Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Luận văn ck 2 a hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 112 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) được mệnh danh là “kẻ giết người thầm lặng” và đang
ngày càng phổ biến trong cộng đồng và chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước trên thế giới
cũng như ở Việt Nam. THA nguyên phát hay vô căn hay gọi là bệnh THA chiếm
gần 90% trường hợp bị THA. Theo WHO dự báo đến năm 2025 thế giới có
khoảng 1,56 tỷ người bị tăng huyết áp, trong đó khu vực Đơng Nam Á hàng năm
có khoảng 1,5 triệu người chết do tăng huyết áp, ở Việt Nam theo thống kê của
WHO năm 2008 thì tỷ lệ tăng huyết áp nguyên phát chiếm 26,1%. Tại Hoa Kỳ 50
triệu người THA, các nước phát triển 20-25% các nước đang phát triển 11-15%.
Tỷ lệ này gia tăng đáng quan tâm vì trước năm 1975 tỷ lệ này ở Miền Bắc Việt
Nam chỉ có 1-3% (Đặng Văn Chung) Theo một điều tra gần đây nhất (2008) của
Viện Tim mạch Việt Nam thì tỷ lệ THA ở người lớn (≥ 25 tuổi) là 25,1% . Toàn
thế giới hơn 1 tỷ người THA, THA là một bệnh trầm trọng 7,1 triệu người tử vong/
năm = 20.000 người/ngày. Tăng huyết áp ảnh hưởng đến hàng triệu người ở Hoa
Kỳ, và ít hơn một nửa số người bị tăng huyết áp có điều kiện kiểm soát [36].
Tăng huyết áp nguyên phát đã trở thành một vấn đề về sức khoẻ cộng đồng
được quan tâm trong những năm gần đây, bởi tăng huyết áp thường gây ra những
biến chứng như: đột quỵ não (ĐQN), bệnh động mạch vành… làm tàn phế hoặc tử
vong cho người bị bệnh. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ hội chứng
chuyển hóa ở bệnh nhân tăng huyết áp tương đối cao (khoảng 50-70%). Đồng thời
ở bệnh nhân tăng huyết áp có hội chứng chuyển hóa nguy cơ tổn thương các cơ
quan đích và bị bệnh tim mạch, bệnh động mạch vành cao hơn so với bệnh nhân
tăng huyết áp khơng có hội chứng chuyển hóa. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nghiên cứu
các tổn thương cơ quan đích ở bệnh nhân tăng huyết áp có hội chứng chuyển hóa
cịn chưa được quan tâm nhiều.
Hội chứng chuyển hoá (HCCH: metabolic syndrome) là sự tập hợp của
nhiều triệu chứng gồm: sự bất thường glucose máu, tăng huyết áp (THA), kháng
insulin, béo phì (béo bụng) và rối loạn lipid máu (RLLP) máu... và đang có xu



