Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Tìm hiểu sự phát triển của giáo dục quận tân bình, thành phố hồ chí minh trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 185 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đại học quốc gia thành phố Hồ chí Minh
Trường đại học Khoa học xã hội và
Nhânvăn
Nguyễn gia Kiệm

Tìm hiểu sự phát triển của giáo dục
quận Tân Bình, thành phố Hồ chí Minh
trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch Sử
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS Trần thị thu Lương

Thành phố Hồ chí Minh- Năm 2009


1

Mục lục
Trang
Phần mở đầu ........................................................................... 3
I.

Lý do chon đề tài................................................................. 3

II. Mục đích nghiên cứu. ........................................................ 5
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ................................................ 6
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .................................... 9


V. Phương pháp nghiên cứu ................................................. 9
VI. Nguồn tư liệu. ..................................................................... 10
VII. Những đóng góp của luận văn. .......................................... 10
VIII.Bố cục kết cấu của luận văn ............................................. 10
Chương I : Một số vấn đề về Giáo dục và đổi mới
Giáo dục. Đổi mới giáo dục ở thành phố Hồ chí Minh....... 12
1.1 Giáo dục- đổi mới giáo dục........................................................12
1.2 Cơ sở để thực hiện đổi mới giáo dục ........................................23
1.3 Xã hội hóa giáo dục ...................................................................24
1.4 Đổi mới giáo dục ở thành phố Hồ chí Minh ...............................28

Chương II Giáo dục quận Tân Bình trong thời kỳ
Đổi Mới từ 1986 đến nay ....................................................... 32
2.1 Đặc điểm kinh tế-xã hội. ...........................................................32
2.2 Tình hình giáo dục quận Tân Bình trước năm 1986. ................34
2.3 Giáo dục Tân Bình trong giai đoạn 1986-1996. .........................
48
2.4 giáo dục Tân Bình giai đoạn 1996 đến nay. ..............................75

Chương III Việc thực hiện xã hội hóa giáo dục ở
quận Tân Bình ......................................................................... 98
3.1 Tình hình chung. .......................................................................98


2

3.2 Tình hình giáo dục thành phố Hồ chí Minh trước năm 1986 106
3.3 Tình hình của ngành giáo dục quận Tân Bình

109


3.4 Thực hiện xã hội hóa giáo dục ở quận Tân Bình thành phố
Hồ chí Minh.
3.5 Giai đoạn 1996 đến nay

110
126

3.6 Xã hội hóa giáo dục ở quận Tân Bình trong giai đoạn
1996 đến nay.

132

Kết luận

146

Tài liệu tham khảo

165

Phụ lục.


3

Phần mở đầu
I Lý do chọn đề tài
1.1 Giáo dục là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài
người, xã hội chỉ tồn tại và phát triển nếu các thành viên của xã

hội tiếp nhận được những kinh nghiệm mà lồi người đã tích
lũy bao gồm tri thức, kỹ năng, tư tưởng, giá trị đạo đức…
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực
tiếp đến mọi hoạt động của đời sống xã hội và bản thân mỗi con
người. Giáo dục là hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương
ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái
kinh tế-xã hội khác thì hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi
theo.
Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì mục tiêu, nội dung,
phương pháp tổ chức của giáo dục cũng khác và các chính sách
cho giáo dục ln dựa vào những kinh nghiệm được đúc kết từ cơ
sở và qua các kết quả nghiên cứu. Thông qua giáo dục,tri thức và
kinh nghiệm của các thế hệ luôn được tiếp nối, phát triển ngày càng
cao. Quốc gia nào có chính sách phát triển giáo dục tốt sẽ có những
phát triển bền vững. Do đó chiến lược phát triển giáo dục là nhân tố
hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia.
Hiện nay Giáo dục-Đào tạo đã và đang thực sự trở thành nhân
tố quyết định góp phần nâng cao trình độ phát triển, năng lực cạnh
tranh của các quốc gia nói chung, từng tổ chức, từng thành viên
trong xã hội nói riêng.Do đó nghiên cứu về giáo dục- đào tạo ln là
một đề tài được quan tâm
1.2 Hoạt động giáo dục diễn ra cụ thể ở các đơn vị hành
chính cơ sở, do vậy việc nghiên cứu sự phát triển giáo dục ở
quy mơ đơn vị hành chính cơ sở là rất đáng chú trọng. Từ nhận


4

thức trên, chúng tôi chọn một quận của thành phố Hồ Chí Minh

để nghiên cứu về hoạt động giáo dục của một đơn vị hành
chính cơ sở
1.3 Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn về diện tích
lẫn dân số. thành phần cư dân cũng đa dạng, là nơi hội tụ sinh
sống, lập nghiệp của những người dân mọi miền đất nước,
ngồi ra cịn có các cộng đồng dân tộc khác như cộng đồng
dân tộc Hoa, Chăm, Khơmer… trong đó người Kinh chiếm chủ
đạo. Thành phố Hồ Chí Minh từ lâu đã trở thành trung tâm của
vùng đất Nam Bộ và nay là của Việt Nam
Về kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn
và năng động nhất của cả nước với nhiều cơ sở sản xuất cơng
nghiệp khá hiện đại, có lực lượng khoa học kỹ thuật đông và đội ngũ
công nhân, thợ thủ cơng có tay nghề khá. Thành phố cũng là trung
tâm giao dịch quốc tế và du lịch của Việt Nam. Với những điều kiện
thuận lợi này rõ ràng thành phố Hồ Chí Minh là thành phố có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của quốc gia trên nhiều lãnh vực, trong
đó có lãnh vực giáo dục.
Sau ngày giải phóng đất nước đến những năm cuối của thập
niên 80, những khó khăn về kinh tế-xã hội của đất nước đã khiến
cho ngành giáo dục-đào tạo cả nước đứng trước những khó khăn và
thách thức cả về quy mơ lẫn chất lượng đào tạo.Năm 1986 Đại hội
đại biểu Đảng CSVN lần thứ VI đánh dấu thời kỳ phát triển mới của
đất nước, thời kỳ đổi mới, đưa nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ
cấu nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Sự chuyển đổi này đã thúc đẩy mạnh mẽ sự đổi mới, trong đó
Giáo dục là lĩnh vực rất được chú trọng
Sự bao cấp của nhà nước khiến cho ngân sách giáo dục bị hạn
chế, trong lúc đó nhu cầu học tập của xã hội đòi hỏi ngày càng tăng
về lượng (tăng dân số), và chất (đáp ứng nguồn nhân lực cho phát



