Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

nâng cao năng lực, phẩm chất lượng thanh tra sở giao thông vận tải thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.33 KB, 30 trang )

UBND THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT LỰC LƯỢNG THANH TRA
SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Học viên: Hoàng Ngọc Đức
Lớp Trung cấp Lý luận chính trị K1B – 08
Giáo viên hướng dẫn: Đoàn Thị Kim Hoa
Hà Nội tháng 4 - 2010
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong các lĩnh
vực hoạt động của bất cứ một tổ chức, một đơn vị nào và quyết định hiệu qủa
hoạt động của tổ chức, đơn vị đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "cán
bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém". Đánh giá được tầm quan trọng trong công tác cán bộ,
Đảng ta luôn xác định cán bộ và công tác cán bộ là khâu then chốt, công tác
này liên quan đến vận mệnh của Đảng, của đất nước, của mỗi đơn vị.
Trong mỗi giai đoạn đều đặt ra những yêu cầu cụ thể về đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phù hợp với những điều kiện lịch sử. Song về cơ bản yêu cầu đối với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo là phải có phẩm chất đạo đức, có năng lực thực tế, có
phương pháp lãnh đạo đúng đắn đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta đã
xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung có đủ năng lực phẩm chất
đạo đức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, sự
thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và của
công cuộc hơn 20 năm đổi mới vừa qua có sự đóng góp không nhỏ của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo với sự lớn mạnh không ngừng và từng bước thực hiện
thắng lợi những mục tiêu mà Đảng và Bác Hồ đã đề ra là: "Dân giàu, nước


mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, đòi hỏi
đội ngũ cán bộ cần có những phẩm chất, năng lực mới như: Có khả năng giao
tiếp, thành thạo ngoại ngữ và tin học, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, có sức
khoẻ tốt để đẩy mạnh các hoạt động giao thương đối ngoại, hội nhập sâu và
đầy đủ hơn các thể chế kinh tế toàn cầu khu vực và song phương tăng cường
hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới.
Bản thân là cán bộ công tác tại Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố
Hà Nội, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, tôi được đi học lớp trung cấp lý
luận chính trị tại Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội. Với
kiến thức đã đựơc học tại trường, căn cứ vào điều kiện môi trường công tác tôi
mạnh dạn chọn đề tài viết tiểu luận tốt nghiệp: "Nâng cao năng lực, phẩm chất
lượng Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội ".
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Dựa trên những luận cứ khoa học, chủ trương đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, và thực tiễn ở Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố
Hà Nội đồng thời tìm ra những giải pháp thiết thực cho công tác nâng cao
trình độ, năng lực, phẩm chất lực lượng Thanh tra Sở giao thông vận tải
Thành phố Hà Nội
* Nhiệm vụ
Làm rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng ta về việc nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ cán
bộ lãnh đạo.
Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ ở Thanh tra Sở giao thông vận tải
Thành phố Hà Nội
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất
đội ngũ cán bộ ở Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu việc nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ

lãnh đạo ở Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội từ năm 2008
đến 2009 và những năm tiếp theo.
4. Kết cấu của đề tài gồm
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cán bộ
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ ở Thanh tra Sở giao
thông vận tải Thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội
ngũ cán bộ ở Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
1. Một số khái niệm
1.1. Trình độ:
Trình độ thể hiện chuyên môn, nghiệp vụ trình độ lý luận cùng khả
năng hoàn thành những nhiệm vụ chuyên môn, khả năng tư duy vận dụng
những kiến thức lý luận vào thực tiễn và khả năng nâng cao trình độ.
1.2. Năng lực:
Năng lực là tổng hợp các khả năng và đặc điểm phẩm chất tâm lý phù
hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, bảo đảm cho
hoạt động đó đạt được kết quả.
1.3. Phẩm chất:
Phẩm chất là thể hiện tư cách đạo đức, tác phong, hành vi của một con
người trong công việc, giao tiếp hàng ngày.
Đối với người cán bộ ngoài yêu cầu về phẩm chất chung thì họ còn
phải thể hiện lập trường tư tưởng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Một trong những yêu cầu phẩm chất đạo đức của con người cán bộ ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới, đó là "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
không tham nhũng. Có ý thức tổ chức, kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm".

2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ:
Cán bộ lãnh đạo là những người giữ cương vị chủ chốt, đứng đầu đơn
vị, tổ chức, cao hơn là quốc gia. Họ là những người lãnh đạo, điều khiển các
đơn vị, tổ chức đó hoạt động theo mục tiêu đã đề ra.
Cán bộ lãnh đạo là nhân tố không thể thiếu được trong quá trình giành,
giữ và thực thi quyền của một Đảng chính trị và Nhà nước của nó. Ngày nay,
cán bộ lãnh đạo được khẳng định là đội ngũ lãnh đạo nằm trong hệ thống
chính trị là chủ thể của hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội cho Nhà
nước của một chính thể chính trị tổ chức. Bất kể mô hình Nhà nước được tổ
chức theo kiểu gì cũng cần đến đội ngũ những cán bộ lãnh đạo để hoạch định
đường lối, chủ trương, chính trị và tổ chức thực hiện chúng nhằm đem lại một
trật tự xã hội ổn định và phát triển, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị của giai
cấp cầm quyền.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta là những cán bộ chủ
chốt, những người đứng đầu, giữ chức vụ quan trọng nhất ở một giai cấp, một
ngành, một đơn vị, có trách nhiệm chính quyết định những vấn đề quan trọng
có ảnh hưởng đến các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội có quyền quyết
định, giải quyết các công việc, xử lý các tình huống diễn ra trong phạm vi,
trách nhiệm của tổ chức phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước. Với vai trò đó, đòi hỏi cán bộ phải có đủ trình độ, năng
lực và phẩm chất đạo đức cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
"vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp" và "huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng", "Cán bộ muốn xứng đáng phải làm được việc,
muốn làm được việc phải được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải giữ
mình làm đúng đời sống mới, nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch
chính đáng".
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều cho rằng thủ lĩnh
chính trị là những cán bộ lãnh đạo đứng đầu, người lãnh đạo các tổ chức
Đảng chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội khác đó là những người ưu