2

hướng tăng nhanh ở nhiều quốc gia nhất là ở các nước phát triển và đang phát
triển. Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF: International
Diabetes Federation - 2006) ở Việt Nam tỷ lệ hội chứng chuyển hóa chiếm 18,5%.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO: World Health
Organization) năm 2008: hàng năm có 17,3 triệu người chết do bệnh tim mạch
(BTM), tử vong do bệnh tim mạch cao ở các nước đang phát triển và chậm phát
triển (gần 80%). Dự đoán đến năm 2030 có khoảng 23,6 triệu người chết do mắc
bệnh tim mạch. Nhiều nghiên cứu cho thấy hội chứng chuyển hóa có mối liên quan
chặt chẽ đến bệnh tim mạch nói chung và bệnh động mạch vành (ĐMV) nói riêng
theo thang điểm Framingham, khi người có hội chứng chuyển hóa bị mắc bệnh tim
mạch, bệnh động mạch vành thì nguy cơ cao liên quan đến tử vong và tàn phế.
Lakka HM và CS (2002) nghiên cứu 1209 người nam giới có tuổi từ 42-60 thấy tỷ
lệ chết do bệnh động mạch vành và bệnh tim mạch ở người có hội chứng chuyển
hóa cao gấp 3,77 và 3,55 lần so với người khơng có hội chứng chuyển hóa [67].
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu dịch tễ học lớn nhằm đưa ra một cơng thức
tính tốn nghiên cứu bệnh mạch vành và bệnh tim mạch nói chung dựa trên các
yếu tố nguy cơ như thang điểm Framingham thang điểm SCORE, thang điểm
PROCAM. Nhưng hiện nay trên thế giới thang điểm Framingham được sử dụng
phổ biến nhất. Cơ sở thang điểm Framingham dựa vào 6 yếu tố nguy cơ (Tuổi,
giới, hút thuốc lá, tăng huyết áp, cholesterol, HDL-C).
Sự phát triển về kinh tế kéo theo thói quen chế độ ăn nhiều năng lượng, lối
sống tĩnh tại cùng các yếu tố nguy cơ khác làm cho tỷ lệ bệnh tăng huyết áp có xu
hướng gia tăng trong những năm gần đây. Xuất phát từ các vấn đề trên, chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hội chứng chuyển hóa và ước
tính nguy cơ bệnh động mạch vành theo thang điểm Framingham ở bệnh
nhân tăng huyết áp nguyên phát điều trị tại Bệnh viện Quân y 175”.
Nhằm 2 mục tiêu:

1. Khảo sát đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tăng huyết áp
nguyên phát điều trị tại Bệnh viện Quân y 175.
2. Ước tính nguy cơ bệnh động mạch vành ở bệnh nhân tăng huyết áp
nguyên phát có hội chứng chuyển hóa.


3


4

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.

Tăng huyết áp nguyên phát ở người lớn tuổi
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh lý tim mạch thường gặp trong cộng

đồng. Tăng huyết áp có thể gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm như nhồi
máu cơ tim, nhồi máu não, xuất huyết não, suy tim, phình tách thành động
mạch chủ, suy thận, mù lòa. Tăng huyết áp là căn bệnh diễn tiến âm thầm, ít
có dấu hiệu cảnh báo. Những dấu hiệu của THA thường không đặc hiệu và
người bệnh thường khơng thấy có gì khác biệt với người bình thường, do đó
THA được coi là “kẻ giết người thầm lặng” [11].
1.1.1. Dịch tễ học tăng huyết áp
1.1.1.1. Tần suất
THA là yếu tố nguy cơ tim mạch thường gặp nhất, nhưng tần suất chưa
được kiềm soát tốt huyết áp còn cao. Cơ chế bệnh sinh của THA chưa rõ ràng, đa
yếu tố, trong đó liên quan đến rối loạn chức năng nội mạc mạch máu. Tăng acid
uric huyết thanh xảy ra ở người THA độ 2 cao hơn độ 1 và tăng với chiều dài thời

gian biết THA, và xảy ra ở hội chứng chuyển hóa. Do đó, có thể nói acid uric,
được xem là yếu tố nguy cơ độc lập tiên đoán THA và tiên lượng độ nặng THA,
đặc biệt ở THA có hội chứng chuyển hóa [5].
Tăng huyết áp là triệu chứng của nhiều bệnh, nhiều nguyên nhân nhưng có
thể là một bệnh, bệnh tăng huyết áp nếu khơng tìm thấy ngun nhân. Theo số
liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, Tăng huyết áp (THA) ảnh hưởng đến sức
khỏe của hơn 1 tỷ người trên toàn thế giới và là yếu tố nguy cơ tim mạch quan
trọng nhất liên quan đến bệnh mạch vành, suy tim, bệnh mạch máu não và bệnh
thận mạn tính.
Bệnh tăng huyết áp (THA) là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, là mối đe dọa rất lớn đối với sức khoẻ của con người, là nguyên nhân gây tàn
phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi. Trong số các trường hợp mắc