5

triển kinh tế-xã hội).Nghành giáo dục-đào tạo phải giải quyết bài
toán phát triển trong điều kiện mâu thuẫn trên. Do vậy vào thời kỳ
đổi mới một số biện pháp cho giáo dục ra đời nhằm giải quyết bài
toán này để đưa giáo dục phát triển đi lên. Đơn vị hành chánh cơ sở
các quận huyện là nơi trực tiếp thực thi các đổi mới tại các cấp học
cơ sở. Trong các quận huyện đó của thành phố, chúng tơi chú ý đến
hoạt động giáo dục của quận Tân Bình.
Quận Tân Bình là quận có đơng dân nhất của thành phố Hồ chí
Minh 756.160 người (trước năm 2003 khi chưa tách quận), thành
phần cư dân cũng đa dạng bao gồm các dân tộc Kinh chiếm 93,33%,
Hoa 6,38%, Khơmer 0,11%, Nùng 0,03%, Mường 0,02%, Chăm
0,02% và người nước ngồi. Về tơn giáo: Phật giáo chiếm 19,62%,
Công giáo 22,9%, Tin Lành 0,37%, Cao Đài 0,4%, Hịa Hảo 0,01%,
Hồi giáo 0,02%, khơng có đạo chiếm 56,68%. Tân Bình là quận
thuộc vùng ven của Thành phố Hồ chí Minh nên vừa có hoạt động
nơng nghiệp nơng thơn, vừa có hoạt động cơng nghiệp- dịch vụ của
thành thị, lại trong q trình đơ thị hóa nên giáo dục quận Tân Bình
có thể tiêu biểu cho giáo dục thành phố, đồng thơiø có những điểm
tương đồng với các địa phương khác Đây cũng là lý do chúng tơi
chọn đề tài “Tìm hiểu sự phát triển của giáo dục Tân Bình, thành
phố Hồ chí Minh trong thời kỳ đổi mới ( 1986 đến nay)” để nghiên
cứu, hy vọng qua đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn để đóng
góp cho cơng cuộc đổi mới giáo dục vì nghiên cứu về hoạt động
giáo dục từ cơ sở là một việc cần thiết, kết quả của hoạt động cơ sở
giúp kiểm chứng các chính sách vĩ mơ.

II Mục đích nghiên cứu

Công cuộc đổi mới giáo dục từ chủ trương đến hành động thưc
tế của các địa phương khó thể đồng bộ ngay được, do tình hình của
mỗi nơi có những đặc thù riêng (dù tổ chức là thống nhất). Chúng tơi
nghiên cứu về ngành giáo dục của quận Tân Bình với hai mục đích:


6

2.1 Tìm hiểu thực tiễn đổi mới giáo dục của quận Tân Bình
trong giai đoạn phát triển từ 1986 đến nay để qua đó nghiên
cứu sự đổi mới của giáo dục thành phố Hồ chí Minh và Việt
Nam.
2.2 Rút ra từ thực tiễn hoạt động giáo dục đó những bài học
và kinh nghiệm cho sự phát triển của giáo dục thành phố Hồ chí
Minh

III Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của quốc
gia, việc nghiên cứu để đổi mới giáo dục là việc làm thường xun,
đó khơng chỉ là nhiệm vụ của các nhà quản lý mà còn là nhiệm vụ
của tồn xã hội.. Vì vậy đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về
lãnh vực giáo dục ở các góc độ khác nhau. Trong phạm vi luận văn,
chúng tơi xin nêu ra một số các cơng trình nghiên cứu về giáo dục
trong giai đoạn đổi mới của đất nước (từ 1986 đến nay)
3.1 Các cơng trình nghiên cứu chung về Giáo dục
- Phạm minh Hạc (1996), Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb GD.
Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã phân tích chủ trương
đổi mới giáo dục của Đảng và nhà nước, đồng thời tác giả cũng đưa
ra những định hướng cho sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà
và đưa ra những kinh nghiệm của các địa phương trong việc thực

hiện xã hội hóa giáo dục .
- Phạm minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa
thế kỷ XXI, Nxb CTQG. Qua cơng trình nghiên cứu này tác giả đưa
những nội dung đổi mới giáo dục theo u cầu phát triển cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.Vấn đề tồn cầu hóa, sự hịa
nhập quốc tế trong đó có lĩnh vực giáo dục cũng được tác giả phân
tích một cách cụ thể như là một gợi ý định hướng cho giáo dục Việt
Nam