tú được trưởng thành, phát triển trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn
luyện trong thực tiễn phong trào cách mạng. Mác - Ăng ghen cho rằng lãnh
đạo là: "người có uy tín, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất được bầu ra
hay được giao những nhiệm vụ trọng yếu. Đó là những người biết rèn luyện
mình để trở thành người lãnh đạo có kiến thức sâu rộng và thực tiễn của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân. Kế thừa những giá trị tư tưởng tiến
bộ của nhân loại ở phương Đông và phương Tây, kết hợp với học thuyết khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tiêu chí của người lãnh đạo, Hồ Chí Minh
đã đưa ra yêu cầu cụ thể về cán bộ lãnh đạo "Người lãnh đạo phải là người
công bộc, là đầy tớ trung thành của nhân dân, phải có đủ trình độ chuyên môn
có trí tuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức trong sáng".
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo phải vừa có đức có tài, phải vừa
"hồng" lại vừa "chuyên", "người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang". Đức là gốc, là nền tảng
quan trọng để rèn luyện tài phục vụ sự nghiệp cách mạng. Người có đức bao
giờ cũng phấn đấu không ngừng để nâng cao khả năng của mình. Tài và đức
là hai mặt thống nhất trong mỗi con người không thể coi nhẹ mặt nào.
Người cán bộ có tài mà không có đức là vô dụng, có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó. Cán bộ phải là người biết đặt lợi ích của tập thể
lên trên lợi ích cá nhân, là người lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Cán bộ
phải giữ vững lập trường giai cấp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, luôn trau dồi
đạo đức cách mạng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước
giao phó.
Quan điểm về người cán bộ lãnh đạo của các nhà tư tưởng chính trị
Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh tuy ở trong không gian và thời gian khác
nhau, cách diễn đạt không hoàn toàn như nhau, song đều đi đến những điểm
chung khái quát. Đa số các nhà tư tưởng quan niệm người lãnh đạo phải là
người có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức, biết tổ chức, quản lý, biết kiểm soát
và được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Có thể nói cán bộ lãnh đạo là những
người ưu tú, xuất sắc trong quần chúng, có sự giác ngộ mục tiêu lợi ích, mục

tiêu lý tưởng của Đảng, có khả năng nắm bắt, vận dụng và hành động theo
quy luật, có năng lực tổ chức thực tế, có khả năng thu hút và tập hợp quần
chúng giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho đơn vị mình cho tổ chức mình.
Kế thừa những giá trị tư tưởng lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ lãnh đạo, tại Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII,
Đảng ta khẳng định "cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng". Đảng chỉ rõ tiêu chuẩn chung của cán bộ
trong giai đoạn cách mạng hiện nay trước hết là có tinh thần yêu nước sâu
sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham
nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có tổ chức, kỷ luật, trung
thực, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ lý
luận và chuyên môn, có năng lực và đủ sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Người cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ đổi
mới phải đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn đặt ra, đồng thời phải nhanh
chóng đạt được những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo
hiện đại, của thế kỷ 21. Chúng ta trong thời đại toàn cầu hoá, toàn cầu hoá sẽ
thúc đẩy phát triển kinh tế song chắc chắn các trào lưu văn hoá phương Tây
tràn vào sẽ tác động không nhỏ đến văn hoá, đạo đức, lối sống, của mỗi
người. Hơn nữa nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng đã và sẽ
vừa đem đến sự cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, đồng thời vừa
làm thay đổi ý thức đạo đức bởi quan hệ của nền kinh tế thị trường. Môi
trường sống, sự phân hoá giàu nghèo sẽ dẫn đến phân hoá đạo đức, lối sống.
Trước những tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, biến động phức tạp
của tình hình trong nước và quốc tế cũng như những đòi hỏi ngày càng cao
của đổi mới thì yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo càng cao hơn.
Về căn bản, cán bộ lãnh đạo phải hội tụ được 2 mặt đức và tài, nhân
cách người lãnh đạo phải thống nhất giữa "cái bên trong" và "cái bên ngoài".

