Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác và Mùa xuân nho nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.62 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC, MÙA XUÂN NHO NHỎ
● Viếng lăng Bác:
Viễn Phương là một trong những cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng
văn nghệ giải phóng miền Nam. Thơ ơng thường có giọng nhỏ nhẹ, chứa
chan tình cảm và giàu chất thơ mộng. Sau khi đất nước thống nhất một năm,
tháng 4/1976, Viễn Phương có dịp cùng đồng bào, chiến sĩ từ miền Nam ra
Hà Nội thăm lăng Bác Hồ. Dịp này, từ những cảm xúc rất chân thực, ông
sáng tác bài thơ nổi tiếng "Viếng lăng Bác". Bài thơ đã làm rung động hàng
triệu trái tim vì chứa đựng cảm xúc dạt dào, niềm thương nhớ khơn ngi và
lịng kính u vơ hạn đối với Bác Hồ, vì nỗi niềm của nhà thơ đã bắt gặp nỗi
niềm chung của nhiều người.
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước
thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn
Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ được sáng tác
trong dịp đó và in trong tập thơ Như mây mùa xuân.
Dòng cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ được diễn tả theo trình tự của cuộc
viếng lăng Bác Trong tâm tưởng của tác giả, Bác Hồ như đang sống, như thể
Bác nhìn mọi người từ xa, nên tác giả thầm giới thiệu:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Câu thơ như chứa đựng một nỗi đau và một niềm tự hào. Tự hào "con ở miền
Nam", miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền
Nam vừa chiến thắng vẻ vang… Nhớ lúc sinh thời Người nghĩ đến miền Nam,
mong miền Nam được giải phóng. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha".
(Bác ơi!)
Thế mà miền Nam khơng được đón Bác vào thăm ngày vui đại thắng. Nay thì
Bác đã ra đi, nỗi đau mất Bác lấy gì bù đắp? Cho nên ngay từ đầu, giọng thơ
nghe sao mà xót tủi. Đến với Bác, dù ngay giữa lòng Hà Nội, mà cảnh vật sao
giản dị, thân quen như trở về một làng quê nào vậy:
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát


Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam


Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Không phải là đền đài tráng lệ, uy nghi mà chỉ là hàng tre giản dị quen thuộc,
"hàng tre bát ngát". Bát ngát của tre và bát ngát của sương, là những nét vẽ
mờ tỏ, đậm nhạt, tạo nên vẻ đẹp lung linh như tranh thủy mặc. Từ hình tả
thực ấy, tác giả liên tưởng, khái quát, nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ "hàng tre
xanh xanh Việt Nam", một biểu tượng của dân tộc. Hai tiếng "xanh xanh"
không chỉ gợi ý niệm về màu sắc mà còn gợi lên sức sống bất diệt của dân
tộc. Hàng tre ấy mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: nhũn nhặn,
thanh cao, thẳng thắng, dẻo dai, kiên cường, bất khuất… dù "bão táp mưa
sa" cũng "đứng thẳng hàng". Dấu hiệu đầu tiên nơi Bác ở là một dấu hiệu Việt
Nam vì Bác là con người Việt Nam đẹp nhất!
Nhà thơ hòa vào dòng người xếp thành hàng, chầm chậm bước đi, chân
bước mà lòng nghĩ:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Câu thơ kéo dài một nhịp theo dòng suy tưởng của tác giả. Mặt trời trên cao
kia là của tự nhiên, nó đem đến ánh sáng và nguồn sống cho vạn vật. Nhưng
mặt trời ấy còn "thấy" và nhận ra "một mặt trời trong lăng rất đỏ". Hình ảnh
nhân hóa ấy chứa đựng bao niềm tơn kính, ngưỡng mộ đối với Bác. "Mặt trời
trong lăng rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ biểu hiện sự kỳ vĩ về phẩm chất, tài năng,
đạo đức, về sự hy sinh to lớn của Người đối với đất nước và dân tộc. Bác mãi
mãi là vầng mặt trời đỏ thắm soi sáng cho con người Việt Nam, các thể hệ
Việt Nam. Và cũng như mặt trời bên kia thuộc về vĩnh cửu, Bác cũng sống
mãi trong lòng dân tộc, sống mãi với non sông đất nước ta.
Không phải chỉ một trái tim tác giả biết cảm cái đẹp vĩ đại của Bác mà còn
hàng triệu trái tim, hàng triệu con người ngày ngày đến viếng Bác. Nhà thơ
nói hộ cho con dân đất Việt:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xn"
Khơng khí thương nhớ bao trùm theo nhịp thơ chầm chậm, âm điệu trầm trầm
như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm. Nhưng khơng phải là cuộc
tưởng niệm bình thường mà ca ngợi vinh quang của Bác. Và tràng hoa tưởng
niệm cũng khơng phải bình thường mà nó được kết bằng hàng triệu tấm lòng