7

-Viện Khoa học giáo dục, Xã hội hóa cơng tác giáo dục nhận thức
và hành động, Nxb GD, 1999
Sách được viết dưới dạng hỏi đáp nhằm hướng dẫn về chủ
trương và biện pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục cho các cấp quản
lý và nhân dân.
- Nhiều tác giả(2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan
điểm và giải pháp, Nxb Trí thức HN.
Trong cơng trình các tác giả phân tích về thực trạng của giáo
dục Việt Nam hiện nay, đồng thời đóng góp những đề xuất cho sự
nghiệp phát triển giáo dục. Những nghiên cứu của các tác giả có
tính lý luận bằng các phân tích cụ thể để xác định hướng phát triển
giáo dục.
- Nguyễn thế Long (2006), Đổi mới tư duy phát triển giáo dục Việt
Nam trong kinh tế thị trường, Nxb Lao Động.
Tác giả nhấn mạnh đến sự đổi mới trong tư duy về tổ chức và
quản lý giáo dục trong cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế. Tác
giả cũng phân tích những hạn chế trong công cuộc đổi mới giáo dục
ở nước ta mà trong đó có nguyên nhân là sự chậm đổi mới về tư

duy trong hoạt động giáo dục của một bộ phận các nhà quản lý giáo
dục, giáo viên, học sinh
Nhìn chung đa số các cơng trình nghiên cứu chung về giáo dục
đều đặt trọng tâm nghiên cứu về hệ thống tổ chức và quản lý giáo
dục của Việt Nam. Các hoạt động thực tiễn của giáo dục ở cơ sở ít
được các tác giả đề cập đến và chưa phân tích sâu.
3.2 Các tài liệu của bộ Giáo dục- Đào tạo
-Bộ GD-ĐT, Tổng kết và đánh giá 10 năm đổi mới GD-ĐT (19861996) tổng hợp báo cáo của các địa phương (lưu hành nội bộ).
Đây là tài liệu tổng hợp các báo cáo hoạt động giáo dục của
các địa phương về đổi mới giáo dục,tuy nhiên chủ yếu là phần báo
cáo thành tích.


8

- Bộ GD-ĐT (2002), đề án đổi mới giáo dục phổ thơng.
Tài liệu có tính chun mơn của ngành giáo dục, giới thiệu chủ
trương của Đảng và nhà nước về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thơng và hướng dẫn các biện pháp thực hiện.
3.3 Nghiên cứu về đổi mới giáo dục trong phạm vi thành phố
Hồ chí Minh có thể kể đến một số cơng trình như:
-Hồ hữu Nhật (1998), Lịch sử giáo dục SàiGịn- Thành phố Hồ
chí Minh (1698-1998), Nxb Trẻ.
Tác giả viết dưới góc độ lịch sử của ngành giáo dục thành phố
300 năm đấu tranh và phát triển. Các hoạt động giáo dục của từng
quận huyện của thành phố ít được đề cập.
- Sở Giáo dục- Đào tạo và Báo Giáo dục thành phố HCM (2005),
30 năm giáo dục và đào tạo thành phố Hồ chí Minh (1975-2005),
Nxb Tổng Hợp thành phố Hồ chí Minh
Đây là tập hợp các báo cáo của sở Giáo dục- Đào tạo thành

phố Hồ chí Minh giới thiệu các hoạt động của ngành giáo dục thành
phố, các thành tích mà ngành đã đạt được trong 30 năm và những
hạn chế cần khắc phục. Đồng thời tài liệu này cũng đưa ra những
định hướng cho việc phát triển giáo dục trong tương lai. Các hoạt
động giáo dục của các trường, các quận huyện thuộc thành phố
được trình bày rất cơ đọng, mang tính tổng hợp khơng phản ảnh hết
được các hoạt động của cơ sở.
- Hồ thiệu Hùng ( chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học) (1994),
Đánh giá thực trạng các loại hình trường và đề xuất phương án đa
dạng hóa (đề tài nghiên cứu khoa học), Sở Giáo dục-Đào tạo thành
phố HCM
Nhóm tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu thựïc trạng ngành học
mầm non và phổ thông ở thành phố Hồ chí Minh, phân tích tính khả
thi của phương án đa dạng hóa các loại hình trường ngồi cơng lập.
Nhóm tác giả trên cịn phân tích những số liệu cụ thể để chứng minh


9

việc phát triển các trường ngồi cơng lập làsự cần thiết trong cơng
cuộc đổi mới để phát triển giáo dục.
Ngồi ra cịn có những nghiên cứu đăng trên các Báo, tạp chí
liên quan đến giáo dục thành phố Hồ chí Minh. Tuy các cơng trình
nghiên cứu trên bàn riêng về giáo dục thành phố Hồ chí Minh nhưng
thành phố lại lớn cả về quy mơ lẫn diện tích bao gồm 22 quận huyện
nên cũng chưa nói lên được đầy đủ các hoạt động giáo dục của cơ
sở quận huyện.
Các nghiên cứu trên đã cung cấp những cơ sở và tầm nhìn vĩ mơ
về giáo dục Việt Nam để chúng tơi đi sâu vào nghiên cứu giáo dục
Tân Bình.

Về ngành giáo dục tại quận Tân Bình, chúng tơi đã có được báo
cáo hàng năm của phòng giáo dục quận, những tài liệu nhận định và
đánh giá của sở Giáo dục thành phố Hồ chí Minh về hoạt động giáo
dục của các quận. Cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về giáo dục quận Tân Bình đặc biệt là giai đoạn Đổi Mới.
Do đó chúng tơi chọn đề tài: “ Tìm hiểu sự phát triển của giáo dục
Tân Bình ,thành phố Hồ chí Minh trong thời kỳ đổi mới ( 1986 đến
nay)” Để làm đề tài luận văn này

IV Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động của giáo dục
diễn ra cụ thể trong hệ thống các trường học cấp phổ thông (từ
tiểu học đến phổ thông cơ sở) của quận Tân Bình, liên quan
chủ yếu đến hai đối tượng: Các thầy cô giáo và các em học
sinh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Các hoạt động đổi mới giáo dục trong việc thay đổi mơ hình
trường lớp, phương pháp dạy và học, sự phát triển trường lớp để
đáp ứng cho nhu cầu học tập của số lượng học sinh tăng hàng năm


10

- Các chính sách liên quan đến đổi mới giáo dục của Việt Nam
nói chung, của thành phố Hồ chí Minh và quận Tân Bình nói riêng.
Khơng gian nghiên cứu: Quận Tân Bình trong hệ thống
quận huyện của thành phố Hồ chí Minh cùng với những biến
động địa chính trong giai đoạn từ 1986 đến nay
Thời gian nghiên cứu: Từ 1986 đến nay
Mốc năm 1986 được xác định là bắt đầu thời kỳ đổi mới của Việt

Nam trong đó bao gồm cả đổi mới giáo dục.

V Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên hai phương pháp nghiên
cứu cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, ngồi ra
chúng tơi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong
đó đặc biệt là phương pháp thống kê và phương pháp phân tích
tổng hợp.

VI Về nguồn tư liệu:
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã thu thập các nguồn tài liệu
từ nhiều cơ quan: sở Giáo dục- Đào tạo thành phố Hồ chí
Minh,UBND quận Tân Bình, phịng Giáo dục quận Tân Bình, các
báo cáo có liên quan đến giáo dục của các ban ngành trong quận,
hội Khuyến học. Ngồi ra, chúng tơi cũng nghiên cứu các văn kiện
đại hội đại biểu Đảng toàn quốc từ đại hội VI đến đại hội X, các
Quyết Định, Chỉ Thị của chính phủ và bộ Giáo dục-Đào tạo, một số
tài liệu liên quan đến Xã hội hóa giáo dục…

VII Những đóng góp của luận văn
Thực hiện nghiên cứu đề tài “ Tìm hiểu sự phát triển của giáo
dục quận Tân Bình ,thành phố Hồ chí Minh trong thời kỳ đổi mới
(1986 đến nay)” chúng tơi mong được đóng góp cho khoa học:
- Khái quát lại quá trình hoạt động giáo dục của quận Tân Bình,
thành phố Hồ chí Minh trong giai đoạn 1986 đến nay, trên cơ sở đó
cung cấp một số thông tin cần thiết cho các cấp quản lý Đảng, chính


11


quyền, các tổ chức chính trị- xã hội và các nhà nghiên cứu về giáo
dục để có những quyết sách cho sự nghiệp phát triển giáo dục thành
phố nói riêng và cả nước nói chung.
- Trong phần trình bày về việc thực hiện xã hội hóa giáo dục ở
quận Tân Bình, các biện pháp thực hiện và kết quả đạt được có thể
đóng góp những kinh nghiệm thực tiễn của một địa phương cụ thể
(quận Tân Bình) giúp cho các cơ quan quản lý về giáo dục và các tổ
chức chính trị-xã hội rút ra những kinh nghiệm để nâng cao chất
lượng và hiệu quả của công tác xã hội hóa giáo dục khơng chỉ riêng
qn Tân Bình mà cho các địa phương khác trong cả nước.

VIII Bố cục, kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày theo bố cục:

I Dẫn luận (phần mở đầu)
Chương 1: Một số vấn đề về giáo dục và đổi mới giáo
dục. Đổi mới giáo dục ở thành phố Hồ chí Minh
Chương 2: Giáo dục quận Tân Bình trong thời kỳ Đổi
Mới từ 1986 đến nay
Chương 3: Việc thực hiện xã hội hóa giáo dục ở quận
Tân Bình
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


12

Chương 1
Một số vấn đề về giáo dục và đổi mới giáo dục.

Đổi mới Giáo dục ở thành phố Hồ chí Minh
1.1Giáo dục và đổi mới giáo dục
Theo tự điển “ Bách Khoa Việt Nam” thuật ngữ Giáo dục được
định nghĩa như sau:
- “ Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích,
nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao
động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách được truyền thụ và lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của lồi người.
Theo đó Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã
hội loài người. Giáo dục nẩy sinh cùng với xã hội loài người, trở
thành một chức năng sinh hoạt không thể thiếu được và không bao
giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Giáo dục là một bộ
phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, một
trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển về
mọi mặt. Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích,
nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục biến đổi theo
các giai đoạn phát triển của xã hội, theo các chế độ chính trị- kinh tế
của xã hội
- Giáo dục cũng là hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào tạo
và giáo dục của một nước” [22:120]
Theo định nghĩa trên thì giáo dục thực hiện chức năng cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Điều kiện để xã hội tồn tại và phát
triển là có sự tiếp nối những hiểu biết kinh nghiệm, các giá trị đạo
đức…từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự liền lạc này thông qua
chức năng của giáo dục, hay nói một cách khác Giáo dục thực hiện


13

chức năng mã di truyền văn hóa cho sự tồn tại và phát triển của nền

văn hóa và xã hội loài người.
Chức năng của giáo dục bản thân đã hàm chứa yêu cầu đổi
mới liên tục vì xã hội là ln đổi mới và phát triển, có như vậy giáo
dục mới đảm nhận nhiệm vụ quan trọng trong quá trình vận động
tiến lên của xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người việc truyền đạt
những hiểu biết, năng lực và phẩm chất được tiến hành theo các
phương thức khác nhau:
a/ Phương thức kèm cặp ngay trong cuộc sống, đây là phương
thức giáo dục chủ yếu trong các xã hội nguyên thủy và vẫn tiếp tục
tồn tại trong tất cả các xã hội tiếp theo.
b/ Phương thức giáo dục bằng tuyên truyền qua cộng đồng, bằng
dư luận, bằng các hình thức văn học-nghệ thuật, bằng tập qn, tín
ngưỡng…Phương thức giáo dục này đã có từ xã hội nguyên thủy và
ngày càng phát triển đa dạng.[29:19]
c/ Phương thức giáo dục có trường lớp, có thầy và trị, có
chương trình và thời gian nhất định để dạy và học, thầy và trò liên
hệ trực tiếp với nhau trong dạy và học.
. Phương thức giáo dục này xuất hiện sau hai phương thức trên
khi lượng tri thức của xã hội tăng lên, sự phân công trong xã hội trở
thành nền nếp.
Ngày nay nhờ vào tiến bộ của công nghệ thông tin, phương
thức giáo dục có trường lớp có phát triển hình thức mới là phương
thức giáo dục từ xa có nội dung, có chương trình, có người dạy và
người học, nhưng khơng có (hay gần như khơng có) trường lớp,
hình thức giáo dục này đang phát triển. Giáo dục theo nghĩa rộng
bao gồm cả ba phương thức nêu trên. Còn giáo dục theo nghĩa hẹp
là giáo dục theo phương thức thứ ba, giáo dục đươc tiến hành trong
các trường, lớp với một chương trình học được xác định. Với sự