Trên cơ sở quan điểm, hệ thống tư tưởng chính trị của Đảng về cán bộ lãnh
đạo và những yêu cầu đặt ra về thời kỳ mới cụ thể hoá các tiêu chí về cán bộ
lãnh đạo như sau:
- Có tinh thần yêu nước, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với tư tưởng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì với mục tiêu lý tưởng của
Đảng, của dân tộc, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, của Nhà
nước, có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
- Cán bộ lãnh đạo phải có đạo đức thể hiện lối sống giản dị mẫu mực,
phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Quán triệt và thực hiện tốt cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân chủ nghĩa cơ hội.
- Cán bộ lãnh đạo phải là tấm gương về cần cù, siêng năng, sáng tạo trong
công việc, biết tiết kiệm sức lao động thì giờ, tiền của dân, quý trọng và bảo vệ
tài sản công, sống thanh liêm trong sạch, không tham tiền bạc, địa vị, danh vọng,
biết lo trước thiên hạ, vui sau, thiên hạ, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, không
kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hoá.
Cán bộ lãnh đạo phải chính trực trung thực công bằng, thẳng thắn, biết tự trọng,
biết xử sự đúng đắn ngay thẳng, không nịnh trên nạt dưới, không giả dối, biết
bảo vệ uy tín của Đảng, của tổ chức và của đồng chí minh.
Cán bộ lãnh đạo phải đặt lợi ích của tổ quốc, của Đảng của nhân dân
lên trên lợi ích cá nhân. Cán bộ phải công minh chính trực, tôn trọng tập thể,
phát huy dân chủ nội bộ, tuyệt đối không độc đoán cá nhân đặt mình cao hơn
tổ chức. Trí công vô tư là chủ nghĩa tập thể, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa
cá nhân, theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của các căn bệnh:
Tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham lam, độc đoán, quan liêu, mệnh lệnh.
- Cán bộ lãnh đạo phải tích cực phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó họ phải có năng lực
hoạt động thực tiễn, có thực tế, có khả năng suy xét, nhận định bản chất của
vấn đề nhanh chóng xác định nguyên nhân và hậu quả của nó để có hướng

giải quyết kịp thời. Người cán bộ lãnh đạo phải nhạy cảm về tổ chức, có trực
giác tốt, nhạy cảm về tâm lý, khả năng phân tích nhận biết nhanh và chính xác
về tâm lý con người, khi tiếp xúc khéo léo, tâm lý, biết tác động đi vào lòng
người mà mình đang tiếp xúc. Có khả năng tác động, gây ảnh hưởng đối với
người dưới quyền, biết kích thích, bắt buộc người khác, biết lãnh đạo tập hợp,
lôi cuốn và tổ chức quần chúng thành lực lượng cách mạng, có khả năng
thuyết phục, quy tụ, khơi dậy và phát huy tiềm năng trong quần chúng tạo
thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
- Người cán bộ lãnh đạo phải có tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân, lấy
đó là phương châm hoạt động của mình. Phải biết hy sinh vì lợi ích chung coi
hạnh phúc ấm lo của nhân dân là hạnh phúc ấm no của chính mình, suốt đời
phấn đấu là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Để thực hiện được điều
này thì người cán bộ lãnh đạo phải phấn đấu, rèn luyện vươn lên để có đủ
năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức và chính trị xứng đáng là người tổ chức,
chỉ đường hướng dẫn cho nhân dân. Người lãnh đạo từ nhân dân mà ra phải
nhận thức được quyền lực uỷ thác của mình, không được coi mình là trên
nhân dân, ngoài nhân dân mà chỉ là một bộ phận của nhân dân, phải chịu sự
kiểm soát, kiểm tra, giám sát của nhân dân.
- Người cán bộ lãnh đạo phải có ý thức tổ chức kỷ luật, gắn bó mật
thiết với nhân dân, được dân tin yêu, thực hiện nghiêm túc quy định của tổ
chức, điều lệ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, giữ được mối
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, thông qua mối quan hệ đó thực hiện ý tưởng
mục tiêu của Đảng.
- Người cán bộ lãnh đạo phải có trình độ hiểu biết về lý luận, khoa học
kỹ thuật chuyên môn sâu rộng cũng như kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản
lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người cán bộ lãnh đạo phải nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và là kim
chỉ nam cho hành động, ra sức rèn luyện theo lý tưởng của Đảng. Trong xu
thế hội nhập hiện nay, bên cạnh trình độ chuyên môn của người lãnh đạo cần

trang bị một số kỹ năng ở mức độ cần thiết về giao tiếp, sử dụng máy vi tính,
ngoại ngữ. Những kỹ năng này sẽ rất hữu ích trong giao lưu đối thoại, thể
hiện bản thân là người cách mạng ham hiểu biết về học tập dễ thích nghi với
môi trường hiện đại, dễ hoà nhập với mọi người. Trong hoạt động thực tiễn,
những kỹ năng này sẽ tạo ra hiệu quả công việc lớn và tiết kiệm được nhiều
cả về thời gian và vật chất.
- Người lãnh đạo phải biết khả năng của người dưới quyền bố trí cho họ
công việc thích hợp để họ phát huy được khả năng của mình. Người lãnh đạo
phải biết khả năng của người khác mạnh về lĩnh vực nào để tận dụng sở
trường của người đó một cách hiệu quả nhất. Thường chỉ có rất ít người yếu
mà chủ yếu cá nhân không được sử dụng đúng, không được giao nhiệm vụ
thích hợp. Nếu được sử dụng đúng thì người ta sẽ cảm nhận là mình được tôn
trọng, tin dùng và sẽ cố gắng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
- Người lãnh đạo có tinh thần trách nhiệm cao, sẵn sàng chịu trách
nhiệm về quyết định của mình và hành vi của người dưới quyền. Người lãnh
đạo phải quyết đoán dám chịu trách nhiệm về những quyết định mà mình đưa
ra trong trường hợp gây thiệt hại cho xã hội hay làm tổn thương đến người
khác, không hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo của đơn vị mình. Thậm chí kiểm
soát không chặt chẽ để người dưới quyền có hành vi sai phạm, xâm phạm lợi
ích chung thì người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm.
3. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo:
- Cán bộ là những người đứng đầu và có vai trò chủ chốt trong mọi tổ
chức có trọng trách lớn hơn trong bộ máy tổ chức, có khả năng điều khiển
mọi hành động của tổ chức của Đảng, cơ sở, cơ quan, công sở, doanh nghiệp.
Và đưa các tổ chức ấy đi tới mục tiêu, sự nghiệp đã định hướng. Người ta
thường ví cán bộ lãnh đạo như một đầu máy của con tàu nó kéo cả con tàu
chạy được. Do vậy nâng cao phẩm chất năng lực của người cán bộ lãnh đạo
để họ phải là người có khả năng tập hợp các lực lượng, là người đứng mũi
chịu sào trước mọi khó khăn thử thách bảo vệ và tổ chức thành công mọi

