Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Khóa luận tốt nghiệp luật kinh doanh pháp luật việt nam về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.51 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC MAI

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GĨP VỐN THÀNH LẬP CƠNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC MAI

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GĨP VỐN THÀNH LẬP CƠNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phan Thị Thanh Thủy

HÀ NỘI, 2016




LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh dù ít hay nhiều đều liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), nhất là
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Các doanh nghiệp
trên thế giới, khi xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh, đã sử dụng các tài
sản trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng cơng nghiệp...làm địn bẩy để tìm
kiếm các nguồn lực để đầu tư vào doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, ngày càng xuất hiện những doanh nghiệp thành lập dựa
trên các phần vốn góp, đầu tư hoặc liên doanh bằng quyền SHTT, cụ thể như
quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại; chỉ dẫn địa lý; sáng kiến hay phần
mềm, chương trình máy tính. Thực tiễn phát triển của hình thức góp vốn doanh
nghiệp này đặt ra yêu cầu về hệ thống pháp lý điều chỉnh những vấn đề liên quan
như làm thể nào để xác định giá trị phần vốn góp, chuyển giao sử dụng loại tài
sản “vơ hình” này như thế nào,…
Với đề tài “Pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập cơng ty bằng
quyền sở hữu trí tuệ”, chúng tơi mong muốn đưa ra một cái nhìn tổng qt về
hiện trạng pháp lý và thực tiễn đời sống doanh nghiệp, cụ thể về góp vốn thành
lập bằng quyền SHTT.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp đã được các nàh khoa học
chuyên ngành quan tâm nghiên cứu, cùng với đó là các chuyên đề tập trung vào
việc xác định quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản có thể lưu thơng trong
giao dịch dân sự nói chung. Các cơng trình nghiên cứu có thể kể đến như “Góp
vốn thành lập cơng ty theo pháp luật Việt Nam” (Luận văn thạc sĩ luật của tác
giả Phạm Tuấn Anh), hay những bài viết đăng trên các tạp chí như “Hồn thiện
4



quy định về góp vốn và xác định tư cách thành viên công ty theo Luật doanh
nghiệp 2005” của tác giả Nguyễn Thị Dung (Tạp chí Luật học Trường Đại học
Luật Hà Nội số 9/2010); “Một số vấn đề về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
nhãn hiệu” của tác giả Nguyễn Hồng Vân (Tạp chí Hoạt động khoa học tháng
7/2010).
Những cơng trình nghiên cứu chun sâu về hoạt động góp vốn thành lập
cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có thể kể đến cơng trình luận văn
thạc sĩ “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ” của tác giả
Đồn Thu Hồng (2012). Theo đó, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề khoa học
pháp lý về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thay đổi, chỉnh sửa hệ thống pháp luật, cụ
thể là Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2015, cần thiết có
một cơng trình nghiên cứu các vấn đề pháp lý xoay quanh những sự thay đổi
pháp luật đó.
Luận văn đi vào việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống pháp
luật liên quan đến hoạt động góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam, có sự so sánh giữa những quy định pháp luật hiện hành và những
quy định cũ hơn trong q trình pháp điển hóa luật pháp.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả đưa ra cái nhìn tổng thể và giải pháp phù hợp để đảm bảo tính
minh bạch, thống nhất và hiệu quả khi áp dụng pháp luật trong việc góp vốn
thành lập cơng ty bằng quyền SHTT. Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn đi
sâu nghiên cứu những vấn đề sau:
+ Làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập cơng ty
bằng quyền sở hữu trí tuệ.

5



+ Đánh giá và phân tích những bất cập trong việc áp dụng pháp luật thông
qua thực trạng tại một số doanh nghiệp Việt Nam.
+ Đề xuất phương án phù hợp nhằm cải thiện các bất cập trên.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích các khái niệm vầ quyền SHTT, góp vốn
thành lập doanh nghiệp bằng quyền SHTT, nghiên cứu những quy định của pháp
luật Việt Nam về góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ, nêu ra
những điểm hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật, kết hợp
với thực tiễn q trình góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam để đưa ra kiến
nghị, cải thiện.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài góp vốn bằng quyền SHTT bao gồm nhiều nội dung nghiên cứu
khác nhau, để đảm bảo phân tích, đánh giá sâu sắc và đáp ứng nhu cầu thực tiễn,
luận văn tập trung chủ yếu vào việc phân tích các thủ tục góp vốn theo quy định
pháp luật của Việt Nam, đồng thời hướng đến nghiên cứu thực tiễn góp vốn bằng
tên thương mai – đối tượng góp vốn phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó
lấy phương pháp luận duy vật biện chứng làm nền tảng. Trên cơ sở các dữ liệu
thống kê, tác giả đã tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng góp vốn
thành lập doanh nghiệp bằng quyền SHTT ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập và
đề xuất phương án cải thiện các quy định pháp luật, góp phần cải biến thực trạng
tại các doanh nghiệp hiện nay.