5

bệnh và tử vong do tim mạch hàng năm có khoảng 35% - 40% nguyên nhân do
THA [2].
Tại Việt Nam, tỷ lệ tăng huyết áp cũng gia tăng nhanh chóng: Kết quả
điều tra dịch tễ học của Viện Tim mạch Trung Ương tại 8 tỉnh, thành phố của
cả nước năm 2008 cho thấy tỷ lệ người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên bị tăng
huyết áp là 25,1%. Theo điều tra quốc gia gần đây (2015) của Cục Y tế dự
phòng - Bộ Y tế ở người trưởng thành từ 18 - 69 tuổi tại 63 tỉnh/thành phố
cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp là 18,9% [29].
Nếu trong thập kỷ 60, tỷ lệ tăng huyết áp là khoảng 1% thì đến năm 1992 tỷ
lệ này là 11,2%, năm 2001 là 16,3% và năm 2005 là 18,3%. Kết quả nghiên cứu
gần đây nhất cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở người từ 25 tuổi trở lên là 25,1%.
Trong số những người có tăng huyết áp có tới 51,6% khơng biết mình bị tăng
huyết áp, 38,9% biết mình có tăng huyết áp nhưng khơng điều trị và 63,7% có điều
trị nhưng chưa kiểm soát được [7].

Năm 2005, trong số 17,5 triệu người tử vong do các bệnh tim mạch thì tăng
huyết áp là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong của 7,1 triệu người. Tăng huyết áp
là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh toàn cầu
(12,7%), cao hơn các nguyên nhân khác như sử dụng thuốc lá (8,7%) hay tăng
đường máu (5,8%). Tần suất tăng huyết áp nói chung trên thế giới là khoảng 41%
ở các nước phát triển và 32% ở các nước đang phát triển.
Ở các nước Châu Âu - Bắc Mỹ tỷ lệ tăng huyết áp trong nhân dân chiếm 15
- 20% ở người lớn. Cụ thể như sau: Benin 14%- Thái lan: 6.8%- Zaire:14%- Chile:
19-21%, Portugaise: 30%, Hoa kỳ: 6-8%. Nhìn chung tỉ lệ rất thay đổi.
Trong một nghiên cứu tương tự ở Canada về các nhóm dân tộc khác nhau
giữa năm 1979 và năm 1993, người Nam Á có tỷ lệ tử vong do CHD cao nhất so
với các cá thể người gốc Trung Quốc và Châu Âu. Nhiều nghiên cứu khác về dân
số Nam Á di cư cho thấy tăng gấp ba đến năm lần nguy cơ nhồi máu cơ tim và tử
vong do tim mạch khi so sánh với các nhóm dân tộc khác [41].


6

Tại Việt Nam, tần suất tăng huyết áp ở người lớn ngày càng gia tăng. Trong
những năm 1960 tỷ lệ tăng huyết áp là khoảng 1%, năm 1992 là 11,2%, năm 2001
là 16,3% và năm 2005 là 18,3%. Theo một điều tra gần đây nhất (2008) của Viện
Tim mạch Việt Nam tiến hành ở người lớn (≥ 25 tuổi) tại 8 tỉnh và thành phố của
nước ta thì thấy tỷ lệ tăng huyết áp đã tăng lên đến 25,1% nghĩa là cứ 4 người lớn
ở nước ta thì có 1 người bị Tăng huyết áp. Với dân số hiện nay của Việt Nam là
khoảng 88 triệu dân thì ước tính sẽ có khoảng 11 triệu người bị tăng huyết áp.
Trong số những người bị tăng huyết áp thì có tới 52% (khoảng 5,7 triệu người) là
khơng biết mình có bị tăng huyết áp; 30% (khoảng 1,6 triệu người) của những
người đã biết bị tăng huyết áp nhưng vẫn khơng có một biện pháp điều trị nào; và
64% những người đó (khoảng 2,4 triệu người) tăng huyết áp đã được điều trị
nhưng vẫn chưa đưa được huyết áp về số huyết áp mục tiêu. Như vậy hiện nay