14

phát triển của lịch sử, phương thức giáo dục này ngày càng phát
triển về số lượng, về nội dung dạy và học, trở thành bộ phận chủ
yếu trong hoạt động giáo dục của xã hội. Do đó khi nói đến giáo dục
phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề, giáo dục đại
học…là người ta nói đến giáo dục theo nghĩa hẹp. Đây cũng là đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học giáo dục.

Các thành phần của giáo dục [29]
Di sản xã hội mà thế hệ trước đã tích lũy và hình thành, thế hệ
sau thừa kế và lại tiếp tục truyền lại cho thế hệ kế tiếp và cứ như
thế tiếp nối mãi mãi thông qua con đường giáo dục bao gồm những
hiểu biết, năng lực và phẩm chất giúp cho mỗi thế hệ khơng những
có thể tiếp tục tồn tại ở trình độ các thế hệ trước đã đạt được mà
còn tiếp tục phát triển cao hơn.
Hiểu biết là cơ sở cần thiết cho năng lực và cho phẩm chất;
Năng lực là vận dụng hiểu biết để hành động có kết quả, để giải
quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra; Phẩm chất thể hiện thái
độ và tình cảm đối với những việc diễn ra trong cuộc sống và nhằm
chỉ đạo hành động. Ba vấn đề này trong nội dung giáo dục có liên
quan mật thiết với nhau, làm điều kiện và bổ sung cho nhau. Kết quả
tổng hợp của hiểu biết, năng lực, phẩm chất thể hiện trình độ phát
triển của một xã hội mà còn mang dấu ấn, những nét đặc thù và độc
đáo của mỗi xã hội nhất định.
Ba vấn đề trên thuộc về ba lãnh vực hoạt động tinh thần khác
nhau của một cá nhân hay của tập thể nên đòi hỏi những phương
pháp giáo dục khác nhau và có những khái niệm để chỉ các hoạt
động truyền thụ ba nội dung giáo dục khác nhau đó. Giáo dục về

hiểu biết được gọi là trí dục, giáo dục phẩm chất được gọi là đức
dục, giáo dục về năng lực được gọi là tập luyện. Cũng như giữa hiểu
biết, năng lực và phẩm chất, giữa ba bộ phận giáo dục này có sự


15

liên quan mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Ngồi Trí dục và
Đức dục cịn có Thể dục và Mỹ dục.
Công tác giáo dục (với nghĩa hẹp) bao giờ cũng đặt ra sáu vấn
đề phải được giải quyết thì mới tiến hành giáo dục được:
- Giáo dục nhằm mục đích gì?
- Giáo dục ai ( ai học)?
- Giáo dục cái gì?
- Giáo dục bằng cách nào?
- Giáo dục bằng phương tiện gì?
- Ai giáo dục (ai dạy)?
Sáu vấn đề trên liên quan mật thiết với nhau, làm điều kiện cho
nhau, chi phối lẫn nhau. Vì liên quan trực mật thiết với nhau, không
tách rời nhau nên trong thực tiễn công tác giáo dục, sáu vấn đề này
hợp thành một thể thống nhất, biểu hiện ở hai mức độ khác nhau:
- Ở mức độ quá trình dạy học, tức là trong quá trình diễn biến,
tiến triển của việc dạy và học
- Ở mức độ hệ thống giáo dục, tức là không chỉ trong mối quan
hệ giữa người dạy và người học mà còn cả trong hệ thống các mối
quan hệ của người dạy, người học với cả xã hội
Bằng con đường giáo dục, xã hội ngày một tiến bộ, văn hóa
được nâng lên, văn minh càng cao thì đồng thời giáo dục cũng phải
có những thay đổi cho phù hợp với những tiến bộ của xã hội, các
hoạt động xã hội có sự thay đổi tích cực để tiến lên trong đó vai trị

của giáo dục ln ở vị trí tiên phong. Mỗi thời đại, mỗi phương thức
sản xuất có nền giáo dục tương ứng để phục vụ cho xã hội đó.
Thời Phong kiến giáo dục theo Nho giáo là tự phát trong nhân
dân, nhà nước chủ yếu tổ chức thi các cấp để tuyển chọn quan lại
cho hệ thống cai trị. Có thể nói hệ thống giáo dục trong suốt khoảng
chín thế kỷ thời Phong kiến là hệ thống giáo dục khoa cử [30:44].


