phiếu mà còn đảm bảo rằng mình sẽ
trả tiền hối phiếu đó cho những người được chuyển nhượng, nếu như người trả
tiền từ chối thanh toán hối phiếu đó.
Các loại ký hậu : Ký hậu để trắng; ký hậu theo lệnh; ký hậu hạn chế và ký hậu
miễn truy đòi
- Bảo lãnh hối phiếu :
Bảo lãnh là sự cam kết của người thư ba trả tiền cho người hưởng lợi khi hối
phiếu đến kỳ hạn trả tiền. Hình thức văn tự thông thường của sự bảo lãnh được ghi
bằng chữ “bảo lãnh” và người bảo lãnh ký tên. Ngoài ra, một số nước còn dùng
hình thức bảo lãnh bằng một văn thư riêng biệt thường gọi là bảo lãnh mật để đảm
bảo uy tín của người trả tiền.
- Từ chối trả tiền – kháng nghị :
Khi đến hạn trả tiền mà người trả tiền từ chối thì người hưởng lợi phải chứng
thực sự từ chối đó bằng một văn bản kháng nghị lập ra trong thời hạn quy định
theo luật và phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền hoặc có thể
đòi tiền bất cứ người nào trong giây chuyền đã ký hậu chuyển nhượng hối phiếu
hoặc đòi người ký phát hối phiếu.
4.2 Séc
8
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân
hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo

lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt
hay bằng chuyển khoản.
Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi trên
tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi ngân hàng nhận được séc phải chấp hành lệnh
này vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc
không đủ tính chất pháp lý. Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải vừa ghi bằng số
và vừa ghi bằng chứ khớp đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi địa
điểm và ngày tháng lập séc, tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài
khoản được trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ của người hưởng số tiền trên
séc, chữ ký của người phát hành séc. Nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của chủ tài
khoản, kế toán trưởng và dấu của tổ chức đó.
Đặc điểm của séc là có tính chất thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc
thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn
hiệu lực của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn dó tuỳ thuộc vào phạm vi
không gian mà séc lưu hành và luật pháp các nước quy định.
4.3. Kỳ phiếu :
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để hứa cam kết trả tiền cho
người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như trên, trong thanh toán
quốc tế, kỳ phiếu ít thông dụng hơn hối phiếu.
Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập kỳ phiếu
phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của
người này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu đó.
Một số đặ thù của kỳ phiếu :
+ Kỳ hạn kỳ phiếu được quy định trên nó
+ Một kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán cho
9
một hay nhiều người hưởng lợi
+ Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính. Sự bảo lãnh
này đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu
+ Khác với hối phiếu thường gồm hai bản, kỳ phiếu chỉ có một bản chính do con

nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi kỳ phiếu đó.
4.4.Thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp
cho khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành quyền cho khác hàng có thể dùng
nó nhiều lần để rút tiền mặt cho chính mình hoặc ra lệnh rút một số hoặc tất cả số
tiền hiện có trên mặt tài khoản mở ở tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng
hóa ,dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận thẻ (người cung ứng dịch vụ, hàng hóa )
Tổ chức phát hành thẻ thường bao gồm nhiều đơn vị như là các trung gian tài
chính , các trung tâm thanh toán bù trừ, các tập đoàn thương mại du lịch……Tuy
nhiên ngân hàng là tổ chức phát hành thẻ chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân , cho
nên, người ta thường gọi loại thẻ này là thẻ Ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng thay thế cho tiền mặt chấp hành chức
năng phương tiện lưu thông , tạo cho khách hàng sự tiện lợi mà ít có công cụ thanh
toán nào có thể sánh được. Đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, thẻ ngân
hàng có thể dùng để thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không cần đem theo tiền mặt
hay séc du lịch, không phụ thuộc vào quy mô số tiền họ cần thanh toán. Hơn nữa,
thẻ ngân hàng còn mang tính an toàn và nhanh chóng nhờ vào hệ thống các máy
rút tiền tự động.Nhờ vào hai tính ưu việt trên cho nên thẻ ngân hàng phát triển rất
đa dạng, nhiều chủng loại khác nhau thích hợp với mọi loại đối tượng trong xã hội
Có nhiều loại thẻ ngân hàng tùy thuộc vào tính chất thanh toán của thẻ, như thẻ
tín dụng, thẻ ghi nợ , thẻ rút tiền mặt, thẻ thanh toán…….
5. Các phương thức TTQT
10
Trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như
chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ Mỗi phương thức thanh toán đều
có ưu điểm và nhược điểm, phù hợp với những quan hệ XNK khác nhau. Vì vậy
việc lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được hai bên bàn bạc thống
nhất, ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Đến nay, các phương thức thanh toán cơ bản và phổ biền thường được các NHTM
sử dụng là:

5.1. Phương thức chuyển tiền:
Khi có một khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ( người thụ hưởng) ở một địa
điểm nhất định thì gọi là chuyển tiền của ngân hàng.
Để thực hiện việc chuyển tiền thì ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý
của mình ở nước người thụ hưởng.
Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách:
- Chuyển tiền bằng điện
- Chuyển tiền bằng thư
Tiền chuyển đi có thể là tiền của nước người thụ hưởng hoặc là tiền của nước
người trả hoặc là tiền của nước thứ ba. Nếu là tiền của nước người thụ hưởng và
tiền của nước thứ ba thì gọi là thanh toán bằng ngoại tệ. Trong trường hợp thanh
toán bằng ngoại tệ thì người chuyển tiền phải mua ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái của
nước đó.
Phương thức chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế.
Nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, cũng như các dịch vụ có
liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như cước vận tải, bảo hiểm, bồi thường…
5.2. Phương thức nhờ thu:
11
Người xuất khẩu sau khi hoàn thành nhiệm vụ xuất chuyển hàng hoá cho người
nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập
khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Các thành phần chủ yếu tham gia phương thức thanh toán này như sau:
- Người xuất khẩu
- Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (đó là ngân hàng quốc
gia của người nhập khẩu)
- Người nhập khẩu
Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau:
- Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các

chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng),
đồng thời uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do
mình lập ra.
Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế
vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
- Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho
ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu
mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người
nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ
chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng.
Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là người
khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của người
xuất khẩu được đảm bảo hơn.
5.3. Phương thức tín dụng chứng từ:
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng
theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ 3 hoặc
chấp nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người
12
thứ 3 này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra
trong thư tín dụng.
Như vậy, để tiến hành thanh toán bằng phương thức này, bắt buộc phải hình
thành một thư tín dụng. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức
thanh toán này, vì nếu không có thư tín dụng thì xuất khẩu sẽ không giao hàng và
như vậy phương thức tín dụng chứng từ cũng sẽ không hình thành được.
Tín dụng thư là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở tín dụng thư cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu, nếu như họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thanh toán
phù hợp với nội dung của thư tín dụng đã mở. Thư tín dụng được hình thành trên
cơ sở hợp đồng thương mại, tức là phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu của hợp
đồng để người nhập khẩu làm thủ tục yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng. Nhưng
sau khi đã được mở, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập với hoạt động thương mại

đó. Điều đó có nghĩa là khi thanh toán, ngân hàng chỉ căn cứ vào nội dung thư tín
dụng mà thôi.
Các loại thư tín dụng chủ yếu là:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang: Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở
thì việc bổ sung sửa chữa hoặc huỷ bỏ có thể tiến hành một cách đơn phương.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang: Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở thì
việc sữa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ chỉ được ngân hàng tiến hành theo thoã thuận
của tất cả các bên có liên quan. Trong thương mại quốc tế thư tín dụng này được
sử dụng phổ biến nhất.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể huỷ
bỏ, được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư
tín dụng.
- Thư tín dụng chuyển nhượng: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó
quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả hoàn toàn hay trả một phần của
thư tín cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
5.4. Phương thức COD & CAD
13
CAD (Cash against documents ) hay COD ( Cash on delivery) là phương thức
thanh toán trong đó tổ chức nhập khẩu dựa trên cơ sở hợp đồng ngọai thương sẽ
yêu cầu ngân hàng bên xuất khẩu mở một tài khoản tín thác (Trust account) để
thanh toán tiền cho tổ chức xuất khẩu xuất trình đầy đủ chứng từ theo thỏa thuận.
* Ngân hàng kiểm tra chứng từ , đối chiếu với bản ghi nhớ ,nếu phù hợp thì thanh
toán cho nhà xuất khẩu.
* Ngân hàng chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và quyết toán tài khoản tín
thác.
II/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT
- Chỉ tiêu doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền đã cho khách hàng vay
trong kỳ, tính cho ngày, tháng, năm, quý. Doanh số cho vay phản ánh kết quả về
việc phát triển, mở rộng hoạt động cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng của
ngân hàng.