6


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ GÓP VỐN BẰNG
GIÁ TRỊ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THÀNH LẬP CƠNG TY TẠI
VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản trí tuệ là sản phẩm của trí óc con người, là tri thức của nhân loại.
Các tài sản này liên quan đến những thơng tin mà có thể được thể hiện bằng các
vật thể hữu hình với số lượng bản sao khơng hạn chế, ở cùng một thời điểm và
các địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này không
phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao, mà chính là những thơng tin chứa
đựng trong bản sao đó. Để bảo hộ những tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ đã ra
đời với tư cách là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ mà tổ
chức, các nhân đó phát minh, chế tạo.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ sở hữu trí tuệ và Quyền sở
hữu trí tuệ được chính thức sử dụng từ Bộ luật dân sự năm 1995 và các đạo luật
được ban hành sau đó. Mặc dù không được định nghĩa trực tiếp song cấu trúc và
nội dung phần thứ 6 bộ luật dân sự cho thấy: Quyền sở hữu trí tuệ là một chế
định pháp lý gồm quyền tác giả và quyền sở hữu cơng nghiệp được pháp luật
quy định và bảo hộ. Đó là một loại quyền sở hữu đặc biệt mà đối tượng là các
sản phẩm sáng tạo do lao động trí óc con người tạo ra, là sản phẩm trí tuệ con
người. Bộ luật dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ là quyền đối với giống cây trồng.
Theo Lê Nết: “Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản
vơ hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể,
được pháp luật quy định bảo hộ”.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) lại định nghĩa: “Sở hữu trí tuệ
được hiểu rộng rãi hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sảm phẩm văn
7


học, nghệ thuật, khoa học, sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát
và truyền thanh, phát và truyền hình, các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực, các phát
minh khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ,

các tên thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh
và các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực hoa học,
công nghệ, văn học nghệ thuật”.
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại đặc biệt của tài sản vơ hình. Quyền sở
hữu trí tuệ mang đầy đủ đặc tính kinh tế , mang giá trị kinh tế như các loại tài
sản vơ hình khác. Do tính đặc trưng của chúng, quyền sở hữu trí tuệ được công
nhận pháp lý và bảo hộ đặc biệt bới pháp luật quốc gia.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đưa ra khái niệm: Quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng.
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
những tài sản trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được trao cho một
người, một nhóm người hoặc một tổ chức để khai thác, sử dụng, định đoạt những
sản phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ.

1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc
tính của quyền tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có tồn quyền đối với tài sản
của mình và khơng ai được sử dụng tài sản đó nếu khơng được sự cho phép của
chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tình chất đặc thù của đối tượng là tài sản
trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở
hữu khác.
Thứ nhất, tính vơ hình của đối tượng sở hữu trí tuệ
8


Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mang đặc trưng vơ hình; đặc tính này
hồn tồn trái ngược với đặc tính hữu hình của tài sản vật chất. Là sản phẩm của
sáng tạo trí tuệ, mang tính vơ hình nên đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ phải

được vật chất hóa, phải được thể hiện trên các vật cụ thể. Nói cách khác, tài sản
sở hữu trí tuệ vơ hình phải được phản sánh, thể hiện thơng qua những vật thể
hữu hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là đối tượng của quyền sở hữu tài sản
vật chất, lài vừa chứa đựng trong nó đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Đặc tính
vơ hình của quyền sở hữu trí tuệ là đặc trưng quan trọng nhất.
Thứ hai, căn cứ phát sinh và xác lập quyền
Căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ khác với
các tài sản hữu hình. Quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình là thời điểm chủ
sở hữu xác lập việc chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó. Theo quy định của
Bộ luật dân sự, căn cứ xác lập quyền sở hữu gồm: do lao động, do hoạt động sản
xuất, kinh doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; thu hoa lợi, lợi tức; tạo thành
vật mới do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến; được thừa kế tài sản; chiếm hữu trong
các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ bỏ
quên, bị chôn dấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự
nhiên; chiếm giữ tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
cơng khai phù hợp với thời hiệu do pháp luật quy định (Điều 170).
Tuy nhiên, quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bởi trí tuệ của con người hoặc
từ những hoạt động cảm hứng. Hoạt động như vậy mang tính riêng biệt và có ý
thức, sáng tạo, khó có thể xác định chính xác theo quy tắc tài sản hữu hình thơng
thường. Do đó, căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ
hầu hết là khi tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ hoặc nhận chuyển nhượng, thừa
kế từ chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.
9


Một số trường hợp ngoại lệ như quyền tác giả và quyền liên quan đến
quyền tác giả; quyền đối với bí mật kinh doanh; quyền đối với tên thương mại.
Căn cứ phát sinh và xác lập đối với những quyền này được quy định cụ thể dứoi
dạng các điều kiện mà không phải tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ.

Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi quốc gia bảo hộ và thời hạn
bảo hộ
Khác với quyền sở hữu thơng thường, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi
không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộc mang tính lãnh thổ triệt để.
Điều này có nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận bởi
cơ quan thẩm quyền một quốc gia cụ thể và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia đó. Có thê rlaasy ví dụ như sáng chế cơng nghiệp tại Việt Nam chỉ
được bảo hộ khi được được cấp văn bằng bảo hộc và cũng chỉ được bảo hộ trên
lãnh thổ Việt Nam. Chính bản thân sáng chế này là sản phẩm trí tuệ được thể
hiện ra bằng hiện vật, chứa đựng sáng tạo của người phát minh, gắn liền với quá
trình áp dụng sáng chế vào hoạt động sản xuất công nghiệp tạo lợi nhuận và thỏa
mãn nhu cầu vật chất của cong người. Hay nói cách khác, chỉ khi được áp dụng
vào sản xuất thì sáng chế mới có giá trị, mà giá trị do sáng chế mang lại thường
có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của
quốc gia. Vì tính khó kiểm sốt phạm vi phát tán của một loại tài sản vơ hình
cũng như tầm ảnh hưởng, tính giá trị lớn của tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu trí
tuệ mang tính lãnh thổ tuyệt đối.
Về mặt thời gian, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ trong một khoảng thời
gian nhất định, vì đối tượng sở hữu trí tuệ là các sản phẩm trí tuệ dễ thay đổi, có
thể bị mai một, dễ bị thay thế so với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất
nước. Đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả thường được
bảo hộ trong khoảng thời gian tương đối dài, tùy vào pháp luật của mỗi nước thì
thơng thường từ 25 đến 100 năm. Khoảng thời gian này đảm bảo đầy đủ quyền
10


lợi của tác giả (tương ứng với thời gian tuổi đời con người). Các đối tượng sở
hữu công nghiệp mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất như
sáng chế, giải pháp hữu ích,… thì thường được bảo hộ trong một khoảng thời
gian tương đối ngắn (tối đa là 20 năm) và có thể được gia hạn bảo hộ. Hầu hết

pháp luật về sở hữu công nghiệp các nước đều quy định thời hạn bảo hộc sáng
chế là 20 năm, thời hạn bảo hộc nhãn hiệu hàng hóa là 10 năm. Hết thời hạn bảo
hộc, chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như những quyền khác đối với đối tượng
được bảo hộ. Tuy nhiên, một số đối tượng sở hữu công nghiệp như tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu nổi tiếng,.. lại được bảo hộ vô thời hạn (chủ sở
hữu cũng như đối tượng phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật quy định).
Sở dĩ các đối tượng này được coi là những trường hợp đặc biệt do tính cố định
của chúng; chúng không dễ bị loại bỏ, trở nên lạc hậu trong quá trình khai khác,
sử dụng.
Thứ tư, quyền năng sử dụng là quyền năng phổ biến
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan
trọng hơn cả. Trong rất nhiều trường hợp tranh chấp về sở hữu tài sản, chủ thể
nào đang chiếm hữu tài sản thường có lợi thế hơn hẳn so với các chủ thể khác.
Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: vì hiện hữu trong hình
thái vật chất nên chủ thể chiếm hữu tài sản thì thường có thể khai thác cơng dụng
của tài sản đó.
Trong khi đó, đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng lại được coi là
quyền năng cơ bản nhất. Điều này xuất phát từ tính vơ hình của đối tượng sở hữu
trí tuệ. Chủ sở hữu khó có thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản trí tuệ mà chỉ
có thể chiếm hữu hình thái vật chất được thể hiện của sở hữu trí tuệ. Chính bản
thân hình thái vật chất ấy khơng thể bị giới hạn số lượng sao chép, chính bản
thân thơng tin trong hình thái vật chất ấy với có giá trị độc quyền. Quyền sử
11


dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khai thác
quyền này thơng qua hành vi ứng dụng vào các loại vật chất hữu hình cụ thể và
phát sinh giá trị quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các laoij vật chất hữu

hình này. Vì vậy, về bản chất việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo hộc độc
quyền khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ.
Cũng phải nhắc thêm, quyền sử dụng của chủ sở hữu đối với tài sản hữu
hình sẽ làm giảm tính tác dụng của nó đối với người khác. Nhưng đối với tài sản
trí tuệ, việc chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng sẽ khơng làm thun giảm tính
tác dụng của nó đối với các chủ thể khác. Có thể nhận thấy đặc tính này trong
trường hợp chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ li-xăng quyền cảu mình cho người
khác sử dụng. Khác với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ
đem lại cho các cá nhân đặc quyền kiểm sốt đối với một đối tượng nào đó.
Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu kiểm sốt số lượng sản phẩm được
khai thác và thiết lập mức giá độc quyền trong phạm vi giới hạn mà lượng cầu
sản phẩm chấp nhận. Do vậy bất kỳ người nào muốn thực hiện việc khai thác giá
trị tài sản trí tuệ đều phải được sự cho phép của người có bản quyền và phải trả
tiền.
Thứ năm, căn cứ chấm dứt quyền sở hữu tài sản.
Đối với tài sản nói chung, pháp luật quy định quyền sở hữu chấm dứt
trong các trường hợp: Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người
khác; chủ sở hữu từ chối quyền sở hữu của mình; tài sản bị tiêu hủy; tài sản bị xử
lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu; tài sản bị trưng mua; tài sản bị tịch thu;
vật bị đánh rơi, bị bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di
chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều
kiện do pháp luật quy định.
12