Việt Nam có khoảng 9,7 triệu người dân hoặc là không biết bị tăng huyết áp, hoặc
là tăng huyết áp nhưng không được điều trị hoặc có điều trị nhưng chưa đưa được
số huyết áp về mức bình thường. cao hơn hẳn so với 30% bệnh nhân tăng huyết áp
không được điều trị về mặt dược lý, và 46% bệnh nhân tăng huyết áp dưới sự kiểm
soát tại Mỹ [36].
Tăng huyết áp tại Việt nam với tần suất ngày càng gia tăng khi nền kinh tế
phát triển. Các số liệu thống kê điều tra tăng huyết áp cho thấy: năm 1960 (Đặng
Văn Chung và cộng sự) tăng huyết áp chiếm tỷ lệ 1,0%, năm 1982 (Phạm Khuê và
cộng sự) là 1,9%, năm 1992 (Trần Đỗ Trinh và cộng sự) tăng lên 11,2%, năm
2002 ở niềm Bắc là 16.3% và gần đây nhất của Viện Tim Mạch Quốc Gia Việt
Nam, điều tra trên 8 tỉnh ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam (năm 2008) đã là 25,1%.
Thực trạng hiểu biết và kiểm soát tăng huyết áp cũng rất đáng quam tâm. Năm
1992, Trần Đỗ Trinh khảo sát trên 1.716 người bị tăng huyết áp thì 67,5% không
biết bệnh, 15% biết bệnh nhưng không điều trị, 13,5% điều trị nhưng thất thường
và không đúng cách, chỉ có 4% là điều trị đúng. Năm 2001, Nguyễn Thị Tâm,
Nguyễn Thị Trúc khảo sát 1.582 người từ 18 tuổi trở lên tại tỉnh Tiền Giang, thấy
có 16,1% chưa từng được đo huyết áp, 58,7% có đo huyết áp nhưng không nhớ trị


7

số huyết áp của mình, 10,3% biết đo huyết áp nhưng khơng kiểm tra thường xun
và chỉ có 14,3% có ý thức kiểm tra huyết áp định kỳ. Năm 2002 Phạm Gia Khải và
cộng sự điều tra 5.012 người từ 25 tuổi tở lên ở 4 tỉnh miền Bắc Việt Nam ( Nghệ
An, Hà Nội, Thái Bình, Thái Nguyên) kết quả là 23% biết đúng các yếu tố nguy cơ
của bệnh tăng huyết áp (béo phì, uống nhiều rượu, hút thuốc lá, căng thẳng trong
cuộc sống, ăn nhiều mỡ động vật, ăn mặn, ít hoạt động thể lực), trong vùng thành
thị hiểu đúng chỉ 29,5% [22].
Xem xét chi phí chăm sóc sức khoẻ tăng lên và tác động của chúng lên nền
kinh tế, điều quan trọng là phải hiểu được tương lai của tỷ lệ và chi phí bệnh tim

mạch ở Hoa Kỳ. Hiện tại, bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở
Hoa Kỳ và chiếm 17% tổng chi phí y tế quốc gia. Chi phí y tế của Hoa Kỳ là cao
nhất trên thế giới và tăng từ 10% trong tổng sản phẩm trong nước năm 1985 lên
15% tổng sản phẩm trong nước năm 2008. Trong thập kỷ qua, chi phí theo chủ đề
của bệnh tim mạch đã tăng với tốc độ hàng năm là 6% và đã chiếm 15% chi phí y
tế gia tăng. Sự tăng trưởng về chi phí đã đi kèm với tuổi thọ cao hơn, cho thấy chi
tiêu này có giá trị. Mặc dù có xu hướng này nhưng vẫn có nhiều cơ hội để cải thiện
sức khoẻ tim mạch đồng thời kiểm sốt chi phí [55].
1.1.1.2. Ngun nhân THA
Phần lớn tăng huyết áp (THA) ở người trưởng thành là không rõ nguyên
nhân (THA nguyên phát), chỉ có khoảng 10% các trường hợp là có nguyên nhân
(THA thứ phát) [1][2].
- Tăng huyết áp thứ phát:
+ Bệnh thận: Viêm cầu thận cấp, viêm cầu thận mạn hai bên do mắc phải
thận đa năng, ứ nước bể thận, u thận làm tiết rénin, hẹp động mạch thận...
+ Nội tiết:
+ Bệnh vỏ tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, hội chứng Conn, u sản
xuất quá thừa các Corticosteroid khác (Corticosterone, desoxycortisone), sai lạc
trong sinh tổng hợp Corticosteroid.
+ Bệnh tủy thượng thận, u tủy thượng thận (Pheochromocytome).