nhiệm vụ mang lại lợi ích tối cao cho mọi tập thể, các tổ chức nói riêng cho
dân tộc nói chung. Do có vị trí như vậy, ảnh hưởng uy tín của cán bộ lãnh đạo
với một tổ chức là rất to lớn, vì thế với người cán bộ lãnh đạo nào không đủ
đức đủ tài khi đứng vào vị trí đó sẽ rất có hại cho cách mạng, cho nên công
tác nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo là vô cùng hệ trọng có tác động lớn
đến sự lãnh đạo của Đảng, của đất nước.
Trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Đảng ta khẳng định: khi
mọi tổ chức cơ sở mạnh khiến từng người mạnh, và từng người mạnh khiến tổ
chức mạnh. Chính vì vậy việc chăm lo đến chất lượng cán bộ nhất là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, là làm tốt công tác đào tạo con người nâng cao vị trí vai trò
và phát huy hết năng lực sáng tạo của con người. Để phục vụ lợi ích của xã
hội của nhân dân, thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng, của Nhà
nước đã đề ra trong quá trình đổi mới đất nước.
Thực tế cho thấy khi cách mạng chuyển giai đoạn về đường lối, chủ
trương của Đảng và nhiệm vụ chính trị thay đổi, thì đòi hỏi công tác cán bộ
cũng phải được đổi mới để theo kịp với yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng. Việc cán bộ tốt hay xấu, đủ năng lực lãnh đạo hay không phụ
thuộc chủ yếu vào công tác đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Bởi vậy việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ tốt, vững mạnh và đồng bộ, bao gồm cán bộ
lãnh đạo chính trị, cán bộ lãnh đạo quản lý Nhà nước, cán bộ lãnh đạo kinh
daonh, cán bộ lãnh đạo chuyên gia trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã
hội. Là nhiệm vụ cấp bách để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
của đất nước vì mục tiêu chính trị của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LỰC LƯỢNG THANH TRA SỞ GIAO THÔNG VẬN
TẢI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Chức năng, nhiệmvụ tổ chức, bộ máy, biên chế cán bộ của
Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội
Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội được thành lập theo Quyết định

số 36/2008/QĐ-UBND ngày 15 tháng 10 năm 2008 của Ủy ban nhân dân
Thành phố Hà Nội “Về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệmvụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội”.
Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra
Sở giao thông vận tải Hà Nội được quy định như sau:
1.1. Vị trí, chức năng
- Thanh tra Sở giao thông vận tải Hà Nội là cơ quan chuyên môn của
Sở giao thông vận tải Hà Nội, có trách nhiệm giúp Ban giám đốc Sở thựchiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành trong phạm vi quyền hạn của Giám đốc Sở giao thông vận tải Thành
phố Hà Nội.
- Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội có tư cách pháp
nhân có con dấu riêng, có tài khoản tại Kho bạc nhà Nước và được cấp kinh
phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước theo quy định của Pháp luật.
- Thanh tra Sở giao thông vận tải Thành phố Hà Nội chịu sự hướng
dẫn, kiểm tra về công tác nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra Thành
phố; đồng thời chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ thanh tra chuyên
ngành của Bộ Giao thông vận tải.
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn
- Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hành chính, thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải trình Giám đốc Sở phê duyệt và tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch đó sau khi được phê duyệt;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính (thanh tra việc
thực hiện chính sách, pháp luật, mhiệm vụ được giao của tổ chức, các nhân)
thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của Sở Giao thông vận tải gồm:
+ Thanh tra, kết luận, quyết định theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền quyết định xử lý;
+ Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc thực
hiện nhiệmvụ, quyền hạn thanh tra hành chính theo hướng dẫn của Thanh tra
Thành phố;

- Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật về hoạt động giap thông vận tải:
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm hành chính đối với các cơ
quan, tổ chức, các nhân trong việc chấp hành các quy định về điều kiện, tiêu
chuẩn và các biẹn pháp đảm bảo an toàn giao thông đối với kết cấu hạ tầng
đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị (nếu có) trên địa bàn Thành
phố trực tiếp quản lý;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm hành chính đối với các cơ
quan, tổ chức, các nhân trong việc chấp hành các quy định về điều kiện đảm
bảo an toàn đối với các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy nội địa
(trừ tàu biển) và đường sắt đô thị;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm hành chính đối với các cơ
quan, tổ chức, các nhân trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về
vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải;
+ Phối hợp với chính quyền quận, huyện, thành phố trực thuộc, xã,
phường, thị trấn, Thanh tra chuyên ngành của giao thông vận tải Trung ương
và các ngành chức năng có liên quan trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý các
vi phạm hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, các nhân trong việc chấp
hành các quy định về bảo vệ, chống lấn chiếm hành lang đường bộ, hành lang
an toàn đường sắt, hành lang bảo vệ luồng tuyến đường thủy nội địa;
+ Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm hành chính đối với
các cơ đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ do địa phương
trực tiếp quản lý trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đạo đức,
cấp bằng giấy phép, chứng chỉ chuyên môn, nghiệp vụ cho người điều khiển
phương tiện giao thông và người vận hành phương tiện, thiết bị chuyên dùng
trong giao thông vận tải;
+ Phối hợp với Thanh tra chuyên ngành của giao thông vận tải Trung
ương trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm hành chính đối với các
cơ kiểm định kỹ thuật phương tiện, thiết bị giao thông vận tải;
+ Phối hợp với lực lượng Công an, UBND quận, huyện, thành phố trực

thuộc, xã, phường, thị trấn và các ngành chức năng có liên quan trong việc
phòng nhừa và xử lý các vi phạm về trật tự an toàn giao thông tại các khu vực
trọng điểm;
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong quản lý và
bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông
- Giải quyết khiếu nại tố cáo:
+ Chủ trì hoặc tham gia tiếp công dân, tổ chức đến khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật;
+ Chủ trì hoặc tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức
trong qúa trình thực hiện các dự án do Sở giao thông vận tải Hà nội quản lý;
+ Chủ trì hoặc tham gia giải quyết giải quyết khiếu nại về quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của Giám đốc Sở đối với
tổ chức cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của Sở; xác minh, kết luận và kiến
nghị giải quyết tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật cua tổ chức, các nhân
thuộc thẩm quyền quản lý của Sở theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định;
+ Theo dõi, kiểm tra các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của Sở
trong việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại,tố cáo;
- Thực hiện công tác phòng ngừa, chống tham nhũng trong lĩnh vực
giao thông vận tải ở địa phương theo quy định của pháp luật về chống tham
nhũng; theo dõi, kiểm tra các tổ chức thuộc thẩm quyển quản lý của Sở trong
việc thi hành pháp luật chống tham nhũng;
- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị và quyết định
sau thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra hành chính,
thanh tra chuyên ngành và giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng
thuộc phạm vi quản lý của Sở;
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật và kiểm tra các đơn vị
thuộc thẩm quyển quản lý của Sở thực hiện quy định của pháp luật về thanh
tra, khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, lãng phí và các văn bản pháp luật về
đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị.
- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra hành chính, thanh tra chuyên

ngành cho thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra; được sử dụng cộng tác viên
thanh tra theo đúng quy định của pháp luật hiện hành;
- Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản và kinh phí phục vụ hoạt động của
Thanh tra sở theo quy định;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật
hoặc khi được Giám đốc Sở Giao thông vận tải giao.
1.3. Cơ cấu tổ chức
- Lãnh đạo Thanh tra Sở Giao thông vận tải có Chánh Thanh tra và các
phó Chánh Thanh tra. Chánh Thanh tra là người đứng đầu Thanh tra Sở, chịu
trách nhiệm trước Giám đốc Sở, trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Thanh tra Sở. Phó Chánh Thanh tra Sở là người giúp Chánh Thanh
tra Sở phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác, chịu trách nhiệm trước
Chánh Thanh tra Sở, Giám đốc Sở Giao thông vận tải và trước pháp luật về
nhiệm vụ được giao.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Thanh tra Sở Giao thông vận tải Hà Nội:
+ Phòng Tổ chức
+ Phòng Hành chính – Quản trị
+ Phòng Tham mưu tổng hợp
+ Phòng Tài vụ - Kế toán
+ Phòng Thanh tra hành chính
+ Đội Thanh tra giao thông đường thủy nội bộ
+ Đội Thanh tra giao thông cầu, đường bộ
+ Đội Thanh tra giao thông vận tải đường bộ
+ Đội Thanh tra cơ động
+ Các Đội Thanh tra giao thông quận, huyện.
1.4. Biên chế
Biên chế của Thanh tra Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội là
biên chế hành chính, được UBND Thành phố giao hàng năm trong tổng số
biên chế của Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội. Biên chế năm 2008
của của Thanh tra Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội được giao là 416