để dâng lên Bác, dâng lên "bảy mươi chín mùa xn". Một hình ảnh hốn dụ
kết hợp với ẩn dụ độc đáo, lấy một nét trong cuộc đời Bác Hồ (bảy mươi chín
tuổi) để chỉ Bác; con người ấy sống một cuộc đời đẹp như xuân và đem lại
mùa xuân trường cửu cho đất nước và dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã
khéo chọn giọng điệu, ngơn ngữ và hình ảnh thích hợp để diễn tả sâu sắc
niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác.
Ta lại theo chân nhà thơ vào trong lăng. Đây là giây phút thiêng liêng và xúc
động nhất vì được nhìn thấy:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
Với nỗi đau đớn, xúc động nghẹn ngào, nhà thơ không muốn chấp nhận sự
thật: Bác đã mất! Mà tưởng tượng Bác chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau
một cuộc đời vất vả, hy sinh vì dân vì nước chưa hề được nghỉ ngơi. Giấc
ngủ của Bác bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ "dịu hiền" được miêu
tả như một "vầng trăng". Con người tha thiết yêu trăng mà chưa bao giờ được
bình yên để ngắm ấy bây giờ đã được yên nghỉ cùng trăng.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, lý trí đã nhắc nhà thơ: Bác mất thật rồi! Cho nên
cảm xúc dâng trào đã bật thành lời:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!"
Ở đây có sự hịa quyện giữa hai cảm xúc: cảm xúc về sự bất tử, trường tồn
của Bác, cảm xúc về nỗi đau và nỗi nhớ Bác khôn nguôi. Bác là "mãi mãi"

như bầu trời xanh bất diệt, vĩnh viễn ở trên đầu và ở trong tâm tưởng của mỗi
người, vĩnh viễn với non sông đất nước. Nhưng Bác mất thật rồi, khơng cịn
thấy Bác trong cuộc đời này nữa. Cái thiếu vắng ấy lấy gì bù đắp được?
Tiếng "nhói" vút cao lên nói hộ ta bao nỗi đau đớn xót xa. Đó là niềm xót xa,
làm rung cảm rất chân thật của bất cứ ai vào lăng viếng Bác.
Xót xa, lưu luyến mấy rồi cũng phải chia tay. Bác nằm lại với "giấc ngủ bình
yên", mỗi người lại phải chia xa:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt"


Câu thơ như có gì nuối tiếc, nghẹn ngào, xót xa. Một tiếng "thương", một hình
ảnh "trào nước mắt" là trọn vẹn tình cảm của nhân dân miền Nam đối với
Bác. Đó là niềm kính u, lịng kính trọng biết ơn, đối với con người cao
thượng và vĩ đại dành trọn cuộc đời mình cho dân cho nước. Đó là nỗi xót
đau đến lặng người vì sẽ mãi mãi khơng cịn thấy Bác. Thương Bác nhưng
khơng xa rời sự nghiệp mà người đã để lại cho con cháu, đành phải giã biệt
Bác. Chân bước ra đi mà lòng còn lưu luyến. Nỗi niềm đó cịn được diễn đạt
trong mấy câu thơ giàu hình ảnh:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Về cuối bài, nhịp điệu câu thơ trở nên dồn dập với điệp ngữ "muốn làm" nhắc
lại đến ba lần nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và
hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: con chim dâng tiếng hót
vui, bơng hoa dâng hương thơm ngát, cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc
ngủ yên bình của Bác. Tất cả đều bên lăng, ở quanh lăng. Tất cả đều nói lên
tấm lịng kính u vơ hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.
Con người bất tử, nay đã trở thành huyền thoại.
Bài thơ có giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi
cảm, ngơn ngữ bình dị mà cơ đúc thể hiện lịng thành kính và niềm xúc động

sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
Bài thơ đã được cố nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát được
nhiều người yêu thích. Sở dĩ như vậy bởi vì bài thơ đã giàu tính nhạc: giọng
điệu tha thiết trầm lặng, trang nghiêm và thành kính; nhịp thơ chậm. Qua đó,
tác giả đã bộc lộ cảm xúc tràn đầy, những tình cảm lớn lao thiêng liêng của
mình và cũng là của nhân dân đối với Bác Hồ, đồng thời ca ngợi vinh quang
của Bác. Tình cảm đối với Bác là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con
người. Với những giá trị đó, "Viếng lăng Bác" đó là một đóng góp quý báu vào
kho tàng thơ ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.


● Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân đến, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở mn màu, chim hót líu lo…
Cả thiên nhiên đất trời như thay áo mới. Mùa xuân đến gieo vào lòng người
bao niềm tin và hy vọng. Vì thế, mùa xuân là nguồn cảm hứng bất tận của thơ
ca nhạc họa. Cảm xúc trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, nhà thơ Thanh
Hải đã sáng tác bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Đây là một bài thơ hay, thể hiện
cái nhìn lạc quan, tin tưởng của tác giả đối với đất nước và dân tộc. Bài thơ
mở đầu với cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân cách mạng
qua những khổ thơ sau (trích đoạn)
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980,
ngay trên giường bệnh và chỉ ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi
ra đi. Ở giữa màu đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với biên giới giữa sự sống
và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn
thi nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một màu xn
nồng ấm tình người, khiến ngịi bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp
tâm tình của thi nhân trước thiên nhiên, con người, cuộc sống.
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem
đến hương sắc, vị ngọt của sức sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu
kỳ của màu xuân, các thi nhân đều cảm nhận bằng con mắt trìu mến, thân

thương. Mùa xn hiện ra với mn vàn sắc màu rực rỡ:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời”
(Nguyễn Trãi)
Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào.
Thật đơn sơ, lặng lẽ mà mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:
"Mọc giữa dịng sơng xanh,
Một bơng hoa tím biếc."
Bức tranh mùa xuân đơn sơ, giản dị mà đẹp đẽ, gợi cảm vơ cùng. Màu xanh
của dịng sơng Hương nổi tiếng, màu xanh của sự sống hay chính là tín hiệu
báo mùa xuân đang về? Mùa xuân đang trải êm đềm trên dịng sơng xanh dịu
mát bỗng mọc lên ở giữa "một bơng hoa tím biếc". Cũng một gam màu lạnh
như dịng sơng xanh đầy sức sống, nhưng sắc "tím biếc" của bơng hoa nổi
trội, đậm đà, nồng ấm cả dịng sơng, cả thiên nhiên. Bơng hoa là có thật hay
cũng là dáng hình của niềm tin, hy vọng, là sắc màu quen thuộc của quê
hương xứ Huế? Chỉ từng ấy nét mà với nghệ thuật dựng hình, đảo cấu trúc


câu, tác giả đã biểu hiện được cả một vẻ đẹp tươi sáng, một sức sống tràn trề
của thiên nhiên khi mùa xuân tới.
Thiên nhiên rất hào phóng, sẵn sàng ban tặng cho con người bao vẻ đẹp nếu
con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải điểm vào bức tranh xuân một vẻ
đẹp nữa:
"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời"
Tiếng hót trong vắt của chim làm xao động không gian, đem đến cho mùa
xuân niềm vui rạo rực. Tác giả dùng từ cảm "ơi" để gọi chú chim đang bay tít
trên bầu trời xanh. Rồi hỏi "hót chi mà", chất giọng Huế ở đây nghe sao thân
thương trìu mến q! Như ngỡ ngàng thích thú, như đùa vui níu kéo… Tiếng
chim đang vang xa, bỗng lại gần:

"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Cảm xúc của nhà thơ trước cảnh mùa xuân của thiên nhiên được diễn tả tập
trung ở hình ảnh ấy. Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương lóng
lánh sắc màu rơi xuống cõi lịng rộng mở của thi nhân để ơng đón nhận bằng
tất cả các giác quan của mình. Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác đã
đạt đến độ tinh vi: tiếng chim vốn có tính thính giác đã chuyển thành "giọt long
lanh rơi" có tính thị giác và có thể cảm nhận bằng xúc giác "tơi đưa tay tôi
hứng". Sự chuyển đổi cảm giác thật cụ thể ấy biểu hiện cảm xúc say sưa,
ngất ngây của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân. Nhà thơ đón xn
bằng cả tâm hồn mình nên mới có những câu thơ thân thiết ân tình như vậy
Sức sống tràn trề của mùa xn như thúc giục lịng người. Hình ảnh dân tộc
Việt Nam kết tụ lại ở người cầm súng và người cầm cày. Thanh Hải thấy sức
xuân phơi phới ở mỗi con người:
"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ"
Đoạn thơ có nhiều hình ảnh đẹp: từ "lộc" vốn là những chồi non của cây cối,
nảy nở vào mùa xuân; ở đây có ý nghĩa tượng trưng cho mùa xuân, cho niềm


tin và hy vọng. Vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ như đang nảy những
chồi non, lộc biếc, như mang cả mùa xuân ra trận với niềm tin chiến thắng.
Người ra đồng "Lộc trải dài nương mạ" như gieo mùa xuân trên đồng ruộng,
hứa hẹn một mùa bội thu. Kết cấu đối xứng của đoạn thơ và những hình ảnh
giàu sức gợi cảm đã nêu bật vẻ đẹp của hai nhiệm vụ cách mạng: sản xuất và
chiến đấu với khí thế náo nức, hào hùng.
Hai câu tiếp là nhịp sống khẩn trương, tự giác của mọi người để thực hiện hai
nhiệm vụ ấy:

"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
Tiết tấu trở nên nhanh, gấp, nhịp thơ ⅔ kết hợp với điệp ngữ "tất cả" và từ láy
"hối hả", "xơn xao" gợi tả hình ảnh, âm thanh tạo thành một bản hịa ca biểu
hiện khơng khí thi đua khẩn trương của nhân dân ta trong mùa xuân mới. Sức
sống thanh xuân đang trỗi dậy, trào dâng, giục giã, thơi thúc lịng người. Tình
u nước, tình u cuộc sống của nhà thơ ở đây thật tha thiết, mặn nồng. Từ
mùa xuân của thiên nhiên, của con người, nhà thơ nghĩ về đất nước. Đó là sự
liên tưởng tự nhiên theo dòng cảm xúc:
"Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao"
Lời thơ lắng xuống suy tư về truyền thống bốn ngàn năm, chứa đựng cả niềm
thương cảm và tự hào. Thương cảm về một đất nước luôn phải đương đầu
với chiến tranh, với thiên tai; tự hào về một dân tộc nghèo tiền, nghèo của cải
nhưng không nghèo nhân nghĩa, khơng nghèo ý chí vươn lên, khơng nghèo
phẩm chất anh hùng, ln chứng tỏ mình trước bao thử thách. Vì vậy, hai câu
tiếp mở ra bay bổng với hình ảnh hào hùng:
"Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"
Đó là hình ảnh của đất nước hiện tại và tương lai. Mùa xuân hiện tại, sức
sống thanh xuân lớn dần, tự vòng lá ngụy trang mở ra cánh đồng lúa, từ mỗi
con người cụ thể chung đúc thành "đất nước bốn ngàn năm", hóa thành
"những vì sao" đi lên, bay lên, ngời sáng, lung linh…Và đất nước tương lai
"như vì sao, cứ đi lên phía trước". Hình ảnh "vì sao" vốn là hình ảnh thực của
lá cờ Tổ quốc, nhưng ở đây có ý nghĩa tượng trưng, là hình ảnh của vinh