8

+ Bệnh tim mạch: Bệnh hẹp eo động mạch chủ, viêm hẹp động mạch chủ
bụng cho xuất phát động mạch thận, hở van động mạch chủ.
+ Thuốc: Các Hormone ngừa thai, cam thảo, carbenoxolone, A.C.T.H.
Corticoides, Cyclosporine, các chất gây chán ăn, các IMAO, chất chống trầm cảm
vòng.
+ Nhiễm độc thai nghén.

+ Các nguyên nhân khác: Bệnh cường giáp, bệnh Beri-beri. Bệnh Paget
xương, bệnh đa hồng cầu, hội chứng carcinoid, toan hô hấp, tăng áp sọ não...
1.1.1.3. Các yếu tố nguy cơ tăng huyết áp
Một số nhân tố quan trọng gây tăng huyết áp đã được xác định, bao gồm cả
khối lượng cơ thể thừa; lượng muối ăn vào thừa; giảm hoạt động thể chất; thiếu ăn
trái cây, rau quả và kali; và lượng cồn thừa [39]. Bên cạnh đó, bệnh nhân là nữ
giới cũng chiếm tỷ lệ lớn hơn. Trong nghiên cứu của Nguyễn Hoài Thanh Tâm,
trên 9891 bệnh nhân tăng huyết áp điều trị ngoại trú của tháng 3 năm 2014, tỉ lệ
bệnh nhân nữ chiếm đa số với 61,71% [13].
+ Tăng glucose máu:
Bệnh ĐTĐ typ 2 hay đi cùng với THA (khoảng 30-50% bệnh nhân ĐTĐ typ
2 bị THA, những bệnh nhân này thường béo. Ngược lại, xét nghiệm glucose máu
thấy tăng ở 1/3 số bệnh nhân THA). Một số nghiên cứu cũng thấy ở người giảm
dung nạp glucose cũng liên quan đến THA.
+ Rối loạn lipid (RLLP) máu:
Được gọi là RLLP máu khi có rối loạn một hoặc nhiều thành phần sau: tăng
cholesterol toàn phần (TC: Total cholesterol), tăng triglyceride (TG), tăng
lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C: Low Density Lipoprotein cholesterol), giảm
lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C: High Density Lipoprotein cholesterol)…
Chẩn đoán RLLP máu khi:
- TC: ≥ 5,2 mmol/l.
- TG: ≥ 2,3 mmol/l.
- HDL-C: < 0,9 mmol/l.


9

- LDL-C: ≥ 3,4 mmol/l.
Theo NC Framingham, RLLP máu là yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh
mạch vành. Trong NC tỷ lệ RLLP máu khá cao ở các bệnh nhân có tổn thương cơ