Cũng giống như quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ
cũng đều được phát sinh và chấm dứt dựa trên những căn cứ nhất định. Những
căn cứ này không dựa trên điều kiện tồn tại của tài sản như đối với các quyền tài
sản hữu hình mà dựa trên thời hạn bảo hộ của Nhà nước đối với tài sản trí tuệ.
Khi đã chấm dứt sự bảo hộ do hết thời hạn thì chủ sở hữu hay người nắm bản

quyền khơng cịn vị thế độc quyền của mình nữa, mọi hành vi khai thác, sử dụng
đều được thực hiện hợp pháp nhằm đảm bảo cân bằng hài hịa lợi ích của chủ sở
hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích chung của tồn xã hội.
Mặt khác, phải khẳng định tính đặc thù trong mối liên hệ giữa tài sản và
chủ sở hữu không thể chấm dứt khi tài sản được chuyển nhượng. Đối với tài sản
hữu hình, một khi chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thơng
qua các hình thức bán, tặng cho, thừa kế,… thì mọi sự liên hệ đối với tài sản của
chủ sở hữu sẽ chấm dứt từ thời điểm chuyển giao. Ngược lại chủ sở hữu quyền
sở hữu trí tuệ khi thực hiện quyền năng định đoạt tài sản của mình, trong một số
trường hợp pháp luật quy định vẫn có thể thơng qua quyền nhân thân của mình
nhằm kiểm sốt tài sản. Cụ thể trong trường hợp quyền tác giả, quyền nhân thân
là quyền gắn liền với người sáng tạo ra tác phẩm và không thể chuyển giao được.
Bất kỳ trường hợp thay đổi tác phẩm sau khi chuyển nhượng bản quyền đều phải
thông báo và nhận được sự đồng ý của tác giả. Việc kiểm sốt này khơng nằm
ngồi mục đích bảo vệ chính tác phẩm sáng tạo, sự vẹn toàn của ý tưởng mà tác
giả muốn truyền đạt đến người khác.

1.1.3. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ được dùng để góp vốn thành lập
cơng ty
Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đó chính là các tài sản trí tuệ. “Tài
sản trí tuệ” có thể được hiểu là bao gồm tất cả các thơng tin có giá trị thương
mại. Cịn theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp, “tài sản trí tuệ” là những
thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo thể hiện thành
13


các vật thể hữu hình trong cùng một thời gian và không gian với số lượng bản
sao không giới hạn và được thừa nhận là tài sản. Hình thức hữu hình của tài sản
trí tuệ có thể kể đến như: tác phẩm văn học, nghệ thuật; cuộc biểu diễn, bản ghi
âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tình mang chương trình được

mã hóa; sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh; giống cây trồng vật
nuôi mới,…
Quyền tác giả là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, thường gọi là
bản quyền tác giả. Quyền tác giả thường được xác lập đối với những người sáng
tạo ra tác phẩm gốc về văn học, kịch, âm nhạc, nghệ thuật. Nội dung quyền tác
giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân cho phép người
sáng tạo kiểm soát được việc khai thác, sao chép, cải biên, công bố tác phẩm của
mình và khơng thể chuyển giao cho người khác. Quyền tài sản bao gồm những
quyền nhằm khai thác, sử dụng tác phẩm như là tác phẩm tái sinh; biểu diễn tác
phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc
bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiễn kỹ thuật nào
khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính,… Quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thực hiện hoặc chính
người sáng tạo tác phẩm thực hiện.
Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa. Đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả
bao gồm các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình mã hố. Chủ thể của quyền này bao gồm người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng. Sở dĩ đây được
14


gọi là quyền liên quan đến quyền tác giả do đối tượng của quyền này là tác phẩm
phái sinh dựa trên tác phẩm gốc của tác giả. Tuy nhiên, những đối tượng này,
thơng qua sự sáng tạo, cơng sức trí tuệ của chủ thể quyền liên quan đã biến đổi
một phần hay tồn bộ về hình thức và cũng có thể là nội dung để đưa đến công

