Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 55 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay, những thành tựu của khoa học công nghệ
đã mang lại rất nhiều tiện ích cho con người. Tuy nhiên, sự tiến bộ của công nghệ cũng
mang đến những nguy cơ mới. Thực tiễn đời sống xã hội trên thới giới cho thấy loại tội
phạm trong lĩnh vực CNTT đang trở thành mối nguy hại lớn trên thế giới gây thiệt hại mỗi
năm khoảng 400 tỷ USD1, cao hơn số tiền mà tội phạm buôn bán ma túy thu được. Cứ 14
giây lại có một vụ liên quan đến tấn cơng mạng, Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol đánh giá
loại tội phạm này nguy hiểm thứ hai, chỉ sau tội phạm khủng bố2.
Ở nước ta nói chung, một trong những quốc gia có tốc độ phát triển cao nhất thế giới
trên lĩnh vực CNTT, với hàng chục triệu người sử dụng thường xuyên đang là một “miếng
mồi ngon” cho bọn tội phạm trong lĩnh vực CNTT tấn công. Thời gian gần đây, lực lượng
công an Việt Nam đã triệt phá hàng loạt các vụ án do tội phạm trong lĩnh vực CNTT thực
hiện, qua các vụ án này cho thấy loại tội phạm này ngày càng công khai, táo tợn và tinh vi
hơn. Sự gia tăng cả về số lượng, mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này thực sự đang rất
đáng báo động với rất nhiều vụ tấn công, cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy
tính, mạng Internet, phát tán virus, phần mềm gián điệp, mã độc hại có chủ đích với tính
chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Hình thức tấn cơng rất đa dạng (tấn công từ chối
dịch vụ làm tê liệt hoạt động của trang web bị hại; lợi dụng lỗ hổng bảo mật của các trang
web để chiếm quyền điều khiển máy chủ, sau đó thay đổi giao diện của trang web bị tấn
công; xâm nhập trái phép hệ thống thông tin để thu thập, trộm cắp, sửa đổi dữ liệu hoặc phá
hủy cơ sở dữ liệu của trang web, chiếm đoạt tài sản…)
Thực tế cho thấy trong khoảng 10 năm trở lại đây, tại Việt Nam đã xảy ra nhiều vụ tội
phạm sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm
tội nhằm chiếm đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh và một số tỉnh trên cả
nước như: hình thức huy động vốn theo kiểu “cho - nhận” như vụ Gold 889; bán hàng ảo
1


Trần Đoàn Hạnh, Những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao .
/>2

/>
1


trên mạng (MB 24); chiếm đoạt tài sản của cá nhân thông qua mạng face book, điện thoại di
động… đã để lại hệ lụy không nhỏ với số lượng tiền chiếm đoạt lớn trong một thời gian
ngắn… Mức độ hoạt động của tội phạm không ngừng gia tăng. Chúng thực hiện nhiều thủ
đoạn khác nhau, liên hệ với nhau để trao đổi, tìm các thủ đoạn tinh vi để thực hiện hành vi
một cách tinh vi, các đối tượng đã gây ra nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân; đồng thời gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống của
nhân dân, gây dư luận hoang mang trong nhân dân và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã
hội trên khắp cả nước.
Để xử lý đối với tội phạm sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 của nước ta đã có
quy định về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b). Đến Bộ luật Hình sự năm 2015, đã có
quy định mới tại điều 290 về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, những quy định kể trên của pháp luật hình sự chưa được áp dụng một cách
hiệu quả. Quy định của Bộ luật Hình sự về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn nhiều điểm chưa được hoàn
thiện, chưa phù hợp hơn với thực tế đấu tranh chống loại tội phạm mới này. Vì vậy, hoạt
động điều tra, truy tố tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cịn gặp nhiều khó khăn. Khi đưa ra xét xử thì cũng
chưa thống nhất về định tội danh, và một số trường hợp còn xử lý chưa nghiêm đối với các
hành vi của bị cáo.
Nguyên nhân của những hạn chế kể trên là do nhận thức về tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn chưa
đầy đủ, thiếu những văn bản cụ thể hướng dẫn chi tiết những quy định của điều luật này. Do
đó việc nghiên cứu tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là yêu cầu có tính cấp thiết.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình
2


2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Tội sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản là một loại tội phạm mới, ra đời cùng với nền cơng nghệ cao và có khả năng
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội không bị giới hạn về không gian. Vậy nên, các nước có
nền khoa học cơng nghệ tiên tiến hiện nay đã dành sự quan tâm đáng kể đến việc xây dựng
quy phạm pháp luật làm cơ sở đấu tranh chống tội phạm này, đặc biệt ở Liên minh châu Âu
và Mỹ. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật đã được xây dựng hầu như quy định chế tài ít
nghiêm khắc đối với tội phạm này hoặc điều chỉnh một phạm vi rộng, không phân biệt giữa
tội phạm trong lĩnh vực tin học với các tội phạm truyền thống có liên quan đến tin học…
Cho đến nay, có rất ít cơng trình khoa học tại Việt Nam nghiên cứu về tội sử dụng
mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Các
tác phẩm này có thể chia thành các nhóm như sau:
Thứ nhất là các cơng trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chun khảo, tham khảo, giáo
trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp tri thức lý
luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số cơng trình
tiêu biểu như sách chun khảo: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2 (Phần các tội
phạm)” của Trường Đại học Luật Hà Nội (2015); “Bình Luận Bộ Luật Hình Sự năm 2015,

Phần các tội phạm” của ThS Đinh Văn Quế (2016), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 tập 1” (Nxb Lao động, Hà Nội năm 2009” của TS.
Trần Minh Hưởng và đồng tác giả; So sánh Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự
năm 2015 (Nxb Hồng Đức) của TS. Đỗ Đức Hồng Hà (chủ biên và đồng tác giả). Các cơng
trình trên chủ yếu nêu một cách khái quát và ngắn gọn những dấu hiệu pháp lý cũng như
hình phạt của tội phạm quy định tại điều 226b Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009; cuốn
“Tội phạm trong lĩnh vực Công nghệ thông tin” (Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2007) của TS.
Phạm Văn Lợi và đồng tác giả đã đề cập tới đặc điểm của tội phạm CNTT nói chung, quy
định của các quốc gia và tổ chức trên thế giới trong đó có tội phạm chiếm đoạt tài sản bằng
các thiết bị cơng nghệ cao.
Thứ hai là các cơng trình nghiên cứu thể hiện qua các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
và các cơng trình nghiên cứu trên các tạp chí chun ngành có thể kể đến như: “Tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (điều
3