- Chỉ tiêu dư nợ cho vay: Phản ánh tổng dư nợ cho vay của ngân hàng tại một
thời điểm nhất định, thường là cuối kỳ kinh doanh. Tổng dư nợ cho vay bao gồm
tổng dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn.
- Tỷ lệ thu nợ (%) = (doanh số thu nợ/doanh số cho vay)*100
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của Ngân hàng. Nó
phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì Ngân hàng
sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
- Vòng quay vốn tín dụng (vòng) = doanh số thu nợ/dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng,thời gian
thu hồi nợ của Ngân hàng là nhanh hay chậm. Vòng quay vốn càng nhanh thì được
coi là tốt và việc đầu tư càng được an toàn
- Tỷ lệ nợ quá hạn=Dư nợ quá hạnx 100/ Tổng dư nợ cho vay
14
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá
hạn bao gồm: Nợ cần chú ý, Nợ dưới tiêu chuẩn, Nợ nghi ngờ, Nợ có khả năng
mất vốn. Chỉ tiêu này cho biết việc khách hàng không thực hiện được việc trả
nợ đúng hạn theo cam kết. Tỷ lệ này cao phản ánh tình hình tín dụng của phòng
giao dịch có chất lượng thấp.
- Tỷ lệ nợ xấu: Tỷ lệ nợ xấu=Dư nợ xấu/Tổng dư nợ cho vay*100
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ khôngthể đòi,
…)
Các khoản nợ xấu bao gồm:- Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ - Nợ có khả
năng mất vốn. Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá
hạn của các NHTM không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân
hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –
VIETCOMBANK

I. Giới thiệu ngân hàng Vietcombank
15
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) chính thức đi vào hoạt động ngày 01/4/1963, với
tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn thực hiện
thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức hoạt động
với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày 02/6/2008 sau khi thực hiện thành
công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng. Ngày 30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán VCB) chính
thức được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.
Từ một ngân hàng chuyên doanh phục vụ kinh tế đối ngoại, Vietcombank ngày
nay đã trở thành một ngân hàng đa năng hoạt động đa lĩnh vực, cung cấp cho
khách hàng đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc
tế; trong các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín dụng,
tài trợ dự án…cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và
các công vụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…
Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, Vietcombank hiện có khoảng
11.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/Phòng Giao dịch/Văn phòng đại
diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài nước, gồm Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở
Giao dịch, 74 chi nhánh và gần 300 phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con
tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 4
công ty liên doanh, 2 công ty liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển
một hệ thống Autobank với khoảng 16.300 máy ATM và điểm chấp nhận thanh
toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng
lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
II. Thực trạng hoạt động TTQT tại ngân hàngVietcombank qua các năm
Năm 2010, Vietcombank đã cải tiến quy trình xử lý nghiệp vụ tài trợ thương
mại theo hướng: tập trung xử lí giao dịch tài trợ thương mại cho một số chi nhánh
16