chúng.
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp
luật quy định. Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộc quyền sử dụng độc quyền vì
mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu
công nghiệp, chống lại việc khai tác bất hợp pháp ở quy mô công nghiệp. Đối
tượng của sở hữu công nghiệp rất rộng nhưng chủ yếu là sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Sáng
chế sẽ được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu có tính
mới; tính sáng tạo và có khả năng áp dụng cơng nghiệp.
Kiểu dáng cơng nghiệp là hình dáng bên ngồi của sản phẩm, thể hiện
bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Để được bảo
hộ, kiểu dáng cơng nghiệp phải có tính mới đối với thế giới, có tính sáng tạo và
có khả năng áp dụng cơng nghiệp. Kiểu dáng cơng nghiệp có chức năng thẩm
mỹ, hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng bằng nét độc đáo, vẽ đẹp và nâng cao tính
tiện ích của sản phẩm.
Chỉ dẫn địa lý không chỉ là tên gọi xuất xứ hàng hóa như thường được
hiểu mà cịn bao gồm cả dấu hiện, biểu tượng, hình ảnh dùng để chỉ một khu vực
địa lý. Đối với những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải là sản phẩm có đặc
15


trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác mà khơng một khu
vực địa lý khác có. Đối với những đối tượng khơng được bảo hộ với danh nghĩa
chỉ dẫn địa lý là những đối tượng chỉ mang tính gọi chung cho hàng hóa quốc gia
hay có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ

chức, cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đồng thời đáp ứng hai điều
kiện: Dấu hiệu sử dụng làm nhãn hiệu là (i) dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là
dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc kết
hợp các yếu tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; (ii) dấu hiệu đó
có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá,
dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu phải đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ
cấp văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Chủ sở hữu có tồn
quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ. Phân loại nhãn hiệu bao gồm nhãn
hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu nổi tiếng.
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh là khu vực
đại lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc danh tiếng. Để được
bảo hộ, tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh sử dụng
tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực.
Quyền đối với giống cây trồng: Giống cây trồng là quần thể cây trồng
thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định
qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính
trạng do kiểu gien hoặc sự phối hợp các kiểu gien quy định và phân biệt được
với bất kỳ quần thể giống cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một
tính trạng có khả năng di truyền được.
16


1.2.

Khái qt về góp vốn thành lập cơng ty

1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập cơng ty
Mục tiêu thành lập của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là vì mục đích lợi

nhuận, cá nhân, tổ chức khi muốn trở thành thành viên hay cổ đông của doanh
nghiệp đều muốn hưởng lợi nhuận. Dựa trên nguyên tắc công bằng, việc chia lợi
nhuận giữa các thành viên hay cổ đông này phải tùy thuộc vào tỷ lệ vốn đóng
góp vào quỹ chung của cơng ty để sử dụng. Khi mà các hình thức đóng góp càng
ngày càng trở nên đa dạng nhằm thu hút càng nhiều cá nhân, tổ chức vào hoạt
động kinh doanh thì pháp luật càng cần phải đưa ra những quy định loại tài sản
góp vốn, định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng các loại tài sản khác nhau.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, hành vi góp vốn được hiểu là việc góp tài
sản để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập
doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.
Xét trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào hành vi góp vốn thành lập
doanh nghiệp.

1.2.2. Thỏa thuận góp vốn thành lập cơng ty
Góp vốn thành lập cơng ty khác với hoạt động góp vốn thơng thường, là
bước quan trọng trong quá trình đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hình thức thể
hiện việc góp vốn có thể là hợp đồng dạng văn bản riêng hoặc thể hiện ngay
trong Điều lệ công ty. Nội dung của hợp đồng thỏa thuận góp vốn thể hiện được
nội dung chính việc cá nhân, tổ chức góp phần vốn là tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của mình để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, hộ gia đình, chủ thể
khác và hưởng một hoặc một số quyền lợi từ doanh nghiệp mới thành lập theo
quy định pháp luật dân sự và pháp luật doanh nghiệp, bao gồm các nguyên tắc tự
do ý chí, giới hạn tài sản góp vốn, giới hạn ngành nghề kinh doanh,…

17


Pháp luật Việt Nam đồng nhất hợp đồng thành lập doanh nghiệp với điều
lệ doanh nghiệp trong khi pháp luật quốc tế thiên về khái niệm điều lệ doanh
nghiệp là các quy tắc nội bộ của doanh nghiệp, có thể ghi nhận những nguyên

tắc quản lý nhân sự hay văn hóa doanh nghiệp, văn hóa cơng sở. Trong khi đó,
hợp đồng thành lập doanh nghiệp ghi nhận phần góp vốn của các thành viên, số
vốn đóng góp hay cổ phần sẽ mua, cách thức phân chia lợi nhuận và chế độ trách
nhiệm đối với từng thành viên/ nhóm thành viên.