226B)” - Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Thị Kim Anh bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2013; “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc thiết bị số thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Hảo bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm
2016, “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa
bàn tỉnh Phú Thọ” - Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Hoàng Nam, bảo vệ tại Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017, “Phòng ngừa tình hình tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” - luận văn thạc sĩ luật học của Hà Lập Ninh, bảo vệ
tại Học viện Khoa học xã hội năm 2018, “Phòng ngừa tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ở thành phố Hà Nội” luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Bảo Thoa, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2018.
Về các bài báo khoa học, có thể kể ra “Cảnh báo một số hành vi lừa đảo qua mạng
máy tính, mạng internet hoặc sử dụng các phương tiện điện tử để lừa đảo chiếm đoạt tài

sản” của Nguyễn Đình Trung đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2016. Đề cập tới tội phạm
chiếm đoạt tài sản bằng công nghệ cao có các cơng trình như: Tội phạm cơng nghệ cao dưới
góc nhìn của "cảnh sát bàn phím" của Thiếu tướng Nguyễn Hịa Bình, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục Cảnh sát đăng trên Công an nhân dân online. là người chỉ đạo lực lượng
cảnh sát phịng chống tội phạm cơng nghệ cao; Nhận diện tội phạm sử dụng công nghệ cao
trong quản lý nhà nước và một số giải pháp - của PGS.TS Đàm Thanh Thế , Thư ký, Văn
phịng Chính phủ đăng trên tạp chí điện tử Cảnh sát nhân dân Chuyên đề Thông tin Tôị
phaṃ học - Số 3/2015; “Tội phạm công nghệ thông tin và sự khác biệt giữa tội phạm công
nghệ thông tin với tội phạm thường” của tác giả Đặng Trung Hà, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 3 năm 2009 chủ yếu so sánh tội phạm có sử dụng thiết bị cơng nghệ cao và tội phạm
truyền thống... Có thể nhận thấy tất các các cơng trình trên khơng đề cập cụ thể hay mô tả
chi tiết về các hành vi phạm tội cụ thể liên quan đến sử dụng mạng máy tính, viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài mà chỉ nghiên cứu tội phạm CNTT
dưới góc độ chung chung, đặc biệt là cơng trình nghiên cứu về tội phạm sử dụng mạng máy
tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam. Để góp phần làm rõ thêm dấu hiệu pháp lý đặc trưng của loại
4


tội phạm này, tạo nên sự thống nhất trong cách hiểu làm tiền đề cho hoạt động nghiên cứu
và áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu như trên càng có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội sử dụng
mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Mặt khác, đề tài cũng xác định những điểm bất
cập, chưa hợp lý trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này. Từ đó,

đề tài cũng đề xuất một số giải pháp mang tính thể chế nhằm hồn thiện quy định về các tội
phạm sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản và các giải pháp mang tính thiết chế nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với
loại tội phạm này trên thực tế.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự
năm 2015 (điều 290).
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận tập trung nghiên cứu tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự, cụ thể
là:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nội hàm các khái niệm có liên quan đến tội sử dụng mạng
máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản;
Thứ hai, nghiên cứu lược sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sử
dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản;
Thứ ba, nghiên cứu và đánh giá thực trạng của việc thực thi các quy định của pháp luật
hình sự về tội sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản; phát hiện những vướng mắc và bất cập cần khắc phục trong các quy
5



định của pháp luật về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (điều 290 Bộ luật Hình sự);
Thứ tư, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về
tội sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản;
Thứ năm, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự về tội sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong mối tương quan với cơng tác đấu tranh
phịng và chống tội phạm.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Marx – Lenin.
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể, như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh …
6.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Do Bộ luật Hình sự năm 2015 mới đi vào có hiệu lực ngày 01/01/2018, nên chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu phân tích điều 290 về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Khóa luận tốt nghiệp vì thế
có tính mới, và tính thực tiễn ứng dụng, tổng kết kinh nghiệm trong điều tra, truy tố, xét xử
tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản.
7.


Kết cấu của đề tài

Khóa luận tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Chương 2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự
6


Chương 3. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đề xuất hồn
thiện Bộ luật hình sự về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

7


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ..................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 5
4.1

Đối tượng nghiên cứu................................................................................................... 5

4.2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................ 6

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài............................................................................................ 6
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH,
MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN................................................................................................................... 10
1.1 Khái niệm, đặc điểm của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ............................................................. 10
1.2 Mục đích và ý nghĩa của việc quy định tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Error! Bookmark not defined.
1.3 Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới ............. 15
1.4 Lịch sử lập pháp của Bộ Luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp
luật hình sự ........................................................................................................................... 20
1.4.1

Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999 ................................................................... 20

1.4.2

Giai đoạn từ 1999 đến nay ...................................................................................... 20

8


CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI SỬ DỤNG
MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THƠNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC
HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ............ 27
2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản .................................................................... 27
2.1.1

Chủ thể của tội phạm .............................................................................................. 27

2.1.2

Khách thể của tội phạm........................................................................................... 28

2.1.3

Mặt chủ quan của tội phạm .................................................................................... 31

2.1.4

Mặt khách quan của tội phạm ................................................................................ 33

2.2. Phân biệt tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự với một số tội phạm khác .... 43
2.2.1. Phân biệt với tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự). ............................... 43
2.2.2. Phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật Hình sự). .............. 43
2.3.3. Phân biệt với tội phạm khác trong lĩnh vực công nghệ thơng tin .... Error! Bookmark
not defined.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ KHĨ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP
DỤNG VÀ ĐỀ XUẤT HỒN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SỬ DỤNG
MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THƠNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC
HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ...................................................................... 45
3.1

Thực tiễn áp dụng ...................................................................................................... 45


3.2

Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng .......................................... 46

3.3

Một số đề xuất ............................................................................................................ 49

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 54

9


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY
TÍNH, MẠNG VIỄN THƠNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1