quang, của quy luật phát triển "cứ đi lên phía trước". Rõ ràng, trong cảm xúc
của tác giá vẫn chứa đựng một niềm lạc quan, tin tưởng vào sức sống bất
diệt của Tổ quốc trong quá trình đi lên để khẳng định tên tuổi của mình trên

thế giới.
"Mùa xuân nho nhỏ" là bài thơ viết trên giường bệnh mà sao vẫn tươi thắm
một tinh thần lạc quan, yêu đời, vẫn bừng lên một sức sống mãnh liệt. Từ
những cảm nhận về vẻ đẹp của đất trời xứ Huế vào xuân, vẻ đẹp của những
con người đang "hối hả xôn xao" xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhà thơ cất
lên tiếng hát:
"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa"
Tiết tấu câu thơ sôi nổi vois nhịp ⅔ của thể thơ 5 chữ kết hợp với những âm
"a" vang mở như một lời ca trong sáng, hào hứng mà rất tự nhiên. Điệp ngữ
"Ta làm" nhấn mạnh ý thức tự nguyện của nhà thơ. Cách chọn hình ảnh cũng
tự nhiên mà hợp lý: "con chim", "cành hoa" vốn bé nhỏ trong đời, nhưng chim
vơ tư cống hiến tiếng hót vui, hoa tỏa hương khoe sắc tô điểm cho mùa xuân
đất mẹ. Lấy cái đẹp của thiên nhiên để thể hiện cái đẹp của lịng người, nhà
thơ nói lên ước vọng tha thiết và khiêm tốn muốn góp phần nhỏ bé làm nên
mùa xuân đất nước.
Trong bản hòa ca chung của đất nước đang hối hả xơn xao "đi lên phía
trước", tác giả ước nguyện:
"Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến"
Nhịp điệu dồn dập, lôi cuốn như thúc giục mời gọi mọi người "nhập vào hòa
ca", là nhập vào cuộc sống vui tươi, sinh động để xây dựng và phát triển đất
nước. Trong cuộc sống ấy, tác giả nguyện làm "Một nốt trầm xao xuyến".
Không phải là một âm thanh cao vút, véo von, chỉ đơn sơ là một nốt nhạc
trầm trong cái bè trầm làm nền của bản hòa ca, nhưng phải là nốt nhạc say
đắm làm "xao xuyến" tâm hồn. Nghĩa là những cống hiến tuy khiêm tốn, bé
nhỏ nhưng có ích cho đời.
Tiếng chim, cành hoa, nốt nhạc góp phần làm nên mùa xuân trong tâm hồn
tác giả:



"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời"
Tâm niệm của nhà thơ thật cảm động: muốn sống một cuộc đời đẹp như mùa
xuân, giữ cho tâm hồn tràn đầy sức sống như mùa xuân. Nhưng chỉ là "mùa
xuân nho nhỏ", vì mùa xuân lớn thuộc về đất trời, về xã hội không một cá
nhân nào làm nổi. Nhưng mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của cuộc
đời riêng cho mùa xuân của cuộc đời chung làm cho nó phong phú, rực rỡ
thêm. Đến đây, ta hiểu ý nghĩa nhan đề "Mùa xuân nho nhỏ". Thật đáng quý
thay ước nguyện khiêm tốn mà vô cùng chân thành, cảm động của nhà thơ.
Không ồn ào, khoa trương mà chỉ "Lặng lẽ dâng cho đời".
Cảm động hơn nữa, nhà thơ mong ước: dù khi đã qua đi tuổi xuân của mình,
vẫn được là mùa xuân nho nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao của đất nước:
"Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"
Vẫn nhịp điệu ⅔ sơi nổi, hào hứng, ở đây điệp ngữ "Dù là" trong cái thế cân
đối, nhịp nhàng của hai câu thơ vang lên như một lời khẳng định để tự dặn dị
mình: phải kiên trì, vượt qua tuổi già, bệnh tật để sống đẹp, sống cống hiến
cho đời. Hình ảnh hốn dụ "tuổi hai mươi", "tóc bạc" với kết cấu đối lập giữa
hai câu trên và hai câu dưới chứng tỏ nhà thơ ý thức được cái giới hạn của
đời mình so với cái vô hạn của đất nước mà đem mùa xuân nho nhỏ của đời
mình góp vào mùa xn lớn lao của cuộc đời chung.
Những câu thơ cuối mang đậm dấu ấn của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế.
Nó như tiếng tâm tình thủ thỉ, như tiếng lịng sâu lắng thiết tha, nồng ấm
nghĩa tình:
"Mùa xuân - ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế"