1.2.3. Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp
Những doanh nghiệp thành lập theo hiệu lực của Luật doanh nghiệp năm
2005 sẽ khó có thể đóng góp thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
khi mà Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định tài sản có thể dùng để
góp vốn thành lập doanh nghiệp bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản; đồng thời mở rộng các tài sản thống nhất trong Điều lệ doanh nghiệp.
Thì đến khi Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực đã sử đổi nhiều quy định
điều chỉnh vấn đề này, cụ thể: tài sản góp vốn có thể là “Đồng Việt Nam, ngoại
tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ,
cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng
Việt Nam.”
Tuy nhiên, nhà làm luật Việt Nam vẫn sử dụng phương pháp liệt kê để
hướng dẫn các loại tài sản được góp vốn, việc này rất dễ dẫn tới sự khơng đầy
đủ, giới hạn hình thức góp vốn của cá nhân, tổ chức. Các nước trên thế giới như
Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đức thường khơng mang tính liệt kê đối với khái niệm
“tài sản” mà chỉ phân ra làm động sản hoặc bất động sản, mỗi loại có những quy
định áp dụng riêng và đề cao tính thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức tự thống
nhất về các tài sản làm tài sản chung khi thành lập.
Dựa vào quy định nêu trên, ta có thể phân loại tài sản để góp vốn thành
lập cơng ty gồm những đối tượng sau:
18


Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng. Thay cho khái niệm quy
định trong Luật doanh nghiệp 2005 liệt kê tiền và giấy tờ có giá, Luật doanh

nghiệp 2014 đã chỉ rõ tiền thông hành tại Việt Nam và ngoại tệ do pháp luật Việt
Nam cho phép tự do chuyển đổi. Việc pháp luật cho phép góp vồn bằng tiền có
tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong doanh nghiệp, chỉ có điều
quyền lợi ấy được tạo ra do chính những người góp vốn và hình thành trong
tương lai.
Cũng theo quy định về tài sản được phép góp vốn, vàng cũng được coi là
tài sản được phép sử dụng. Tuy nhiên, theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản
lý hoạt động kinh doanh vàng, việc thanh toán bằng vàng bị coi là hành vi vi
phạm trong hoạt động kinh doanh vàng nên việc quy định như trên tạo nên mâu
thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Liệu rằng quy định cá nhân, tổ chức được phép
góp vốn bằng vàng có là thừa thãi khi muốn đưa nguồn vốn vào kinh doanh lại
phải thông qua bước chuyển đổi sang tiền mặt, chênh lệch tỷ giá giữa thời điểm
góp vốn và thời điểm chuyển đổi sử dụng có thể khiến doanh nghiệp thất thu một
khoản không nhỏ?
Giá trị quyền sử dụng đất. Đất đai thông thường được coi là bất động sản,
tức là một loại tài sản. Riêng đối với Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý, nghĩa là không một con người hay tổ chức cá thể
nào có quyền tài sản. Vậy nên, để các bên có thể đem góp vốn, quyền sử dụng
đất phải được định giá thơng qua các bên thỏa thuận định giá, đồng thời các bên
cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc thuê tổ chức định giá
chuyên nghiệp.1
Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký, do vậy sau khi
thỏa thuận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì thời điểm góp vốn, bên
góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho doanh
1

Điều 37 Luật doanh nghiệp 2014

19



nghiệp và doanh nghiệp là chủ thể đăng ký để được cấy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Kể từ thời điểm doanh nghiệp hoàn thành việc đăng ký quyền sử
dụng đất thì việc góp vốn thành lập doanh nghiệp của thành viên hoặc cổ đơng
được hồn thành. Đây chính là điểm đặc thù của hình thức góp vốn bằng loại tài
sản đặc thù - giá trị quyền sử dụng đất.
Giá trị quyền sở hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật. Điểm mới của
Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005 đó chính là quy định rõ
về hình thức góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Bằng phương pháp liệt
kê, luật đã quy định các đối tượng được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác
giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ.2
Các loại tài sản trí tuệ dùng góp vốn thành lập doanh nghiệp phải kể đến
các yếu tố sau: mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ; tên thương
mại; biển hiệu; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh,…
Cũng như giá trị quyền sử dụng đất, yêu cầu của Luật doanh nghiệp 2014
đối với tài sản đặc thù này về định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng được quy
định cụ thể thơng qua các điều luật.
Ngồi ra, cịn rất nhiều yếu tố có thể coi là tài sản có giá trị góp vốn, lấy
ví dụ như tri thức, kinh nghiệm làm việc. Tri thức nếu được định nghĩa trên
phương diện hành vi có thể quan sát được là khả năng của một cá nhân hay một
nhóm thực hiệ, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy dình
nhằm tạo ra sự chuyển hóa có thể sự báo được của các vật liệu. Loại thành tố này
khó có thể định nghĩa và nhận dạng, có thể đó là chu trình hoạt động của doanh
nghiệp, hay kinh nghiệm quản lý nhân sự của một trưởng phịng. Chính yếu tố
2

Điều 35, khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014


20


khó xác định đó gây cản trở việc pháp điển hóa thành điều luật. Tuy nhiên khơng
thể hồn tồn phủ nhận các hình thức góp vốn khác với liệt kê trong điều luật.
Dựa trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên, việc định giá có thể
do thành viên tự thỏa thuận khi góp vốn và cùng chịu trách nhiệm thỏa thuận đó,
pháp luật chỉ quy định những nguyên tắc chung nhất để đảm bảo sự công bằng
trong góp vốn và đảm bảo được lợi ích của một thực thể độc lập sau này đó là
doanh nghiệp được thành lập.