Khái niệm, đặc điểm của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,

phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Trước khi đi vào phân tích khái niệm, đặc điểm của tội phạm sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, cần làm rõ một
số khái niệm có liên quan, như mạng, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, hành vi chiếm
đoạt …
Theo Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/07/2013 của Chính phủ về quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ internet và thơng tin trên mạng, thì: Mạng là khái niệm chung dùng để
chỉ mạng viễn thông (cố định, di động, Internet), mạng máy tính (WAN, LAN) 3. Mạng máy
tính: là tập hợp nhiều máy tính kết nối với nhau, có thể chia sẻ dữ liệu cho nhau. Do hiện

nay mạng máy tính được phát triển khắp nơi với những ứng dụng ngày càng đa dạng cho
nên việc phân loại mạng máy tính là một việc rất phức tạp. Người ta có thể chia các mạng
máy tính theo khoảng cách địa lý ra làm hai loại: Mạng diện rộng (là mạng được thiết lập để
liên kết các máy tính của hai hay nhiều khu vực khác nhau như giữa các thành phố hay các
tỉnh) và Mạng cục bộ (là mạng được thiết lập để liên kết các máy tính trong một khu vực
như trong một toà nhà, một khu nhà).
Theo Luật Viễn thơng năm 2009, thì viễn thơng là “việc gửi, truyền, nhận và xử lý ký
hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng thơng tin khác bằng đường
cáp, sóng vơ tuyến điện, phương tiện quang học và phương tiện điện từ khác”4. Mạng viễn
thông là “tập hợp thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung
cấp dịch vụ viễn thông”5 (là dịch vụ gửi, truyền, nhận và xử lý thơng tin giữa hai hoặc một
nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia
tăng), dịch vụ ứng dụng viễn thông (là dịch vụ sử dụng đường truyền dẫn viễn thông hoặc
mạng viễn thông để cung cấp dịch vụ ứng dụng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, phát

3

Khoản 1, điều 3, Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng
Khoản 1, điều 3, Luật Viễn thông năm 2009
5
Khoản 10, điều 3, Luật Viễn thông năm 2009
4

10


thanh, truyền hình, thương mại, tài chính, ngân hàng, văn hóa, thơng tin, y tế, giáo dục và
lĩnh vực khác)
“Phương tiện điện tử” là một khái niệm mới được đưa vào điều 290 Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), thay cho khái niệm “thiết bị số” tại điều 226b Bộ

luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo khoản 10, điều 4 Luật Giao dịch
điện tử năm 2005, thì phương tiện điện tử là “phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ
điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ
tương tự”. Như vậy, khái niệm phương tiện điện tử bao gồm cả thiết bị số vì theo quy định
tại khoản 11 điều 4 Luật Công nghệ thông tin năm 2006: “Thiết bị số là thiết bị điện tử, máy
tính, viễn thơng, truyền dẫn, thu phát sóng vơ tuyến điện và thiết bị tích hợp khác được sử
dụng để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”6. Những
thiết bị này phải đáp ứng được các yêu cầu là tác động được vào mạng máy tính, mạng viễn
thông hoặc tác động vào được thiết bị số, phương tiện điện tử khác để thực hiện việc chiếm
đoạt được tài sản.
Những khái niệm về mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử nêu trên đã
vạch ra những giới hạn cho một không gian mới: không gian mạng, khơng gian số. Cũng
như các khơng gian hữu hình khác, những không gian này cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ, rủi
ro ảnh hưởng đến đời sống con người. Bên cạnh rất nhiều tiện ích, cơng nghệ thơng tin đã
tạo nên cho con người đã hình thành một khái niệm mới về loại tội phạm - tội phạm về công
nghệ thơng tin hay cịn được biết đến với các tên khác nhau như: tội phạm mạng (cyber
crimes), tội phạm tin học (IT crimes) hay tội phạm liên quan đến máy tính (computer
crimes). Đây là những khái niệm mới khơng chỉ đối với Việt Nam chúng ta mà còn đối với
nhiều nước trên thế giới.
Trong nghiên cứu khoa học, đã từng có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà
nghiên cứu về khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thơng tin. Nổi bật lên có hai
quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: tội phạm tin học bao gồm những tội phạm có sự liên
can, dính líu của máy tính, mạng máy tính và các phương tiện điện tử tới tội phạm với ba
vai trò sau là mục đích của tội phạm; là cơng cụ phạm tội; là vật trung gian để cất giấu, lưu
trữ những thứ đã chiếm đoạt được trong quá trình phạm tội.
6

Khoản 11, điều 4, Luật Công nghệ thông tin năm 2006


11


Theo quan điểm này thì rất nhiều các loại tội phạm truyền thống cũng đều bị coi là tội
phạm công nghệ thông tin hay tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là những tội sử dụng máy
tính, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử làm công cụ, phương tiện
phạm tội, ví dụ như tội lừa đảo qua mạng, tội trộm cắp tài khoản ngân hàng qua mạng, ...
Theo định nghĩa này thì tội phạm cơng nghệ thông tin cũng chỉ là một dạng khác của tội
phạm truyền thống, chỉ là cách thức, hành vi phạm tội tinh vi hơn do có sự tham gia của các
phương tiện, máy móc, thiết bị cơng nghệ cao. Các học giả, luật gia theo quan điểm này cho
rằng: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là việc một người hoặc một nhóm người sử dụng thiết
bị điện tử công nghệ cao qua các mạng máy tính, mạng viễn thơng để thực hiện hành vi lén
lút hoặc lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.
Quan điểm thứ hai cho rằng tội phạm công nghệ thông tin chỉ là tội phạm được thực
hiện và gây hậu quả trên môi trường, trên thế giới ảo do thành tựu của khoa học công nghệ
tin học đem lại hay hiểu đơn giản hơn là trên mạng máy tính, mạng viễn thơng và nó hồn
tồn khác với các loại tội phạm truyền thống trước kia. Nếu chỉ coi tội phạm tin học giới
hạn trong phạm vi thế giới ảo, môi trường điện tử do công nghệ thơng tin đem lại thì đối với
những tội phạm truyền thống, các hành vi phạm tội này khác hẳn về bản chất. Vì vậy, cần
phải có một khung pháp lý và hệ thống quy phạm pháp luật hình sự riêng để điều chỉnh.
Trước đây, Bộ luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam đã đề cập đến quan điểm này.
Nhưng vào thời điểm đó, nền tảng kỹ thuật của nước ta còn lạc hậu, chưa phát triển, nên
mới chi đề cập đến một số tội danh nhất định như: tội tạo ra và lan truyền, phát tán các
chương trình vi-rút tin học (Điều 224); tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và
sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225); tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và
trong máy tính (Điều 226). Đến năm 2009, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ
sung, qua đó, sửa đổi các Điều 224, 225, 226, bổ sung các tội: Tội truy cập bất hợp pháp
vào mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều
226a); Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b).
Năm 2015, với việc thơng qua Bộ luật hình sự mới, Tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chính thức được quy
định tại Điều 290. Quan điểm lập pháp cho điều 290 là liệt kê tất cả các hành vi, thủ đoạn,
12