nhỏ và vừa tại Hội sở chính thay vì xử lý phân tán như trước đây, vì vậy hiệu quả
hoạt động tài trợ thương mại được nâng lên, góp phần làm tăng doanh số thanh
toán xuất nhập khẩu qua Vietcombank. Sau đây là đánh giá hoạt động của Ngân
hàng Vietcombank trong giai đoạn 2008-2010.
1. Khái quát tình hình kinh doanh của Vietcombank qua các năm
1.1. Huy động vốn
Trong năm 2008, để đối phó với tình hình lạm phát tăng cao, việc thực hiện
các chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
của ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tạo ra một cuộc đua về lãi suất huy động
giữa các ngân hàng, đẩy mặt bằng lãi suất chung lên cao làm cho hoạt động huy
động vốn của VCB gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tổng huy động vốn của VCB
trong năm 2008 vẫn tăng trưởng 10,24%.
Diễn biến phức tạp của thị trường vốn và cạnh tranh quyết liệt giữa các
ngân hàng vẫn tiếp tục trong năm 2009. Lãnh đạo VCB đã quán triệt trong toàn hệ
thống coi công tác huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và xuyên suốt
trong năm. Kết quả, tổng huy động vốn năm 2009 vẫn tăng 17,5%, huy động từ
nền kinh tế đạt 169,457 tỷ đồng, tăng 5,9% so với năm 2008. Trong bối cảnh bị
cạnh tranh gay gắt, huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế bị giảm (-9%), song
huy động từ dân cư lại có mức tăng trưởng tốt và đều đặn (+34,5%) là nhờ vào các
chương trình huy động trải đều trong năm và sự cố gắng, nỗ lực của hầu hết các
chi nhánh trong hệ thống.
Năm 2010, tổng huy động từ nền kinh tế tại thời điểm 31/12/2010 đạt ~208
ngàn tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2009. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong
vòng 5 năm qua.
1.2. Hoạt động tín dụng
17
0
20
40
60

80
100
120
140
160
180
200
31
/
12 /2
0
0
6
31
/12
/2 007
31
/12
/2 008
31
/12
/2 009
3
1
/12
/2 010
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%

20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
40.00%
45.00%
50.00%
T?ng dư n?
T?c đ? tăng trư?ng
Bảng 1: Hoạt động tín dụng Ngân hàng Vietcombank giai đoạn 2006-2010.(Đơn
vị : nghìn tỷ đồng)
(Nguồn: Báo cáo của Ban điều hành Vietcombank)
Năm 2008, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về kiểm soát tín dụng,
trên cơ sở nhận định mức độ rủi ro của thị trường, Vietcombank đã thực hiện
nhiều biện pháp để kiểm soát mức độ tăng trưởng trong 3 quý đầu năm 2008.
Trong quá trình thực hiện, Vietcombank luôn có sự điều về chính sách tín dụng để
phù hợp với những diễn biến của thị trường, đảm bảo cân bằng tính an toàn và
hiệu quả trong hoạt động tín dụng. Tổng dư nợ cho vay khách hàng tại thời điểm
31/12/2008 đạt 112.793 tỷ đồng, tăng 15,53% so với năm 2007 và đạt 100,46% so
với kế hoạch.
Năm 2009 là năm có nhiều biến động đối với hoạt động tín dụng của ngành
ngân hàng nói chung và ngân hàng Vietcombank nói riêng. Đầu năm 2009, cả hệ
thống Vietcombank tăng trưởng âm. Tuy nhiên, sau khi triển khai chương trình
cho vay hỗ trợ lãi suất theo chỉ đạo của chính phủ, từ tháng 2/2009 đến hết tháng
7/2009, trung bình dư nợ tăng trưởng 3,3%/tháng. Song từ tháng 8 trở đi, sau khi
NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 25%, Vietcombank đã khống chế
18
tăng trưởng tín dụng bằng việc giao chỉ tiêu dư nợ mục tiêu cho các chi nhánh. Kết
quả là, Vietcombank đã đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng 25,6% so với năm 2008,
dư nợ tín dụng là 141.621 tỷ đồng. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của Vietcombank

thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân
hàng (37,7%), nhưng đảm bảo được sự cân bằng giữa an toàn và hiệu quả trong
hoạt động tín dụng.
Năm 2010, tín dụng nới lỏng trong 9 tháng đầu năm và thắt chặt hơn trong 3
tháng cuối năm. Tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng đạt 29,81% trong khi
huy động vốn từ nền kinh tế đạt 27,2%. Vietcombank vẫn duy trì ổn định mức
tăng trưởng tín dụng ở mức 24,85% so với năm 2009, dư nợ tín dụng đạt 176.814
tỷ đồng.
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn.
(Nguồn: Báo cáo của Ban điều hành Vietcombank)
19
Bảng 3: Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế (31/12/2008)
(Nguồn: Báo cáo của Ban điều hành Vietcombank)
Cơ cấu cho vay của ngân hàng Vietcombank thế hiện sự hài hòa giữa các lĩnh
vực, phù hợp với chiến lược phát triển chung của nền kinh tế. Hai nhóm lĩnh vực
chính là sản xuất chế biến và thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín
dụng trong khi Vietcombank hầu như không cho vay đầu cơ bất động sản và đầu tư
chứng khoán.
1.3. Chất lượng tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro
Năm 2008, khủng hoảng kinh tế đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các doanh nghiệp, khiến nhiều
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện cam kết trả nợ với ngân hàng. Do
vậy, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng lên là điều khó tránh khỏi. tỷ lệ nơ xấu
của Vietcombank năm 2008 là 4,6%.
Trong năm 2009 và 2010, Vietcombank đã theo đuổi chính sách tăng
trưởng tín dụng bền vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng với các
biện pháp: cơ cấu lại danh mục đầu tư, củng cố quan hệ khách hàng, áp dụng kĩ
thuật hiện đại vào quản trị danh mục đầu tư, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín
20
dụng, quản trị rủi ro v.v Kết quả là chất lượng tín dụng của Vietcombank được

cải thiện đáng kể. Đến 31/12/2009 tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank là 2,47% - thấp
hơn nhiều so với mức 4,6% năm 2008.
Đến thời điểm 31/12/2010, Vietcombank đã trích đủ số dự phòng rủi ro bao
gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể theo quy định hiện hành của NHNN.
2. Hoạt động TTQT của Vietcombank trong giai đoạn 2008-2010
2.1. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
2006 2007 2008 2009 2010
Thanh toán
xuất khẩu
32% 29% 27% 22% 20%
Thanh toán
nhập khẩu
23% 20% 20% 19% 19%
Bảng 4: Thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của Vietcombank qua các năm.
(Nguồn: BVSC tổng hợp)
Trong năm 2008, Vietcombank đã phát huy tốt vai trò đầu mối thanh toán
xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ nên doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua
Vietcombank đạt 32.501 triệu USD, tăng 22,9% so với năm 2007, hoàn thành
108% kế hoạch năm 2008. Mặc dù hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế với hàng trăm ngân hàng, Vietcombank vẫn
giữ vị trí dẫn đầu với 27% thị phần thanh toán xuất khẩu và 20% thị phần thanh
toán nhập khẩu.
Năm 2009 chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế và suy thoái
toàn cầu, hoạt động xuất nhập của cả nước gặp khó khăn và sụt giảm. Trong bối
cảnh chung, hoạt động thanh toán của Vietcombank cũng không tránh khỏi sự sụt
giảm. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của Vietcombank đạt 25.620 triệu
USD, giảm 23,8% so với năm 2008. Mặc dù vậy, Vietcombank vẫn duy trì được
thị phần lớn trong hoạt động thanh toán XNK: chiếm 20,4% kim ngạch XNK của
cả nước trong năm 2009.
Doanh số thanh toán xuất khẩu, nhập khẩu của Vietcombank chiếm thị phần