1.3.

Góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
Phải khẳng định rằng quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản. Nó có đầy

đủ những đặc tính của quyền tài sản đó là có thể định giá được bằng tiền và có
thể quyển giao trong giáo dịch dân sự. Nghĩa là, nó có thể được sử dụng để góp
vốn, mua, bán, tặng cho,… Quyền sở hữu trí tuệ đã mang lại cho chủ sở hữu tài
sản trí tuệ những quyền như đối với các loại tài sản khác, trong đó có quyền góp
vốn thành lập doanh nghiệp. Và việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ cũng được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, Luật doanh
nghiệp 2014 lại quy định: “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, cơng
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt
Nam”3. Theo khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu đối tượng dùng để góp vốn thành
lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ là “giá trị quyền sở hữu trí tuệ”.
Theo đó, giá trị quyền sở hữu trí tuệ là giá trị bằng tiền của quyền sở hữu trí tuệ
đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ được xác định trong thời hạn bảo hộ. Ở đây,
dường như có sự mâu thuẫn với các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập

doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật trong hoạt động góp vốn thành lập
doanh nghiệp, sẽ có sự dịch chuyển về tài sản góp vốn từ bên góp vốn sang cho
doanh nghiệp nhận góp vốn. Tuy nhiên, nếu sử dụng khái niệm “giá trị quyền sở

3

Điều 35, khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014

21


hữu trí tuệ” thì sẽ khơng thể hiện được sự chuyển dịch tài sản đó. Ngay chính
khái niệm “giá trị sở hữu trí tuệ” cũng khó xác định do khi hình thành tài sản trí
tuệ, giá trị của nó chưa thể định ra chính xác ngay lập tức. Đối với loại tài sản
này, cần phải xác định thời điểm định giá trị, hoàn cảnh trị giá và nhiều yếu tố dễ
thay đổi khác. Cũng không thể không nhắc đến đối tượng các bên hướng đến khi
góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ chính là bản thân quyền, hay đúng hơn là
quyền được sử dụng các tài sản trí tuệ. Cịn việc xác định giá trị quyền sở hữu trí
tuệ có thể do các bên định đoạt. Dường như ở đây đang có sự khơng thống nhất
về đối tượng góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ.
Việc góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ buộc người góp
vốn phải đảm bảo cho doanh nghiệp khai thác tài sản để đem lại các lợi ích phát
sinh từ đó. Ngược lại, người góp vốn có quyền lợi tương ứng trong doanh nghiệp
theo thỏa thuận trong điều lệ công ty. Do quy mô rộng lớn của đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ nên việc thỏa thuận giữa các bên trong quá trình định giá và xác
định quyền lợi cần được khuyến khích thực hiện theo đúng pháp luật sở hữu trí
tuệ.
Có thể rút ra định nghĩa về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền
sở hữu trí tuệ như sau: “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí
tuệ là việc các chủ thể quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng

quyền sử dụng đối với tài sản trí tuệ của mình để góp vốn thành lập doanh
nghiệp”.

22


CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GĨP
VỐN THÀNH LẬP CƠNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
2.1. Nội dung các quy định hiện hành về góp vốn thành lập cơng ty
bằng quyền sở hữu trí tuệ
Pháp luật về góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm
tổng thể những quy định về thành lập doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, thỏa
thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp, nghĩa vụ và quyền lợi từ thỏa thuận góp
vốn, phương thức góp vốn, thời điểm và thủ tục chuyển giao/chuyển nhượng
quyền sở hữu tài sản góp vốn, hình thức và nội dung hợp đồng góp vốn,… với
tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ. Những quy định trên đây là cơ sở pháp lý
cho việc điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động góp vốn thành lập cơng ty
bằng quyền sở hữu trí tuệ và đã được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật
cơ bản như Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí
tuệ và các văn bản dưới luật khác.
Quá trình nghiên cứu vấn đề góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ cần quan
tâm đến những yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật góp vốn bằng nói chung cũng
như những yếu tố cấu thành riêng của hoạt động góp vốn thành lập cơng ty bằng
quyền sở hữu trí tuệ. Khi nói đến hoạt động góp vốn, yếu tố đầu tiên được đề cập
đến là chủ thể góp vốn.