cách thức phạm tội của tội phạm thực hiện để chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên,
quan điểm này cũng có mặt hạn chế là mặc dù đã nhấn mạnh được việc đưa ra tất cả các
hành vi riêng biệt của tội phạm để chứng minh rằng đây là loại tội phạm mới có hành vi
riêng biệt, nhưng quan điểm này đã miêu tả quá chi tiết về mặt hành vi trong khi một khái
niệm khoa học cần phải ngắn gọn, súc tích và chỉ ra được đầy đủ vấn đề về tội phạm. Mặt
khác, việc quy định quá chi tiết sẽ khiến cho điều 290 nhanh chóng lạc hậu trong bối cảnh
cơng nghề đang tiến bộ chóng mặt.
Trên cơ sở phân tích các quan điểm nói trên, có thể đưa ra khái niệm tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như
sau: Tội sử dụng mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản là hành vi sử dụng các phương tiện trên để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi thực hiện dưới
hình thức lỗi cố ý, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản, được pháp luật hình sự bảo
vệ.
Thực tế tội sử dụng mạng máy tính, viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản có một số đặc điểm nổi bật như sau:
Về phương tiện phạm tội: người phạm tội sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin để
thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản. Đây là đặc điểm cơ bản và quan trọng của tội này.
Vai trò của mạng máy tính, viễn thơng, phương tiện điện tử là khơng thể thiếu được.
Về hành vi, hành vi khách quan của người phạm tội bao gồm hai giai đoạn: (i) giai
đoạn thứ nhất: dùng các thiết bị công nghệ thông tin để tác động vào mạng máy tính, viễn
thơng, phương tiện điện tử; (ii) giai đoạn thứ hai: Tác động đến tài sản của người khác, thực
hiện hành vi chiếm đoạt. Hành vi thực hiện ở giai đoạn thứ nhất tạo điều kiện thuận lợi cho

hành vi ở giai đoạn thứ hai được thực hiện dễ dàng hơn.
Về mục đích: mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt
tài sản là một đặc điểm, một dấu hiệu quan trọng của tội này. Người phạm tội có thể thực
hiện hành vi sử dụng các thiết bị cơng nghệ thơng tin để đạt được nhiều mục đích khác nhau
nhưng hành vi nào thực hiện nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mới là hành vi phạm tội
thuộc điều 290 Bộ luật Hình sự.
Về tài sản chiếm đoạt, đối tượng chiếm đoạt của tội này là các loại tài sản, mà chủ yếu
là các tài sản được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử trên không gian mạng. Khác với các
13


loại tội phạm chiếm đoạt thông thường, đối tượng chiếm đoạt của tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có thể bao
gồm một số tài sản ảo được pháp luật bảo hộ. Tài sản ảo chính là điểm khác biệt của tội
phạm sử dụng mạng máy tính, viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản so với các tội phạm thông thường khác. Tuy chỉ là các đoạn mã, các thông tin thể
hiện được trên máy tính, phương tiện điện tử nhưng các tài sản ảo được sử dụng trong giao
dịch dân sự; có nhiều loại tài sản ảo có thể quy đổi ra thành tiền hay nói một cách khác, tài
sản ảo có thể trị giá được bằng tiền thơng qua những quy tắc quy đổi riêng giữa các chủ thể
giao dịch. Chủ sở hữu cũng có đầy đủ các quyền sở hữu đối với tài sản này.
Về chủ thể, người phạm tội có thể là bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo
quy định của luật hình sự. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của hành vi phạm tội, chủ thể
trực tiếp thực hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao phải là những người có tri thức và kỹ
năng cần thiết để trực tiếp khai thác, sử dụng thiết bị, công cụ, phương tiện công nghệ thông
tin hoặc trực tiếp phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy, trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện
nay, không gian mạng đã trở thành “không gian chiều thứ tư”, nơi diễn ra các hoạt động,
giao dịch ảo, nhưng có thể gây ra tác động to lớn đến đời sống thực.
Bên cạnh những lợi ích to lớn mà cơng nghệ thơng tin mang lại, vẫn cịn đó những
nguy cơ về những phần tử xấu lợi dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ để thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là vấn đề có ý nghĩa toàn cầu, là thách thức an ninh phi
truyền thống đe dọa mọi quốc gia trên thế giới.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh đất nước đang đi lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
xây dựng Chính phủ điện tử, phát triển thành phố thông minh (smart city), quốc gia số.
Việc xác định phòng ngừa tội phạm, đặc biệt đấu tranh chống tội phạm trên mạng là
một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, Việt Nam đã sớm có những bước đi phù hợp cả
về xây dựng pháp luật cũng như thực tiễn thi hành. Trong tình hình nước ta hiện nay, để chỉ
đạo cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số
48/CT/TW về tăng cường sự lạnh đạo của Đảng đối với cơng tác đấu tranh phịng chống tội
phạm trong tình hình mới trong đó đã chỉ rõ mục đích: “trong thời gian tới, cơng tác phịng
chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các loại tội phạm
14


nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình n của nhân dân”.
Trong hồn cảnh đó, thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định về phòng chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản tại điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015 là rất
cần thiết, giúp mở rộng, xác định hành vi và đưa ra những chế tài nghiêm khắc cho những
đối tượng sử dụng thủ đoạn công nghệ thông tin để chiếm đoạt tài sản. Quy định này có ý
nghĩa rất to lớn, trở thành cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh với tội phạm công nghệ
cao, thúc đẩy việc sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng trong xây dựng Chính phủ điện
tử, Quốc gia số, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
1.2

Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Trong những năm qua, khoa học cơng nghệ nói chung và cơng nghệ thơng tin trên
tồn thế giới đã có những sự phát triển vượt bậc. Theo đó, tội phạm trong lĩnh vực cao cũng

dần hình thành và càng ngày diễn biến càng phức tạp, trong khi đó, đặc th của loại tội phạm
này là tính quốc tế và hội nhập nhanh, có xu hướng tổ chức các hành vi tội phạm xuyên
quốc gia gây thiệt hại về tài sản, vật chất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và có thể là chính
phủ. Một trong những cơng cụ để đấu tranh phịng, chống có hiệu quả tội phạm công nghệ
cao là hệ thống các quy định pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật mỗi quốc gia lại quy định khác
nhau tùy theo từng hành vi cụ thể và tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật gây ra
và ph hợp với tình hình của quốc gia mình. Các quốc gia đi tiên phong trong việc quy định
các hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, các thiết bị công nghệ cao để thực
hiện hành vi phạm tội, chiếm đoạt tài sản phải kể đến như: Liên Bang Nga, Nhật Bản, Hoa
Kỳ, Trung Quốc, Đức…
1.2.1. Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự một số nước châu Á
Trong Bộ luật Hình sự năm 1979, sửa đổi bổ sung năm 1997 của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, hành vi làm thẻ giả được quy định trong chương III - tội xâm phạm trật tự
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mục 4 - tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ.
Điều 177 quy định: bất cứ ai vi phạm một trong các hành vi sau đây giả mạo hoặc thay
đổi các hóa đơn tài chính, sẽ bị phạt tù đến năm năm hoặc tạm giam hình sự, bị phạt tiền từ
15


20.000 Nhân dân tệ đến 200.000 Nhân dân tệ; nếu các trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị phạt
tù từ năm năm đến mười năm, bị phạt tiền từ 50.000 nhân dân tệ đến 500.000 nhân dân tệ;
nếu trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm hoặc tù chung thân, và cũng
sẽ bị phạt tiền từ 50.000 nhân dân tệ đến 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài sản: (i)
giả mạo hoặc thay đổi hối phiếu, giấy hẹn trả tiền hoặc séc; (ii) giả mạo hoặc thay đổi
chứng nhận chuyển tài sản từ ngân hàng như giấy chứng nhận ủy thác với hóa đơn thanh
toán, giấy chứng nhận gửi tiền và biên lai tiền gửi; (iii) giả mạo hoặc thay đổi thư tín dụng
hoặc hóa đơn đính kèm và các văn bản, hoặc (iv) làm giả thẻ tín dụng7.
Điều 196 quy định: bất cứ ai đánh cắp thẻ tín dụng và sử dụng nó thì người đó sẽ bị
kết án và trừng phạt theo quy định tại điều 264 của Luật này (Điều 264 của bộ luật này quy

định tội trộm cắp tài sản). Như vậy, luật hình sự Trung Quốc xác định bản chất của hành vi
dùng thẻ rút tiền là hành vi xâm phạm quyền sở hữu8.
Các điều 265, 287 thuộc chương V - Tội xâm phạm tài sản, Bộ luật Hình sự nước
Cộng hịa nhân dân Trung Hoa cũng có quy định về việc sử dụng công nghệ cao để thực
hiện hành vi phạm tội. Điều 265 quy định: Bất cứ ai, với mục đích vì lợi nhuận, lén lút kết
nối đường dây viễn thơng của mình với đường dây của người khác, nhân đôi mã, số viễn
thông của người khác, sử dụng phụ tùng, thiết bị viễn thông trong khi biết rõ rằng nó được
lén lút kết nối với thiết bị viễn thơng của người khác thì bị kết án và trừng phạt theo quy
định tại điều 264 của luật này (tức xử lý như tội trộm cắp tài sản). Điều 287 quy định: Bất
cứ ai sử dụng máy tính để thực hiện những tội ác như gian lận tài chính, hành vi trộm cắp,
tham ơ, biển thủ cơng quỹ và đánh cắp bí mật nhà nước bị kết án và trừng phạt theo các quy
định có liên quan của luật này.
Như vậy, có thể thấy luật hình sự Trung Quốc gián tiếp xác định các hành vi như lừa
đảo, trộm cắp, tham ơ… có sự trợ giúp của máy tính vẫn xử như các tội thơng thường chỉ
khác về tình tiết sử dụng máy vi tính để thấy được bản chất của tội phạm đó là các tội phạm
truyền thống chỉ khác là nó có sự tham gia của máy tính.

7

Dịch từ bản tiếng Anh tại địa chỉ: />8

Dịch từ bản tiếng Anh tại địa chỉ: />
16


Trong Bộ luật Hình sự Nhật Bản, điều 246, khoản 2 quy định: Một người có được
hoặc bằng cách khác được hưởng lợi từ việc tạo ra một bản ghi điện tử sai liên quan đến
việc thu hồi, mất hoặc thay đổi quyền sở hữu; nhập dữ liệu sai hoặc đưa ra các lệnh trái
phép vào một máy tính sử dụng cho việc kinh doanh của người khác; đặt một bản ghi điện
tử sai liên quan đến việc thu hồi, mất hoặc thay đổi quyền sở hữu vào sử dụng cho việc

quản lý các vấn đề của người khác thì sẽ bị phạt tù đến 10 năm.
1.2.2. Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật một số nước châu Âu lục địa
Trong Bộ luật Hình sự năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2012 Liên Bang Nga, chương
22 quy định tội phạm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế. Điều 187 thuộc chương này quy
định về tội sản xuất thẻ tín dụng giả hoặc các thẻ thanh tốn hay các giấy tờ có giá trị thanh
tốn khác: “1.Sản xuất thẻ tín dụng giả hoặc các thẻ thanh tốn hay các giấy tờ có giá trị
thanh tốn khác mà khơng phải là các giấy tờ có giá trị khác thì bị phạt…”. Chương 28
quy định về các tội phạm trong lĩnh vực thông tin máy tính bao gồm có ba dạng hành vi
nhưng khơng có quy định cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thiết bị, máy móc
cơng nghệ thơng tin.
Trong Bộ luật Hình sự của Cộng hịa liên bang Đức, điều 152a quy định hành vi làm
giả thẻ thanh toán, séc và giấy nhận tiền thuộc chương 8 - làm giả tiền và tem có mệnh giá.
Chương 22 quy định nhóm tội lừa đảo và bội tín có hai loại hành vi như sau: điều 263a quy
định tội lừa đảo máy tính: “(1) Người nào với chủ định kiếm cho mình hoặc một người thứ
ba một mối lợi về tài sản của một người khác bằng việc họ tác động vào kết quả của một
q trình xử lí số liệu qua việc thực hiện khơng đúng... vào q trình thiết bị thì bị xử
phạt…”. Điều 165a quy định tội gian lận trong trả tiền: “(1) Người nào gian lận với chủ
định không phải trả tiền khi mua ở máy tự động hoặc khi sử dụng một mạng viễn thơng…
thì bị xử phạt…”. Như vậy, Bộ luật hình sự Đức cũng xác nhận một số dạng hành vi dùng
máy móc và thiết bị công nghệ thông tin để chiếm đoạt tài sản không phải là tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin.