16

Thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân khơng chủ trương đào
tạo nhiều, đào tạo ở trình độ cao mà chỉ đào tạo một thiểu số người
Việt ở mức độ trung bình để giúp việc cho bộ máy cai trị. Năm 1924,
tồn quyền Merlin đã đề ra chương trình “ phát triển giáo dục theo
chiều nằm, chứ không phát triển giáo dục theo chiều đứng” vì theo
Merlin 9/10 học sinh nơng thơn Việt Nam khơng có năng lực học hết
bậc trường trung học. Do đó các trường hệ tiểu học hồn chỉnh chỉ
có ở những thị xã, tỉnh; trường cao đẳng tiểu học (trung học cơ sở
bay giờ) chỉ có ở tỉnh, thành phố. Hệ quả của chính sách giáo dục
thời Pháp thuộc là dân trí Việt nam rất thấp với hơn 95% dân số mù
chữ [11:13,14].
Đến thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ngay sau khi
giành lại độc lập, Đảng và nhà nước đã quan tâm đến giáo dục qua
lời nói của bác Hồ: “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó ngay
khi nắm chính quyền Đảng và nhà nước, trên cơ sở tiếp quản nền
giáo dục thời Pháp đã tiến hành xây dựng nền giáo dục dân tộc và
dân chủ, phục vụ kháng chiến và kiến quốc. Xây dựng một nền giáo
dục mới của dân, do dân, vì dân. Nhằm mục đích đào tạo những thế
hệ người Việt Nam trên quy mô lớn, được thiết kế trên nguyên tắc:
“ dân tộc, khoa học, đại chúng” [38:50]

Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục trong giai đoạn xây dựng
CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà (1954-1975)
Sau 1954, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới, giai
đoạn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Quan điểm chỉ đạo trong giai
đoạn này trên cơ sở của nền dân chủ nhân dân đã được hình thành,
xây dựng nền giáo dục XHCN qua việc cải tạo hệ thống giáo dục
theo mơ hình của Pháp trước đây thành hệ thống giáo dục theo mơ
hình các nước thuộc phe XHCN, chủ yếu là Liên Xô.


17

Đặc điểm chính của mơ hình giáo dục trong giai đoạn này: Giáo
dục là cơng cụ của chun chính vơ sản, Đảng lãnh đạo nhà trường,
giáo dục là một bộ phận của cách mạng văn hóa- tư tưởng. Trong
giai đoạn này có sự kiện quan trong của giáo dục, đó là cuộc cải
cách giáo dục lần thứ II năm 1956. (lần thứ nhất năm 1945 theo sắc
lệnh số 34/SL do chủ tịch Hồ chí Minh ký tháng 10 năm 1945).
Mục tiêu của cải cách giáo dục lần thứ II: Đào tạo, bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những người phát triển về mọi mặt.
Phương châm giáo dục: Liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà
trường với đời sống xã hội.
Nội dung của giáo dục có tính tồn diện gồm bốn mặt: Đức
dục-Trí dục-Thể dục- Mỹ dục, lấy Trí dục làm cơ sở đồng thời tăng
cường giáo dục tư tưởng, đạo đức trên cơ sở sáp nhập hai hệ thống
giáo dục 9 năm và 12 năm trước đó thành hệ thống giáo dục 10 năm.
Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục giai đoạn xây dựng hệ
thống giáo dục thống nhất cả nước và bước đầu đổi mới giáo dục
Việt Nam (1975-2000). Trong giai đoạn này có thể chia làm 2 thời kỳ:

Giai đoạn 1975-1986
Do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân kinh tế là cơ bản,
ngành giáo dục cả nước chưa theo kịp sự phát triển kinh tế-xã hội,
ngày 11/9/1979 bộ chính trị ra nghị quyết 14/NQ-TW về cải cách
giáo dục (lần thứ III) với các nội dung và mục tiêu cơ bản sau:
- Coi giáo dục là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư
tưởng văn hóa, một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, văn hóa, khoa học-kỹ thuật. Giáo dục là nhân tố chính quyết định
đối với việc đào tạo nhân tài, bồi dưỡng đội ngũ lao động mới có
đạo đức, có kiến thức khoa học. Mụïc tiêu và nội dung cơ bản của
cuộc Cải cách giáo dục lần thứ III cho thấy quan điểm phát triển giáo
dục ở nước ta là.


18

- Tiếp tục xây dựng và phát triển nền giáo dục theo mơ hình
CNXH (Liên Xơ, Đơng Âu).
- Thúc đẩy nhanh sự phát triển giáo dục
- Xây dựng một hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước.
Cũng chính trong giai đoạn này con đường xây dựng phát triển
đất nước bộc lộ nhiều hạn chế, nền kinh tế chỉ huy, phi thị trường đã
kềm hãm sức sản xuất của xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế- xã hội. Ngành giáo dục là đơn vị chịu hậu quả đầu tiên và
trực tiếp của cuộc khủng hoảng này vì hoạt động trong sự bao cấp
hoàn toàn từ ngân sách nhà nước. Trong dân gian có câu: “ có thực
mới vực được đạo” có thể lý giải cho những bất cập của giáo dục
trong giai đoạn này.
Giai đoạn 1986-2000 (Thời kỳ đầu đổi mới).
Khi đất nước có sự chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần. Ngồi ra chính sách đối ngoại củng có nhiều thay đổi,
sự giao lưu, hợp tác đã phát triển trên các mặt kinh tế- văn hóakhoa học và giáo dục
Đây là giai đoạn bắt đầu công cuộc đổi mới của đất nước nói
chung và ngành giáo dục nói riêng. Đổi mới giáo dục đã trở thành xu
thế tất yếu của ngành giáo dục Việt nam. Công cuộc đổi mới giáo
dục bắt đầu từ thay đổi tư duy về giáo dục theo xu thế mới của thời
đại và việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường có định hướng XHCN
ở nước ta.
Chủ trương của Đảng và nhà nước về giáo dục trong giai đoạn
này là:
- Đảm bảo điều kiện để để đạt trình độ tối thiểu, tích cực chống
mù chữ, tăng tỷ lệ và trình độ người biết chũ, đẩy mạnh phổ cập
giáo dục tiểu học và tăng dần phổ cập trung học cơ sở
- Bảo đảm đào tạo cán bộ cho quốc phòng-an ninh