quan đích như tim và não. Với sự phối hợp RLLP máu và tăng huyết áp, bệnh
nhân càng có nhiều nguy cơ về sau [30].
+ Thừa cân và béo:
Béo là yếu tố nguy cơ cao của THA. Bởi vì, béo làm tăng các yếu tố như:
tăng acid béo tự do, tăng glucose máu, kháng insulin và làm nảy sinh ra các
cytokine như: leptin, yếu tố hoại tử u (TNFα: tumor necrosis factor alpha),
adiponectin… làm THA. Theo tiêu chuẩn của WHO áp dụng cho khu vực châu ÁThái Bình Dương (2000) khi đối tượng có chỉ số khối cơ thể (BMI: body mass
index) ≥ 23kg/m2 được gọi là thừa cân và béo; chẩn đoán béo bụng khi đối tượng
có vịng bụng (VB) tăng (ở nam giới ≥ 90 cm, nữ giới ≥ 80 cm); hoặc tỷ lệ
VB/vòng mông (WHR: waist hip ratio) tăng (ở giới nam ≥ 0,9 và nữ ≥ 0,85) được
gọi là béo bụng. Nhiều nghiên cứu thấy tỷ lệ THA tăng ở người thừa cân và béo
(BMI ≥ 23kg/m2) hoặc béo VB. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ thừa cân, béo
phì của đối tượng nghiên cứu theo chỉ số BMI lần lượt là 15% và 10%, tỷ lệ thừa
cân béo phì ở nữ cao hơn nam có thể do phụ nữ khi lớn tuổi có sự thay đổi nội tiết
làm tích mỡ nhiều hơn. Những cơng việc ít sử dụng cơ bắp và sử dụng nhiều thức
ăn nhanh giàu năng lượng khiến cho thừa cân và béo phì có xu hướng phổ biến và
tăng nhanh trong dân số các nước đang phát triển. Tỷ lệ thừa cân và béo phì của
dân số những người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải là cao so với tỷ lệ thừa cân béo
phì 12,5% của Việt Nam [27].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng, những người có chỉ số BMI
càng lớn thì tỷ lệ tăng huyết áp càng cao. Tỉ lệ tăng huyết áp ở nhóm có tiền sử đái
tháo đường là 62,5% cao hơn hẳn nhóm khơng có tiền sử đái tháo đường là 33,1%.
Số người có vịng eo > 90 cm ở nam và > 80 ở nữ có tỉ lệ tăng huyết áp cao hơn
nhóm có vịng eo dưới 90 cm ở nam và dưới 80 ở nữ [16].
+ Kháng insulin:


10

Kháng insulin (insulin resistance: IR) có mối liên quan chặt chẽ đến THA.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, ở người tăng nồng độ insulin hay kháng insulin thì
thấy THA nhiều hơn người khơng kháng insulin [61].
+ Thói quen hút thuốc lá (HTL):
Trong thành phần thuốc lá có nicotin có tác dụng chủ yếu làm co mạch
ngoại biên, làm tăng nồng độ serotonin, catecholamin ở não, tuyến thượng thận
làm THA. Hút một điếu thuốc lá, huyết áp tâm thu (HATT) có thể tăng lên tới 11
mmHg, huyết áp tâm trương (HATTr) tăng lên đến 9 mmHg, kéo dài 20 – 30 phút.
Hút thuốc nhiều có thể có cơn THA kịch phát,. Phạm Gia Khải và CS (1999) đã
tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng nghiện thuốc lá tại Hà Nội, có 1450 người
chiếm tỷ lệ 19,03% (nam: 1399 người chiếm 96,48%; nữ: 51 người chiếm 3,51%).
Số điếu hút trung bình là 22,14  4,7 điếu/ngày tức khoảng 1 bao (20
điếu)/ngày/người. Tỷ lệ THA chung ở nhóm những người nghiện thuốc lá là
15,86%.
+ Tuổi cao:
Lứa tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc bệnh càng cao [20]. THA tăng dần theo tuổi,
ở Hoa Kỳ độ tuổi ≥ 65 năm có tỷ lệ THA cao nhất (69,7%) và thấp nhất là độ tuổi
(18-39 năm) chiếm 7,4%. Tuổi càng cao thì tỷ lệ THA càng nhiều, do thành động
mạch bị lão hóa và xơ vữa làm giảm tính đàn hồi và trở nên cứng hơn vì thế làm
cho HATT tăng cao hơn cịn gọi là THA tâm thu đơn thuần.
Trong nghiên cứu của Hoàng Cao Sạ, trong 346 bệnh nhân THA trên 60
tuổi(71.7%); tuổi trung bình 66.72 ± 11.26, thấp nhất 35 tuổi và cao nhất 96 tuổi
[6].
Trong mẫu nghiên cứu của Doãn Thị Thu Hương có 264 bệnh nhân. Tuổi
nhỏ nhất trong mẫu nghiên cứu là 45, lớn nhất là 84 tuổi. Như vậy độ tuổi của mẫu
nghiên cứu phù hợp với đặc điểm về lứa tuổi thường bị mắc đái tháo đường typ 2
(>40 tuổi). Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 63,3(±8,6) năm là độ tuổi được
xếp vào lớp tuổi già theo WHO, trong đó số bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm đến 2/3
mẫu nghiên cứu [4].