17


1.2.3. Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Anh, Mỹ, và Canada
Trong Bộ luật Hình sự Canada quy định các hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các
phương tiện, thiết bị công nghệ cao được quy định như sau: khoản 1, điều 342 quy định bất

kì người nào mà: (a) ăn cắp thẻ tín dụng; (b) làm giả hay làm sai thẻ tín dụng; (c) chiếm
hữu, sử dụng hay bn bán thẻ tín dụng bình thường hay thẻ tín dụng bị làm giả hay làm sai
mà biết được là nó đã có được, hay làm ra hay thay đổi: (i) thơng qua hành vi phạm tội tại
Canada, hay (ii) thông qua một hành động hoặc khơng hành động ở bất kì nơi nào mà nếu
chúng xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội, hay (d) sử dụng thẻ tín dụng mà biết là nó đã
bị rút lại hay hủy…
Bộ luật Hình sự Canada quy định hành vi sử dụng khơng phép dữ liệu thẻ tín dụng
như sau: Bất kì người nào lừa đảo và khơng có quyền mà chiếm hữu, sử dụng, buôn bán hay
cho phép một người khác sử dụng dữ liệu thẻ tín dụng bất kể là chính thống hay không mà
làm cho một người sử dụng thẻ tín dụng có được các dịch vụ được cung cấp bởi người phát
hành thẻ tín dụng cho người chủ thẻ tín dụng… Đối với loại tội này, Bộ luật Hình sự
Canada còn chỉ rõ hành vi của người chấp nhận các thẻ tín dụng thanh tốn hoặc ghi nợ mà
biết đấy là thẻ giả hoặc thẻ không được phép sử dụng cũng là hành vi phạm tội. Đó là một
tội phạm với hành vi được mô tả rõ ràng. Các hành vi trên đã xâm hại đến tài sản hợp pháp
của người khác và được Bộ luật Hình sự Canada xác định là các tội chống lại quyền về tài
sản thuộc phần IX.
Hoa Kỳ có đạo luật riêng quy định về lạm dụng và lừa đảo thơng qua máy tính đối với
nhiều loại hành vi như: truy cập thông tin bí mật trong hệ thống máy tính của Chính phủ;
chiếm đoạt thơng tin của các tổ chức tín dụng; truy cập trái phép vào hệ thống máy tính của
Chính phủ; sử dụng máy tính để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác; chiếm đoạt
hoặc chuyển nhượng mật mã truy cập vào cơ sở dữ liệu.
Ở Anh, các nhà khoa học chia tội phạm có liên quan đến máy tính ra làm hai loại: 1)
tội phạm truyền thống có sử dụng các cơng cụ, phương tiện là máy tính và thiết bị CNTT.
Việc sử dụng này không làm thay đổi bản chất của tội phạm; 2) tội phạm mang bản chất tội
phạm CNTT tức là thực hiện bằng các máy móc, thiết bị cơng nghệ cao, gây thiệt hại trên
môi trường mạng. Hành vi lừa đảo trên mạng được xếp vào một trong những dạng hành vi
lừa đảo được quy định tại đạo luật về Gian lận năm 2006. Mục 2 của đạo luật này có quy
18



định những hành động sai trái được coi là gian lận trong đó có hành vi sử dụng thư điện tử,
tin nhắn và tin nhắn tức thời (IM - instant message) là công cụ để lừa đảo trong thương mại
điện tử. Phần 5 nêu mục tiêu là nhằm truy cứu những hành vi gửi đi những văn bản, biểu
mẫu tới bất kỳ hệ thống nào hay thiết bị nào một cách tự động mà không cần sự can thiệp
của con người.
Hội đồng Châu Âu về tội phạm mạng là tổ chức có quy mơ lớn nhất và đầu tiên trên
thế giới về chống tội phạm mạng. Đại diện của 26 nước là thành viên Hội đồng Châu Âu
cùng với Mỹ, Canada, Nhật Bản và Nam Phi đã ký phê chuẩn công ước Budapest về tội
phạm mạng tại Budapest, Hungary từ năm 2001. Từ đó đến nay tổ chức khơng ngừng phát
triển và đạt được những thành tựu lớn trong việc hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm
mạng trên thế giới. Cơng ước có hiệu lực năm 2004 và đến nay đã có 48 nước ký kết tham
gia. Một trong bốn vấn đề chủ chốt mà công ước đưa ra bao gồm cả hành vi gian lận, ăn cắp
mã số thẻ tín dụng qua mạng trên tồn thế giới. Chương II của công ước quy định “các biện
pháp cần phải thực hiện ở cấp quốc gia” trong mục 1 - luật hình sự có quy định: nhóm 2 các tội phạm liên quan đến máy tính. Điều 8 của nhóm này quy định hành vi lừa đảo liên
quan đến máy tính như sau: các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện pháp
cần thiết khác để quy định tội phạm trong luật quốc gia mình đối với hành vi được thực
hiện một cách cố ý của người không được phép, gây thiệt hại về tài sản cho người khác
bằng cách… với ý định lừa đảo hoặc khơng trung thực nhằm thu lợi, lợi ích kinh tế mà
khơng được phép cho mình hoặc cho người khác9. Các thành viên của Hội đồng cũng nhất
trí quan điểm: truy tố tội phạm mạng là điều bất khả thi nếu khơng có sự hợp tác xun biên
giới. Internet phát triển nhanh, trong khi các hệ thống pháp luật chậm chạp và rườm rà thủ
tục. internet cho phép khuyết danh, trong khi luật chống tội phạm đòi hỏi phải xác định
nhận dạng kẻ phạm tội… internet có tính tồn cầu, trong khi hệ thống pháp luật giới hạn
trong một lãnh thổ cụ thể. Việc phòng, chống tội phạm chỉ bằng các biện pháp quốc gia là
điều không thể thực hiện trong khơng gian tồn cầu.
Qua nghiên cứu có thể thấy rằng có nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định về nhóm
tội phạm sử dụng CNTT để chiếm đoạt tài sản. Hầu hết các nước đều xếp loại tội chiếm
đoạt tài sản của người khác bằng các thiết bị CNTT vào nhóm tội xâm phạm sở hữu. Việc
nghiên cứu này giúp cho chúng ta biết được quy định của các quốc gia trên thế giới về loại
9