lớn nhất tương ứng trong năm 2010 là 20% và 19%. Các ngân hàng lớn khác trong
21
mảng thanh toán chỉ chiếm khoảng 10% thị phần như BIDV, CTG, các ngân hàng
nhỏ dao động từ 3-5%. Dù chưa mất vị trí dẫn đầu tuy nhiên thị phần của
Vietcombank đang có xu hướng giảm do đối mặt với sự cạnh tanh gay gắt của các
ngân hàng khác, đặc biệt là sự dịch chuyển và phân tán hoạt động của một số
khách hàng lớn (khối dầu khí) sang các ngân hàng khác.
2.2. Hoạt động thẻ
Vietcombank là ngân hàng có số lượng thẻ phát hành và doanh thu thanh toán
không ngừng gia tăng qua các năm và luôn giữ vị trí dẫn đầu về các chỉ tiêu này
trên thị trường thẻ Việt Nam. Đến ngày 31/12/2009, số lượng thẻ quốc tế do
Vietcombank phát hành chiếm 34%, thẻ nội địa chiếm 19% và doanh số thanh
toán thẻ quốc tế của Vietcombank chiếm 53% thị phần thẻ toàn quốc.
Về thẻ nội địa, Vietcombank đứng sau ngân hàng ACB và Agribank. Đến
cuối năm 2009, mặc dù tụt xuống vị trí thứ 3 về phát hành thẻ nội địa tuy nhiên
đây không phải điều đáng lo ngại do Vietcombank đang tập trung phát triển hoạt
động thẻ theo chiều sâu, nâng cao doanh số giao dịch qua thẻ hơn là mở rộng số
lượng thẻ phát hành. Vietcombank đưa ra khá nhiều tiện ích cho khách hàng liên
quan tới thẻ: thanh toán thương mại điện tử cho cả thẻ quốc tế lẫn thẻ nội địa,
thanh toán trên ví điện tử và trả trước trên di động… Giá trị thanh toán qua thẻ của
Vietcombank vẫn dẫn đầu toàn ngành.
Về thẻ tín dụng quốc tế, tính đến 30/06/2010 ngân hàng phát hành được
164.000 thẻ tín dụng quốc tế, 380.000 thẻ ghi nợ quốc tế. Ngân hàng có 1.530 máy
ATM, chiếm 15% thị phần máy ATM toàn ngành.
VCB AGB CTG ACB
Thẻ tín dụng quốc tế
Số lượng 136.138 9.114 20.500 49.312
Thẻ ghi nợ nội địa
22
Số lượng 3.850.0

00
4.200.000 3.000.0
00
4.000.0
00
Thị phần (%) 18,9 20,7 14,7 19,8
DS giao dịch qua thẻ
Giá trị (tỷ đồng) 100.828 34.063 42.580 64.036
Thị phần (%) 30,7 12,5 13,0 19,5
Số lượng máy ATM
Số lượng 1.483 1.702 1.042 600
Thị phần (%) 15,3 17,5 10,7 6,2
Bảng 5: Số lượng thẻ của một số ngân hàng tính đến 31/12/2009.
(Nguồn: BVSC tổng hợp và ước tính)
2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Kinh doanh ngoại tệ là một thế mạnh nổi bật của Vietcombank. Ngân hàng
VCB luôn dẫn đầu ngành về doanh số mua bán ngoại tệ cũng như thu nhập thuần
từ hoạt động này (năm 2008 thu nhập thuần từ hoạt động này là 952 tỷ đồng, năm
2009 là 918 tỷ đồng, cao nhất toàn ngành). Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ của
Vietcombank phong phú nhất, với các sản phẩm phái sinh như hoán đổi lãi suất,
hoán đổi tiền tệ, quyền chọn ngoại tệ… Vietcombank là đối tác cung cấp các sản
phẩm ngoại tệ được chỉ định cho những khoản giải ngân của Ngân hàng hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC) cho các dự án ODA vào Việt Nam.
Thu từ kinh doanh ngoại tệ thường đóng góp khoảng 10% vào tổng thu
nhập ngân hàng. Trong năm 2010, hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhìn chung khó
khăn do chênh lệch đầu ra đầu vào không nhiều. Năm 2010, lãi từ hoạt động này
giảm 39% so với 2009 do lãi từ các hợp đồng giao ngay giảm 39,5%.
2.4. Ngân hàng bán lẻ
Vietcombank luôn đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh hoạt động cho vay cá thể, huy động vốn