chỉ tiêu.
2. Thực trạng xây dựng lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải
Thành phố Hà Nội
2.1. Những kết quả đạt được:
Lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải Thành phố Hà Nội hiện nay
có 416 người, công tại 28 đơn vị, trong đó có 5 phòng nghiệp vụ, 4 đội
chuyên ngành và 19 đội các quận, huyện thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn toàn
Thành phố.
Trong những năm qua, công tác xây dựng đội ngũ,củng cố tổ chức cho
các phòng chuyên môn nghiệp vụ cũng như các đội luôn được quan tâm. Năm
2008, cơ quan đã tiến hành bổ nhiệm lại chức danh cho 12 đồng chí Đội
trưởng, 23 đồng chí Phó Đội trưởng; bổ nhiệm mới 12 đồng chí Đội trưởng và
06 đồng chí Phó Đội trưởng. Hiện nay cơ quan đang tiếp tục lập danh sách 25
đồng chí đưa vào diện quy hoạch cán bộ để xem xét bổ nhiệm cán bộ cấp
phòng, cấp đội cho các đơn vị còn thiếu và các đơn vị mới thành lập.
Cơ quan luôn quan tâm, tạo điều kiện và khuyến khích cán bộ, công
chức đi học đại học, cao học để không ngừng nâng cao trình độ đáp ứng với
yêu cầu và nhiệm vụ được giao. Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản pháp luật mới cán bộ các cơ sở
đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe và các đơn vị trong ngành. Năm 2008,
Thanh tra Sở đã tạo điều kiện và cử 201 lượt người tham gia các lớp nghiệp
vụ do Thành phố và ngành tổ chức như: Thanh tra cơ bản; chương trình quản
lý hành chính nhà nước ngạch chuyên viên; đào tạo tiền công vụ cho công
chức dự bị; đào tạo Trung cấp lý luận chính trị cho 58 đồng chí; mở lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ đội trưởng, đội phó, thanh tra viên cho 50 đồng chí và cử
hàng trăm lượt người đi tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn khác.
Đánh giá chung về lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải
Thành phố Hà Nội
Đội ngũ cán bộ ở các phòng ban và các Đội thanh tra có trình độ tương
đối đồng đều về chuyên môn nghiệp vụ, tuổi đời còn trẻ, năng động, có khả

năng cập nhật, nắm bắt thông tin mới; nhiệt tình, tận tụy với công việc, biết
khắc phục khó khăn. Một bộ phận có năng lực, ý chí vươn lên mạnh mẽ, được
trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng để chủ động theo kịp xu thế phát triển của
nền kinh tế thị trường.
Lực lượng cán bộ Thanh tra nhìn chung đều có phẩm chất chính trị
vững vàng, tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước. Không dao động trước những diễn biến phức tạp của thế giới, nhất là
âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Nội bộ cán bộ lãnh đạo đoàn kết, thực hiện tốt quy chế tập trung dân
chủ ở cơ sở nên đã phát huy tốt trí tuệ tập thể, góp phần nâng cao chất lượng
công tác.
Nhờ đó có lực lượng cán bộ cơ bản đủ về số lượng và đảm bảo về
chất lượng, vì vậy, năm 2008 vừa qua hoạt động của Thanh tra Sở Giao
thông vận tải Thành phố Hà Nội đã đạt được một số kết quả nổi bật:
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Năm 2008 đã tiếp nhận 23 đơn
(trong đó có 15 đơn thuộc thẩm quyền và 08 đơn không thuộc thẩm quyền).
Thanh tra sở đã trực tiếp phối hợp với các ngành, các cấp xem xét giải quyết
15/15 đơn thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 100%.
- Công tác thanh tra kinh tế - xã hội: Tiến hành công tác kiểm tra và
thực hiện kết luận sau thanh tra 02 Ban quản lý dự án. Tham gia 03 đoàn
thanh tra liên ngành Thành phố; thanh tra dự án Cống hóa mương Nghĩa Đô
kết hợp làm bãi đỗ xe; thực hiện kiểm tra và tra lời Công an Thành phố về
công tác thi công dự án cải tạo đường Lạc Long Quân – gói thầu 2A.
- Công tác thanh tra, xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông, Thanh
tra Sở Giao thông vận tải đã tích cực, chủ động tham mưu cho Giám đốc Sở
và Thành phố ban hành những quyết định, chỉ thị, kế hoạch về đảm bảo trật tự
an toàn giao thông, trật tự đô thị và môi trường giao thông. Công tác phối hợp
liên ngành được triển khai đồng bộ. Đã xử lý 37.196 vụ vi phạm, phạt tiền
10.374.840.000 đồng.
- Công tác phối hợp tổ chức giao thông, phân luồng giao thông và