Phạm Văn Lợi (et. al), Tội phạm trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, Nxb Tư pháp, 2007, tr.150

19


tội phạm này và giúp ta có những bài học kinh nghiệm quý báu khi mà loại tội phạm chiếm
đoạt tài sản bằng công nghệ thông tin mới bắt đầu được quy định ở nước ta.
1.3

Lịch sử lập pháp của Bộ Luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự
1.3.1

Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999

Các tội phạm trong lĩnh vực tin học là loại tội phạm còn rất mới mẻ so với chiều dài
phát triển của luật hình sự thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Bộ luật Hình sự năm
1999 lần đầu tiên đưa vào các quy định về tội phạm trong lĩnh vực tin học, thậm chí trước
đó trong các bản dự thảo cuối cùng của Bộ luật cũng chưa xem xét đưa ra vấn đề này.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với các vi phạm trong lĩnh vực tin học được
thể hiện trực tiếp qua Bộ luật Hình sự năm 1999 và hệ thống các văn bản hành chính. Việc
hình sự hóa các vi phạm này thể hiện thái độ nghiêm khắc, kiên quyết không khoan nhượng
của Đảng và Nhà nước ta. Có như vậy mới đảm bảo hạn chế được mặt trái của sự phát triển
công nghệ thông tin.
Tuy nhiên trong giai đoạn này pháp luật hình sự Việt Nam cũng chỉ quy định tội phạm
tin học xâm phạm tới sự an toàn trong hoạt động của mạng máy tính điện tử; vận hành, khai
thác và sử dụng mạng máy tính; xâm phạm vào những quy định về sử dụng thơng tin trên

mạng và trong máy tính được quy định tại các điều Điều 224 - Tội tạo ra và lan truyền, phát
tán các chương trình vi - rút tin học, Điều 225 - Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai
thác và sử dụng mạng máy tính điện tử, Điều 226 - Tội sử dụng trái phép thơng tin trên
mạng và trong máy tính.
Trong giai đoạn này các tội phạm sử dụng phương tiện liên quan đến CNTT như mạng
máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt
chưa được quy định trong BLHS và các cơ quan tố tụng khi giải quyết các tội này thường
áp dụng để xét xử theo Điều 138 BLHS 1999 về tội “trộm cắp tài sản” hoặc Điều 139
BLHS 1999 về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
1.3.2

Giai đoạn từ 1999 đến nay

Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức hịa mạng internet với thế giới; sự phát triển
của CNTT và nhu cầu sử dụng internet của người dân không ngừng tăng cao, theo ước tính
20


hiện nay Việt Nam có gần 50 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ trên 53% dân số, cao
hơn mức trung bình thế giới là 46,64%. Với số lượng người sử dụng internet như vậy,
CNTT, viễn thông đã trở thành những lĩnh vực mà các đối tượng phạm tội tập trung khai
thác, sử dụng để thực hiện tội phạm. So với thế giới, tội phạm sử dụng công nghệ cao nhằm
mục đích chiếm đoạt tài sản tại Việt Nam xuất hiện muộn hơn nhưng lại có những thủ đoạn
tinh vi do tính chất tồn cầu hóa của mạng internet, mạng viễn thơng. Do đó, việc bổ sung
các tội về tội phạm cơng nghệ thơng tin vào Bộ luật Hình sự là hết sức cần thiết. Trong Bộ
Luật Hình sự năm 1999 của nước ta đã có 3 điều luật liên quan đến lĩnh vực công nghệ
thông tin (điều 224, 225, 226).
Tuy nhiên, Tội phạm công nghệ cao lại xuất hiện “rầm rộ” từ năm 2010 trở lại đây, và
ngày càng có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo “Tính chất của tình hình tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao (TPCNC) tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo” của Trung tâm

tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh - Trung ương Hội Luật gia Việt Nam xuất bản
năm 2015 công bố số liệu thống kê giai đoạn từ năm 2010-2014, cho thấy: “Tổng số vụ và
bị cáo tội phạm công nghệ cao là 156 vụ với 612 bị cáo, với tổng số tiền các bị cáo chiếm
đoạt hơn 859 tỷ đồng. Trung bình mỗi năm ở Việt Nam xảy ra 31 vụ án với 122 bị cáo là
TPCNC, mỗi vụ án có khoảng 4 bị cáo tham gia và số tiền bị TPCNC chiếm đoạt mỗi năm
là 172 tỷ đồng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, cứ 1.000 bị cáo tịa án xét xử thì có 01 bị
cáo là TPCNC; tỷ lệ trên là khơng lớn nhưng do TPCNC có sự gia tăng rất nhanh về số
lượng, thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn phạm tội nên đã gây khó khăn cho
việc điều tra, khám phá tội phạm, do đó phần ẩn của tội phạm này là rất lớn, nên mức độ
nguy hiểm và hậu quả của tội phạm gây ra thực sự chưa thể thống kê, đánh giá xác đáng
được. Diễn biến của tình hình TPCNC, qua so sánh định gốc cho thấy xu hướng tăng mạnh
của tình hình tội phạm do TPCNC thực hiện trong những năm qua, nếu lấy năm 2010 là
năm định gốc thì đến năm 2014 TPCNC tăng 269% số vụ và tăng 729% số bị cáo. Dùng
phương pháp so sánh liên kế thấy rõ xu hướng gia tăng liên tục số lượng bị cáo TPCNC
hàng năm trung bình gia tăng so với năm trước là 71,16%”.10

10

Trung tâm tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh - Trung ương Hội Luật gia Việt Nam, “Tính chất của tình hình tội
phạm sử dụng cơng nghệ cao (TPCNC) tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”.
/>
21


Qua đây, có thể thấy rằng: Tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này chính là mối đe
dọa của an ninh chính trị. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã phát hiện nhiều thông tin
mật, nhạy cảm đã bị đánh cắp và nhiều hệ thống thông tin trọng yếu đã bị tấn công hủy diệt,
bởi những tác nhân bên ngồi và bị sử dụng để tấn cơng phá hoại hệ thống cơ sở hạ tầng
trọng yếu có liên quan, chiếm đoạt tài sản và là phương tiện để bọn tội phạm thực hiện các
hành vi phạm tội.