2.1.1. Chủ thể góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
Chủ thể góp vốn thành lập cơng ty bằng quyền sở hữu trí tuệ theo như quy
định tại Luật doanh nghiệp 2014 là “tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ
phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi
riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối tượng khơng được góp vốn vào doanh

23


nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức”4, đồng thời là “cá
nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền
sử dụng các tài sản đó để góp vốn”5.
Khái niệm “chủ sở hữu hợp pháp với các quyền” thể hiện bằng việc cá
nhân, tổ chức đó có các quyền năng cơ bản (quyền nhân thân và quyền tài sản)
đối với tài sản sở hữu trí tuệ (quyền tác gải, quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) và các quyền năng đó
được pháp luật bảo hộ. Các điều kiện cấu thành nên sự bảo hộ của pháp luật đối
với quyền năng của chủ thể được quy định cụ thể đối với từng đối tượng tài sản
trí tuệ, cũng như cơ chế hình thành bảo hộ khác nhau tùy thuộc vào đối tượng tài
sản nói trên. Dựa vào cơ chế xác lập bảo hộ, có thể phân loại chủ thể theo chủ sở
hữu xác lập trên cơ chế bảo hộ tự động và chủ sở hữu xác lập trên cơ chế đăng
ký bảo hộ.
2.1.1.1. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động
Cơ chế bảo hộ tự động đối với chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ là việc các
quyền hợp pháp của chủ sở hữu quyền được pháp luật tự động bảo hộ khi đáp
ứng đủ các điều kiện về nội dung và hình thức theo luật định mà khơng cần
thông qua thủ tục đăng ký bảo hộ. Cơ chế bảo hộ này chỉ áp dụng đối với chủ sở
hữu của đối tượng sở hữu trí tuệ là quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả. Đối với hai đối tượng quyền này, sự bảo hộ đối với chủ thể phát sinh
ngay từ thời điểm đối tượng quyền được định hình dưới một hình thức vật chất
nhất định, bất kể đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
a. Chủ sở hữu quyền tác giả

Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là “tổ
chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng
4
5

Điều 18 khoản 3 Luật doanh nghiệp 2014
Điều 35, Khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014

24


tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả”6. Điều này có nghĩa tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả có thể là người trực tiếp sáng tạo, sáng tác tác phẩm, hoặc là
người đầu tư công sức, tiền bạc vào quá trình sáng tác tác phẩm. Dựa trên định
nghĩa, có thể liệt kê chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm:
 Tác giả hoặc đồng tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đóng góp thời
gian, tài chính, kỹ thuật, cơng sức để tạo ra tác phẩm;
 Cá nhân, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, có thể thơng qua giao kết hợp
đồng;
 Cá nhân, tổ chức được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật;
 Cá nhân, tổ chức được chuyển giao một số hoặc toàn bộ quyền tác giả;
 Đối với các tác phẩm khuyết danh, tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà
chủ sở hữu quyền tác giả chết khơng có người thừa kế, người thừa kế từ
chối nhận di sản hoặc khơng có quyền hưởng di sản, tác phẩm được tác
giả chuyển giao cho Nhà nước thì chủ sở hữu là Nhà nước.
Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ
bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các tác phẩm văn học, khoa
học, nghệ thuật. Quyền nhân thân của quyền tác giả bao gồm quyền đặt tên cho
tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật
hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố tác phẩm

hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác
phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất
kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả7. Nội dung
của quyền tài sản bao gồm làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước
công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
6
7

Điều 13, Khoản 1 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009
Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005

25


tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho
thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Nếu cá
nhân, tổ chức đồng thời là chủ đầu tư và tác giả sáng tạo ra tác phẩm sẽ có đầy
đủ các quyền nói trên. Trong trường hợp tác giả sáng tạo ra tác phẩm không đầu
thời là chủ đầu tư sáng tạo ra tác phẩm thì tác giả có quyền nhân thân và chủ đầu
tư có quyền tài sản. Tuy nhiên, tùy theo mức độ và nội dung thỏa thuận giữa các
bên, một số trường hợp ngoại lệ chủ đầu tư có thể có một số quyền nhân thân
nhất định đối với tác phẩm đó.
b. Chủ sở hữu quyền liên quan đến quyền tác giả
Quyền liên quan đến quyền tác giả (Quyền liên quan) là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Tiêu chí phân biệt
chủ thể sở hữu quyền liên quan với chủ sở hữu quyền tác giả là việc cá nhân, tổ
chức đó khơng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm gốc nhưng lại có sự đóng góp cơng
sức, trí tuệ, tài chính trong việc thể hiện tác phẩm, hoặc truyền tải tác phẩm đến

công chúng. Chính vì vậy, đối tượng tài sản của quyền liên quan thường mang
hình thức khác biệt hẳn so với tác phẩm gốc, đồng thời thể hiện sức sáng tạo của
chủ thể quyền trong việc đưa nội dung tác phẩm gốc đến với lượng công chúng
rộng hơn. Không thể phủ nhận sức sáng tạo của chủ thể quyền liên quan, cũng
như phải khẳng định rằng quyền liên quan không vi phạm quyền của tác giả của
tác phẩm ban đầu. Quyền tài sản của tác giả có quyền làm tác phẩm phái sinh,
hay biểu diễn tác phẩm trước công chúng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng
bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào khác, đã thể hiện sự bảo hộ của pháp luật đối với sáng
tạo của tác giả. Tuy nhiên, pháp luật cũng cơng nhận sự đóng góp của chủ thể
quyền liên quan mang ý nghĩa thay đổi ở mức độ nào đó tác phẩm gốc, khơng

26


×