chống ùn tắc giao thông: huy động hơn 16,875 lượt người phối hợp với lực
lượng cảnh sát giao thông phân luồng giao thông tại 37 nút giao thông, các
công trình, các cầu trọng điểm, góp phần chống ùn tắc giao thông. Tiến hành
khảo sát đề xuất các giải pháp tổ chức giao thông, giải quyết các điểm đen về
an toàn giao thông trên địa bàn Thành phố.
- Thực hiện các chuyên đề về trật tự an toàn giao thông: Tăng cường
kiểm tra, xử lý các xe khách vi phạm chỉ thị 01, đảm bảo trật tự an toàn giao
thông tại trong và xung quanh các bến xe khách liên tỉnh, xe taxi, xe ô tô
dừng, đỗ sai quy định, xe trọng tải lớn hoạt động trong Thành phố không có
giấy phép theo quy định tại các tuyến đường cấm.
- Công tác đảm bảo trật tự đô thị: thành lập 5 tổ công tác liên ngành của
lực lượng Thanh tra Sở phối hợp với lực lượng Công an và Quản lý thị trường
để kiểm tra, xử lý các vi phạm Quyết định 20 ở 20 địa bàn trên 9 Quận nội
thành; phối hợp với các lực lượng chức năng của các quận thành lập các tổ
công tác liên ngành đảm bảo trật tự tại địa bàn quận. Các tuyến phố cấm để xe
máy, xe đạp, cấm hàng rong cơ bản được giữ vững.
- Công tác xử lý vi phạm môi trường giao thông: thực hiện Kế hoạch
266 của Giám đốc Sở về tăng cường quản lý thu gom rác thải và chống đổ
phế thải bừa bãi trên địa bàn Thành phố; Thanh tra Sở đã xây dựng phương án
và phối hợp với Phòng Cảnh sát trật tự, Cảnh sát môi trường, Cảnh sát điều
tra và công an các quận, huyện tổ chức kiểm tra, xử lý các vi phạm. Bố trí lực
lượng tổ chức tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn các xe ô tô đổ đất thải bừa bãi và
chuyển hồ sơ 51 trường hợp vi phạm sang Phòng Cảnh sát điều tra Công an
Thành phố.
- Công tác giải tỏa vi phạm, thực hiện Quyết định 1856/QĐ-TTG:
Thanh tra Sở đã tổ chức giải tỏa vi phạm trên nhiều tuyến, đặc biệt là các
tuyến quốc lộ thuộc Tỉnh Hà Tây (cũ). Đã tổ chức giải tỏa có hiệu quả trên
các tuyến đường 1a, 21a,21b, quốc lộ 3, Láng – Hòa Lạc Kết quả đã xóa bỏ
394 lều lán, 67 điểm kinh doanh buôn bán, 231 mái che, mái vẩy, 65 cầu dẫn
xe, 220 biển quảng cáo các loại, 47 tường ngăn, 70 m từng rào xây trái phép,

59 điểm tập kết vật liệu xây dựng, tạm giữ 270 biển quảng cáo
Đạt được những kết quả trên do nhiều nguyên nhân, song tập trung vào
một số nguyên nhân chính sau đây:
- Chi ủy, tập thể ban lãnh đạo đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, thực hiện tốt quy chế dân chủ, phát huy được vai trò của các tổ chức
đoàn thể trong cơ quan.
- Triển khai có hiệu quả việc ổn định tổ chức bộ máy và hoạt động của
thanh tra Sở sau khi hợp nhất; đẩy mạnh việc cải cách hành chính trong việc tiếp
dân và xử lý vi phạm; thực hiện đúng quy định về công tác tổ chức, bổ nhiệm và
quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm ngạch Thanh tra và cấp thẻ Thanh tra viên.
- Nhiều cán bộ chỉ huy các đơn vị đã tích cực, chủ động, sáng tạo trong
việc đề ra các giải pháp để tổ chức thực hiện, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ
trọng tâm trong từng giai đoạn cụ thể. Duy trì tốt các lực lượng phối hợp liên
ngành và chính quyền các cấp đã tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc cưỡng
chế, xử lý các vi phạm.
- Để đạt được kết quả như trên, không thể không kể đến sự đóng góp to
lớn của đội ngũ cán bộ, công chức - những con người có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, tận tâm với công việc, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, ủng hộ công cuộc đổi mới của Đảng, số cán
bộ này có tác dụng tích cực đến việc làm trong sạch và nâng cao năng lực và
sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở Thanh tra Sở Giao thông Thành.
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
* Một số hạn chế
- Tính gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ huy
của một số cá nhân, đơn vị còn hạn chế; vẫn còn hiện tượng vi phạm quy chế,
bỏ vị trí công tác, không đảm bảo thời gian giờ công, ngày công làm việc.
- Một số đội vẫn phải sử dụng cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn theo Thông tư
số 02 làm nhiệm vụ kiểm tra trong lĩnh vực an toàn giao thông.
- Công tác đào tạo cho đội ngũ cán bộ còn chưa theo kịp với tình hình
thực tiễn, việc đào tạo đa phần là lý thuyết, ít thực tế, nên hiệu quả chưa cao,

thiếu các khoá đào tạo kỹ năng tư duy, phong cách lãnh đạo. Việc cập nhật
thông tin tình hình trong nước, thế giới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo còn chưa
kịp thời nên khả năng phán đoán, quyết đoán của đội ngũ này chưa cao.
- Chưa thu hút được nhiều cán bộ có năng lực nổi bật, một số cán bộ
chưa thực sự toàn tâm, toàn ý với công việc, do đó chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay về công tác quản lý.
* Nguyên nhân của những hạn chế
- Chế độ tiền lương còn eo hẹp, cuộc sống kinh tế khó khăn, những cán
bộ trẻ, có trình độ mới tiếp nhận nên phải đào tạo qua thực tế công việc,
nhưng khi đã có khả năng làm việc thì lại chuyển công tác, lý do một phần vì
mức lương thấp.
- Công tác đào tạo, đào tạo tại chỗ chưa được quan tâm sâu, thời gian
làm việc với áp lực lớn lên việc bố trí thời gian đào tạo gặp khó khăn.
- Khả năng đào tạo đội ngũ cán bộ còn hạn chế, đồng thời việc bố trí
sắp xếp cán bộ còn chưa phù hợp, chưa phát huy được hết điểm mạnh của cán
bộ. Cũng chính vì một số nguyên nhân trên làm cho đội ngũ cán bộ tuy đông
nhưng hiệu quả thực hiện công việc thanh tra chưa đạt được như mong muốn.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT
LỰC LƯỢNG THANH TRA SỞ GAIO THÔNG VẬN TẢI THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
Quán triệt quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, nội dung nghị quyết
TW 3 khoá VIII, nghị quyết TW khóa IX và từ thực trạng của lực lượng
Thanh tra Sở hiện nay. Để xây dựng được lực lượng Thanh tra Sở có đủ năng
lực phẩm chất đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, cần thực hiện một số
giải pháp sau:
1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
- Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; các chủ trương của
Thành phố của Sở và của ngành đến lực lượng cán bộ Thanh tra.