Trước sự gia tăng của loại tội phạm này, các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999
khơng bao qt hết mọi hành vi phạm tội thực hiện thông qua sử dụng công nghệ thông tin,
nhất là các hành vi phạm tội công nghệ cao đang xảy ra một cách phổ biến. Việc thiếu hành
lang pháp lý khiến các cơ quan điều tra - tố tụng gặp lúng túng khi xử lý những vụ việc này.
Để đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này, trên cơ sở dự báo các hành vi
phạm tội liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Bộ Luật Hình sự được Quốc hội thơng qua vào ngày 19/06/2009 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2010 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự tập trung vào việc tiếp
tục hoàn thiện các quy định tại các Điều 224, 225, 226 và bổ sung thêm hai tội mới trong
lĩnh vực cơng nghệ thơng tin. Đó là: Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng viễn thơng, mạng
máy tính, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều 226a) và Tội sử dụng mạng
viễn thơng, mạng máy tính, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản (Điều 226b). Đây chính là những cố gắng của các cơ quan chức năng nhằm tạo ra hành
lang pháp lý ngăn chặn các nguy cơ cao từ lĩnh vực tội phạm công nghệ thông tin. Đặc biệt
Điều 224, 225 và 226 cũng có sửa đổi cơ bản về tên gọi cũng như những hành vi khách
quan trong cấu thành tội phạm của những điều luật này.
Năm 2012, liên ngành Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tư pháp, Bộ thông tin và
truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông
tư liên tịch số 30 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày
10/9/2012 hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và viễn thơng. Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã có
sửa đổi, bổ sung kịp thời các tội phạm liên quan đến lĩnh vực CNTT. Cụ thể như sau: Sửa
đổi, bổ sung các Điều 224, 225, 226 BLHS năm 1999.
Thứ nhất: Về tên gọi của điều luật. Đối với ba tội danh đã được quy định trong Bộ luật
hình sự năm 1999, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật năm 2009 đã bổ xung một
22


số hành vi vào các Điều luật này: Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi rút
tin học (Điều 224) được sửa tên điều luật thành “Tội phát tán vi rút, chương trình tin học có

tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết
bị số”; Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử
(Điều 225) được sửa tên điều luật thành “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet, thiết bị số”; Tội sử dụng trái phép thông
tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226) được sửa tên điều luật thành “Tội đưa hoặc sử
dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet”.
Thứ hai: Một số quy định bổ sung vào các điều luật trên. Việc sửa đổi ba điều luật
nêu trên đều theo hướng thiết kế điều luật cụ thể hơn, rõ ràng hơn, đưa thêm một số hành vi
vào ngay tên gọi của các điều luật như: Theo Điều 224 “Tội tạo ra và lan truyền, phát tán
các chương trình vi rút tin học” chỉ có quy định hành vi tạo ra và lan truyền, phát tán các
chương trình vi rút tin học một cách chung nhất, thì Bộ luật Hình sự sửa đổi đã bổ sung
thêm một cách cụ thể và quy định rõ về “tính năng gây hại” cho cả mạng viễn thông, mạng
Internet, thiết bị số. Điều 225 quy định về các hành vi vi phạm các quy định về vận hành,
khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi và
thay bằng theo hướng cụ thể và mở rộng hơn đó là thay thế cụm từ “khai thác”, “sử dụng”
bằng cụm từ “cản trở” hoặc “gây rối” khơng chỉ đối với mạng máy tính mà cịn cả đối với
cả mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số. Tương tự như vậy, tại Điều 226 cũng được
bổ sung thêm hành vi sử dụng trái phép thông tin trên mạng viễn thơng, mạng Internet.
Ngồi ra, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng đưa thêm vào cấu thành
tăng nặng một số tình tiết định khung như "có tổ chức", "tái phạm nguy hiểm", "đối với hệ
thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thơng tin phục vụ an ninh, quốc phịng"
(Điều 224, khoản 2 và khoản 3); "Lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn
thơng, mạng Internet”, "Đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước, hệ thống thơng tin
phục vụ an ninh quốc phòng", "Đối với cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin
điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng, hệ thống thơng tin
điều khiển giao thơng" (Điều 225, khoản 2 và khoản 3); "Lợi dụng quyền quản trị mạng
máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet". "Thu lợi bất chính từ một trăm triệu đồng trở
lên" (Điều 226). Cả ba điều luật này đều được sửa đổi theo hướng tăng nặng hình phạt tiền
từ “năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng" lên từ “hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu
23



đồng” (khoản 1 Điều 224, và 225) và từ “năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng” lên "từ
mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng" (khoản 1 điều 226). Hình phạt tiền là hình phạt
bổ sung của Điều 224 và 225 khơng có sự sửa đổi so với luật cũ, nhưng hình phạt tiền là
hình phạt bổ sung của Điều 226 đã nâng từ "ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng" lên "từ
hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng".
Thứ ba: Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 đã tội phạm hóa một số hành vi
thành các tội độc lập quy định tại Điều 226a và 226b, cụ thể:
Điều 226a. Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng
Internet hoặc thiết bị số của người khác quy định: Người nào cố ý vượt qua cảnh báo, mã
truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác
truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số
của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của thiết bị số;
lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ, thì bị phạt
tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ….
Điều 226b. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị
số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản quy định: Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi sau đây, thì bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm
năm: a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để
chiếm đoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh
tốn hàng hóa, dịch vụ; b) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; c) Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy
động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của
cơ quan, tổ chức, cá nhân; d) Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức,
cá nhân11.
Kể từ ngày 01/01/2018, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chính
thức có hiệu lực, đánh dấu một bước tiến mới trong xây dựng cơ sở pháp lý để đấu tranh
với tội phạm công nghệ cao. Kế thừa quy định tại điều 226b của Bộ luật Hình sự 1999 (sửa

11

Nguyễn Hồng Nam, “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ”, luận văn thạc sỹ luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017

24


đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có quy định tại Điều 290 về tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản:
“Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử thực
hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để
chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài
sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm
đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động
vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07
năm:
a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Có tính chất chun nghiệp;
d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
25


×