19

- Đối với các cấp bậc học trên tiểu học thì huy động sự đóng góp
của nhiều tầng lớp cư dân
- Đào tạo không chỉ thỏa mãn nhu cầu của kinh tế quốc doanh và
biên chế nhà nước mà thỏa mãn cho mọi thành phần kinh tế, nhu
cầu xã hội bằng nhiều nguồn tài chánh và theo một kế hoạch mềm
dẻo, người tốt nghiệp tự tìm, tự tạo việc làm.
- Mở rộng cơ hội học tập cho tất cả mọi người.
Quan điểm phát triển giáo dục trong thời kỳ này là phải đổi mới
giáo dục bằng việc học tập kinh nghiệm, mơ hình của nhiều nước.
[38: 53] Như đã trình bày ở phần trên, mỗi nền giáo dục bị chi phối
bởi phương thức sản xuất và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc

gia. Trước đây, khi đất nước phát triển theo mơ hình XHCN, tư duy
về giáo dục vẫn lấy mơ hình phát triển giáo dục của Liên Xơ làm
chuẩn.
Khi đất nước chuyển đổi nền kinh tế thì tư duy phát triển giáo
dục cũng đã thay đổi, mô hình giáo dục các nước phi XHCN cũng
được nghiên cứu để học tập.
Sự đổi mới tư duy về phát triển giáo dục trong thời kỳ đổi mới đó
là khẳng định lại vai trò quan trọng hàng đầu của giáo dục. Một số
yếu tố mới đã được nhà nước đề ra và nhân dân đồng thuận như:
“ thu nhập cho nhà trường”, “ chấp nhận tình trạng khơng đồng đều,
cách làm đa dạng”…nghĩa là những vấn đề rất cơ bản của cơ chế
mới dựa trên nguyên tắc chấp nhận một nền kinh tế nhiều thành
phần, chấp nhận sự phân hóa, bảo đảm lợi ích trên cơ sở nâng cao
hiệu quả cơng việc đã được nhấn mạnh. Những quan điểm trên thưc
sự đã đóng vai trị chủ đạo cho sự nghiệp đổi mới giáo dục bắt đầu
khởi động mạnh vào năm 1987.
Theo tinh thần Nghị quyết TW4 khóa VII (14/1/1993) tiếp tục
khẳng định việc đổi mới giáo dục:


20

-Giáo dục và đào tạo cùng Khoa học và Công nghệ là quốc sách
hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
- Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
- Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù
hợp xu hướng tiến bộ của thời đại giáo dục thường xun, suốt đời
- Đa dạng hóa hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục-đào tạo.
Nghị quyết TW2 khóa VIII (16/12/1996) tiếp tục tinh thần đổi

mới giáo dục
- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam XHCN có tri thức, kỹ năng vừa Hồng vừa Chuyên
- Giữ vững mục tiêu XHCN
- Thực sự coi giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu
- Giáo dục- Đào tạo là sự nghiệp của toàn đảng toàn dân
- Phát triển giáo dục-đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội
Từ sau nghị quyết trung ương 2 khóa VIII của ĐCSVN, cơng
cuộc đổi mới giáo dục đã trở thành tiêu chí quen thuộc của tồn xã
hội chứ khơng chỉ riêng ngành giáo dục-đào tạo.
Nhìn chung có thể thấy quan điểm đổi mới phát triển giáo dục
trong giai đoạn 1986-2000:
- Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, hiến pháp nước
CHXHCNVN năm 1992, điều 35 có ghi “ Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu”. Nếu như trước đây, giáo dục được coi là một lĩnh
vực thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, một lĩnh vực hưởng thụ kết
quả của hoạt động sản xuất kinh tế như là một thứ phúc lợi xã hội,
thì ngày nay (thời đổi mới) giáo dục đã thay đổi vị thế của mình trong
sự phát triển tổng thể của quốc gia. Với tầm quan trọng này, giáo
dục trở thành một bô phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là
tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lãnh vực kinh tế-


21

chính trị - văn hóa. Một nền kinh tế- xã hội muốn có sức mạnh để
phát triển cần phải tạo ra được trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và
nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản
xuất, nâng cao năng xuất lao động, phát triển các hoạt động dịch

vụ… điều này tùy thuộc vào giáo dục.
Ngược lại, các lĩnh vực kinh tế- xã hội cũng có tác động, ảnh
hưởng to lớn đến giáo dục. Có thể nói rằng giáo dục vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời sự phát
triển kinh tế- xã hội cũng là mục tiêu và tạo ra sức mạnh cho giáo
dục.
Chính vì vậy, giáo dục là bộ phận hữu cơ quan trọng nhất trong
chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, trong đó
mục tiêu giáo dục phải được coi là một trong những mục tiêu quan
trong nhất của sự phát triển.
Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực trình độ cao là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội
- Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học và
hiện đại theo định hướng XHCN.
Quan điểm này phản ảnh mối quan hệ giữa chính trị- giáo dục
ở nước ta hiện nay. Theo đó thì về mặt nhân cách, giáo dục phải
đóng vai trị chủ đạo trong việc hình thành con người lao động, cơng
dân có lý tưởng XHCN, phát triển tồn diện [ 38: 55,56,57] .
Về mặt xã hội, mục tiêu về độc lập dân tộc và CNXH được thể
hiện trong chính sách giáo dục cấp vĩ mơ: giữ vững vai trị nịng cốt
của các trường cơng lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực
hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội học tập cho tất cả
mọi người, khuyến khích người học giỏi phát triển tài năng, phát
triển quy mô giáo dục


22

- Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tếxã hội, tiến bộ khoa học và cơng nghệ, củng cố an ninh quốc phịng

- Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, nhà nước và của toàn dân
Theo đó, giáo dục và đào tạo khơng chỉ là công việc của nhà
trường mà là công việc chung của tồn xã hội trong sự nghiệp xã hội
hóa giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng,
nhà nước và của toàn dân phù hợp những mục tiêu giáo dục do
UNESCO đề ra khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI
Ngày nay, khi tham gia vào q trình tồn cầu hóa, các mối
quan hệ ngày càng đan xen, chồng chéo lên nhau hết sức phức tạp,
cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ và sự
biến động không ngừng của đời sống kinh tế-xã hội trên thế giới
buộc nền giáo dục các quốc gia phải có những đối sách phù hợp.
Trước hết giáo dục phải trang bị cho con người có kỹ năng sống phù
hợp với cuộc sống hiện đại. Giáo dục phải đảm bảo hai yêu cầu là
vừa cung cấp tri thức vừa phải hướng dẫn con người luôn tự hồn
thiện chính mình.
Trong chương IV của báo cáo học tập: “ của cải nội sinh” của
UNESCO tại PARIS năm 1996 có đầu đề “ Bốn cột trụ của giáo dục”
[18] đề cập đến việc xác định nội dung giáo dục trong thế kỷ XXI.
Đây là bốn vấn đề cơ bản nhất của nội dung giáo dục toàn cầu mà
các quốc gia cần hướng tới. bốn trụ cột đó là:
Cột trụ thứ nhất: Học để biết
Học để biết bao gồm nhiều vấn đề mà người học phải giải
quyết. Ngoài việc thu nhận thông tin, tiếp thu tri thức của nhân loại,
người học còn phải biết sử dụng thành thạo tri thức đó như các cơng
cụ để tiếp tục khám phá thế giới tri thức.
Trong môi trường sống, học tập và làm việc luôn đặt ra yêu cầu
cao đối với người học mà tri thức học ở nhà trường không thể đáp



23

ứng được những tình huống rất đa dạng của cuộc sống. Chính vì
vậy, học tập được xem như là phương tiện để giúp người học nhận
biết và hiểu được môi trường sống, học tập và làm việc của mình,
để phát triển các kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp. Người học phải
tự hồn thiện mình cả về tri thức lẫn nhân cách, từ đó hồn thiện
dần khả năng tư duy độc lập.
Cột trụ thứ hai: Học để làm.
Trước sự biến đổi nhanh chóng của hệ thống tri thức khoa họccơng nghệ, đòi hỏi mỗi cá nhân phải chú trọng đến khả năng ứng
dụng các tri thức đã học vào cuộc sống một cách sáng tạo và hiệu
quả. Tuy nhiên khi nền kinh tế tri thức phát triển nhanh, giáo dục
phải có sự phát triển tương ứng để người học có thể bắt kịp khi
công việc luôn biến đổi, ngành nghề mới xuất hiện ngày càng nhiều
đẩy các ngành nghề trước đây vào chỗ lạc hậu.
Cột trụ thứ ba: Học cùng chung sống.
Thế giới ngày nay đang hướng tới một nền hịa bình chung cho
nhân loại, hợp tác thay cho đối đầu. Giáo dục hiện đại có nhiệm vụ
hướng mọi người lại gần nhau hơn, giúp mọi người hiểu được giá trị
của cuộc sống, là vấn đề hịa bình cho nhân loại, sự tôn trọng lẫn
nhau giữa các dân tộc, quốc gia, tinh thần hợp tác trong mọi lãnh
vực của đời sống.

Cột trụ thứ tư: Học để tự khẳng định mình
Học tập là quá trình hình thành và phát triển nhân cách con
người. Giáo dục phải đóng góp vào sự phát triển toàn diện của mỗi
cá thể. Tuy nhiên xã hội luôn biến động theo sự phát triển kinh tế- xã
hội đã làm cho nhận thức con người thay đổi theo hướng đề cao vai
trò cá nhân trong các hoạt động xã hội, con người chủ động giải
quyết các vấn đềtự quyết định và tự chịu trách nhiệm về những gì

mình làm. Do đó nhiệm vụ cơ bản của giáo dục hiện nay là mang lại


24

cho mọi người tính chủ động trong suy nghĩ và hành động. Học để
tự khẳng định mình cũng có thể hiểu là học để làm người
Bước vào thế kỷ XXI, cuộc vận động xã hội học tập, học tập
suốt đời thì việc tự học đang trở thành xu thế hiện đại, nhất là khi có
cơng cụ trợ giúp rất hiệu quả là công nghệ thông tin đã trở thành phổ
biến. Giáo dục phải bằng mọi cách để thỏa mãn nhu cầu học tập cho
mọi người

1.2 Cơ sở để thực hiện đổi mới giáo dục
Đổi mới giáo dục là một phần trong công cuộc đổi mới đất
nước, kết quả của đổi mới giáo dục tùy thuộc vào sự thành bại của
công cuộc đổi mới đất nước.
Đường lối đổi mới đã phần nào phá thế cô lập của Việt Nam
trên trường quốc tế (dù Mỹ vẫn còn bao vây, cấm vận kinh tế) đồng
thời tạo cho sức sản xuất của xã hội có điều kiện phát triển theo khả
năng, chấp nhận kinh tế thị trường có định hướng XHCN thì gánh
nặng bao cấp của nhà nước giảm đi.
Sự thành công của công cuộc đổi mới đã cải thiện dần những
khó khăn của đất nước trong đó có ngành giáo dục. Qua đổi mới,
kinh tế đất nước đã từng bước được cải thiện và có điều kiện phát
triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là cơ sở quan trong cho đổi mới
giáo dục thành công.
Đổi mới giáo dục là yêu cầu tất yếu của lịch sử mà như Đại
tướng Võ nguyên Giáp nhận định: “ Đổi mới tồn diện, sâu sắc, triệt
để có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo là một điều kiện tiên

quyết để đưa nước ta tiến lên nhanh và vững trên con đường hiện
đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và sánh vai cùng các quốc gia
tiên tiến trên thế giới trong kỷ nguyên thông tin và tồn cầu hóa”
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu từ quan
niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến


×