- Làm tốt công tác tuyên truyền để mỗi cán bộ thanh tra luôn nêu cao
vai trò tiên phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng,
gắn bó với đơn vị và luôn cố gắng phấn đấu để trở thành những người lãnh
đạo có năng lực giỏi nghề, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần
tự đào tạo và tìm tòi áp dụng vào thực tế trong công tác.
- Tăng cường giáo dục đạo, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng lối
sống lành mạnh, văn minh, lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ hcức kỷ luật
cho lực lượng thanh tra và cụ thể hoá thành những chuẩn mực phù hợp với
định hướng phát triển của cơ quan.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh”/
2. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ trong tình hình hiện nay
Công tác cán bộ gồm nhiều khâu như: đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ. Mỗi khâu có một vị trí
nhất định và các khâu có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá là
khâu tiền đề đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở của các khâu khác. Vì
vậy, nội dung mà công tác đánh giá cán bộ cần tập trung làm tốt:
Một là, đánh giá cán bộ phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh;
nếu không căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn cụ thể rất dễ dẫn đến đánh giá theo
cảm tính, thiếu khách quan và thậm chí có thể đánh giá sai cán bộ. Nếu đánh
giá sai cán bộ sẽ phá hỏng toàn bộ các khâu còn lại của công tác cán bộ, hậu
quả là lãng phí tài năng, tiền bạc của đất nước, gây mất đoàn kết nội bộ trong
tổ chức,
Hai là, chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ.
Đánh giá về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là đánh giá về tài năng của người
cán bộ. Khi đánh giá về vốn kiến thức, năng lực tư duy khoa học của cán bộ
không nên chỉ xem xét bằng cấp, học vị chung chung mà xem nhẹ học lực,
trình độ chuyên môn sâu, kết quả lao động, tư duy khoa học. Với cán lãnh
đạo, quản lý, cần đánh giá tính mẫn cảm chính trị, năng lực tư duy khoa học,
khả năng vận dụng, tổ chức, kiểm tra, tổng kết, khả năng dùng người

Ba là, đánh giá cán bộ phải được xem xét trong một quá trình. Khi đánh
giá cán bộ không thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, một thời gian ngắn, hoặc
chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời gian dài, có một quá trình. Bởi vì, mọi việc
đều có sự biến chuyển, con người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên
nhận xét về một con người không thể cố định bất biến mà phải trong quá trình
vận động, biến đổi.
Bốn là, mở rộng dân chủ, công minh bạch trong đánh giá cán bộ . Để
cho tập thể và quần chúng tham gia đánh giá cán bộ. Mỗi một con người có
nhiều mối quan hệ ngang dọc, trên dưới, trong ngoài. Cán bộ là một thành
viên của một tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau,
nên cũng có rất nhiều mối liên hệ. công việc mà cán bộ phụ trách thường liên
quan đến nhiều việc, nhiều người. Do vậy, khi đánh giá cán bộ, bên cạnh ý
kiến nhận xét của cán bộ lãnh đạo quản lý, của cơ quan tham mưu, còn phải
coi trọng ý kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng.
3. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ:
Xây dựng danh sách đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ nguồn theo đúng
trình độ qui định để có kế hoạch đào tạo đội ngũ kế cận, cán bộ nguồn đáp
ứng yêu cầu phát triển chi cục. Làm công tác qui hoạch cán bộ là tạo điều
kiện để củng cố kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ một cách thường xuyên,
qui hoạch cán bộ phải thực hiện theo quá trình khép kín, đồng bộ từ chủ
trương biện pháp để tạo nguồn cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
cán bộ lãnh đạo.
Công tác qui hoạch cán bộ: hàng năm trên cơ sở đánh giá thực trạng đội
ngũ cán bộ, tiến hành bổ sung, điều chỉnh qui hoạch cán bộ và cần chú ý tới
cơ cấu chất lượng, cơ cấu độ tuổi, giới tính một cách hợp lý và phải xác định
nguồn cán bộ trong qui hoạch.
Thực hiện qui hoạch theo hướng trẻ hoá trí thức hoá coi trọng phẩm
chất chính trị, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn
khả năng thực hiện nhiệm vụ, năng lực trí tuệ, sức sáng tạo, chú trọng cả đức
và tài.

Để có đội ngũ cán bộ giỏi cần phải làm tốt công tác qui hoạch để cán
bộ có hướng phấn đấu và đơn vị có chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù
hợp, tránh lãng phí.
4. Đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Một là, thống nhất nhận thức một số quan điểm về đổi mới công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán phải xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn, nhiệm vụ, bám sát mục tiêu, yêu cầu, định hướng
của chiến lược cán bộ.
- Hai là, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên cơ sở quy
hoạch cán bộ; đánh giá đúng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nội dung

×