từ dân cư, các dịch vụ điện tử được quan tâm và đẩy mạnh như Internet B@nking,
SMS B@nking, dịch vụ nhận tin nhắn chủ động, dịch vụ VCB-Securities-Online,
dịch vụ thanh toán VCB Direct Billing, dịch vụ TOPUP triển khai cho dịch vụ
điện thoại trả trước .v.v Kết quả là, năm 2008 huy động vốn từ dân cư đạt khoảng
23
55 nghìn tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay cá thể đạt trên 10 nghìn tỷ đồng, doanh số
chuyển tiền từ nước ngoài về cho cá nhân đạt gần 1,4 tỷ USD dẫn đầu cả nước.
Tính đến 31/12/2009, huy động vốn từ dân cư tăng 34,5% so với 31/12/2008; tổng
dư nợ cho vay tăng 36%; tổng doanh số chuyển tiền đến trực tiếp cho khách hàng
cá nhân trong năm 2009 là 1,016 tỷ USD; doanh số chuyển tiền cá nhân gián tiếp
qua các doanh nghiệp và ngân hàng làm dịch vụ đạt khoảng 300 triệu USD.
Nói chung, Vietcombank đã xây dựng các chính sách áp dụng cho khách
hàng cá nhân, điều chỉnh theo sát diễn biến của thị trường, từ khuyến mại, chăm
sóc khách hàng tới các chính sách giá, phí, lãi suất cũng như hàng loạt các sản
phẩm mới. Các chỉ tiêu bán lẻ đã được thực hiện khá tốt và tương đối toàn diện.
2.5. Hoạt động góp vốn
Hoạt động đầu tư góp vốn của Vietcombank chỉ chiếm khoảng 8% danh
mục và tỷ lệ trích lập dự phòng khá thấp (3%). Các khoản đầu tư chủ yếu tập trung
vào nhóm ngành ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, trong đó cá biệt có một số khoản
đầu tư với giá thấp vào một số ngân hàng lớn như Eximbank, ngân hàng Quân đội,
ngân hàng Gia Định. Trong tháng 9/2010, Vietcombank đã thanh lý bớt một số
khoản đầu tư nhằm đảm bảo hệ số đủ vốn CAR trên 9% và đảm bảo tỷ lệ góp vốn
đầu tư vào tổ chức tín dụng khác không quá 11% vốn điều lệ của tổ chức đó (theo
Thông tư 13/2010/TT-NHNN). Theo VCB: bán 5 triệu cổ phiếu EIB (giảm tỷ lệ sở
hữu từ 8,76% xuống còn 8,19%); bán gần 1 triệu cổ phiếu PVD, giảm tỷ lệ sở hữu
tại ngân hàng TMCP Gia Định từ 15,1% xuống 3,83%. Bán các khoản đầu tư này
mang lại cho Vietcombank 150 tỷ đồng lợi nhuận.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động TTQT của ngân hàng
Qua hoạt động thực tiễn của ngân hàng Vietcombank chúng ta có thể nhận thấy
có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của ngân hàng.Về cơ bản có

thể chia thành hai nhóm là nhóm các yếu tố bên ngoài ngân hàng và nhóm các yếu
tố bên trong ngân hàng.
24
1. Các yếu tố bên ngoài ngân hàng
1.1. Các chính sách vĩ mô của nhà nước
Đây là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp,các khách hàng của ngân hàng và ảnh hưởng đến chính
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các chính sách này gồm có : chính sách
quản lý ngoại hối, chính sách thuế và chính sách kinh tế đối ngoại. Ban giám đốc
của ngân hàng cần nắm rõ được sự thay đổi của từng chính sách này, phân tích rõ
lợi hại ảnh hưởng đến các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp mình, từ đó tận
dụng cơ hội phát triển một cách hợp lý.
1.2. Sự thay đổi chế độ kinh tế chính trị của nước bạn hàng
Hoạt động TTQT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các tác động của môi trường
kinh tế chính trị xã hội của các quốc gia.Mỗi sự biến động về các chế độ chính trị
của nước bạn hàng sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sang đáp ứng cam kết
thỏa thuận giữa các bên.Sự suy thoái kinh tế sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tự do hóa
thương mại ,hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến
hoạt đông TTQT.Những thay đổi về chính sách của một quốc gia như thay đổi quy
định lưu trữ ngoại hối,thuế,phí XNK…hoặc đơn giản là môi trường pháp lí,nền
kinh tế của một quốc gia chưa ổn định và thường xuyên thay đổi khiến cho các
bên đối tác không dự đoán trước được tình hình làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán.Vì vậy gây thiệt hại cho các bên tham gia,trong đó có ngân hàng.
1.3. Các yếu tố về phía khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường thì khách hàng là yếu tố quyết định đến sự sống
còn của ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Nếu ngân hàng có thể
thu hút được một lượng lớn khách hàng thường xuyên có hoạt động kinh doanh
XNK thì sẽ tạo điều kiện rất tốt để TTQT phát triển. Ngoài ra tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh,khả năng tài chính ,trình độ nghiệp vụ ngoại thương ,hành vi
25

×