Ta nghe như nhà thơ đang ôm đàn, gõ phách hát lên bài ca mùa xuân, bài ca
sự sống. Phảng phất đâu đây câu ca Nam Bình trên sơng nước Hương
Giang: "Nước non ngàn dặm ra đi, cái tình chi…". Câu ca đó đi vào bài thơ
thật tự nhiên dưới hình thức điệp ngữ và ba vần bằng liên tiếp "bình - mình -


tình" mang âm hưởng trầm trầm, vang vang ngợi ca đất nước mình đâu đâu
cũng đẹp, cũng thắm đượm nghĩa tình. Ngàn dặm vẫn là "mình", vẫn là "tình",
đi đâu cũng khơng ra ngồi hai chữ ấm áp ân tình ấy. Tình yêu quê hương,
tình yêu sự sống từ những câu thơ đã làm xao xuyến lòng người. Tiếng thơ
của một người bỗng trở thành tiếng hát của muôn người.
Thơ viết trên giường bệnh xưa nay không hiếm. Nhưng để cho bài thơ thật sự
sống thay tác giả, ở lại với mọi người, an ủi, động viên mọi người thì phải
nhiều. Ở thế kỷ XI, có bài thơ "Có bệnh bảo mọi người" của thiền sư Mãn
Giác với một hình tượng tuyệt vời:
"Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai"
Nhành mai ấy là biểu tượng của tình yêu, niềm tin cuộc sống đã bất tử ngàn
năm nay.
Với bài "Mùa xuân nho nhỏ", Thanh Hải cũng sẽ sống mãi với chúng ta. Vì
tiếng thơ của ơng đã vượt lên đau khổ, bệnh tật mà ngân nga một niềm tin
yêu cuộc sống mãnh liệt, bất diệt như mùa xn trường cửu. Chính vì vậy
niềm xúc động sâu sắc nhất mà đoạn thơ đưa đến cho ta là một lẽ sống đẹp:
đừng nhỏ nhen, ích kỷ mà phải sống sao để khi nhắm mắt, xi tay có thể nói
được rằng: Tất cả đời ta đã cống hiến cho một sự nghiệp cao đẹp nhất trên
đời!
-> Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất
nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống
hiến cho đất nước, góp một “mùa xn nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn
của dân tộc.

-> Bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với
dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng
tạo.
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn cịn đọng mãi như khơi gợi
trong lịng chúng ta về một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình u
thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến rung động biết
bao trái tim người đọc. Tóm lại, bài thơ thể hiện một dòng cảm xúc dạt dào,
mãnh liệt, hình ảnh sáng đẹp, lời lẽ chân chất, bình dị, khơng một từ nào cầu
kỳ, hào nhống mà có sức truyền cảm đến kì lạ. Có lẽ bởi nó xuất phát từ một


tâm hồn mở rộng, từ niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước mùa xuân đất
nước, từ một tình yêu quê hương lai láng của một con người suốt đời nguyện
hiến dâng cho Tổ quốc. Tuổi trẻ ngày nay dễ bị cuốn hút vào cuộc sống xô bồ
của nền văn minh cơ giới. Thanh Hải đã đưa tâm hồn ta về lại với vẻ đẹp diệu
kỳ của thiên nhiên, của quê hương bằng chính tâm hồn và lẽ sống cao đẹp
của mình.



×