11

+ Ăn mặn:
Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều muối (natri chlorua)
thì tần suất mắc bệnh THA tăng cao rõ rệt. Người dân ở vùng biển có tỷ lệ mắc
bệnh THA cao hơn nhiều so với những người ở đồng bằng và miền núi. Hạn chế
ăn muối < 6 gram/ngày hay 100 mmol/ngày có thể giảm từ 2-8 mmHg.
+ Lối sống tĩnh tại: ít vận động thể lực dễ béo phì gây THA. Nếu tập thể
dục, nhất là đi bộ nhanh (30-45 phút/ngày) có thể giảm 4-10 mmHg, ngay cả khi
bệnh nhân khơng giảm cân.
+ Có nhiều stress (căng thẳng, lo âu quá mức): căng thẳng thần kinh, stress
làm tăng nhịp tim. Dưới tác dụng của các chất trung gian hóa học là Adrenalin,
noradrenalin làm động mạch bị co thắt dẫn đến THA. Hơn nữa nhiều nghiên cứu
cho rằng những người căng thẳng về tâm lý được lặp đi lặp lại có thể làm phát
triển THA nhiều hơn những người khơng có căng thẳng. Stress khơng những làm
giảm bài tiết natri do sự hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm, mà cịn có liên quan đến
bệnh học THA bởi nhiều cơ chế khác nhau [20].
+ Uống nhiều bia, rượu: > 30 ml ethanol/ngày; > 720 ml bia.
+ Café: uống café thường xuyên cũng gây THA.
+ Ăn nhiều chất đạm, mỡ.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Ngọc cho thấy tỷ lệ
người THA sống độc thân là 44,4% , sống cùng vợ/chồng tỷ lệ THA
là 47,6% cao hơn nhóm sống một mình là 1,14 lần, tỷ lệ này ở
nhóm NCT mà sống cùng con cháu là 43,6%, thấp hơn nhóm THA
mà sống độc thân 0,66 lần. Những người lao động chân tay có tỷ
lệ THA 35,7%, lao động trí óc là 50% cao hơn nhóm lao động chân
tay gấp 1,8 lần. Những đối tượng nghỉ ngơi có tỷ lệ THA là 36,7%
so với nhóm lao động chân tay. Tỷ lệ THA ở người có thói quen ăn
mặn là 38,1%, người không ăn mặn là 36,8%, ở người không có
thói quen uống rượu, bia là 36,5%, ở người có thói quen này là

50,0%, ở người khơng có thói quen hút thuốc là 37,4%, người có


12

thói quen hút thuốc thì tỷ lệ thấp hơn 0,84 lần nhưng khơng có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Tỷ lệ THA ở nhóm người
khơng có thói quen ăn mỡ động vật là 35,2%, nhóm người có thói
quen ăn mỡ động vật là 50%, ở người khơng có thói quen tập thể
dục trên 30 phút mỗi ngày là 43,7%, ở người có thói quen tập thể
dục trên 30 phút một ngày là 34,5% [14].
1.1.2. Chẩn đoán tăng huyết áp
Theo khuyến cáo của Uỷ ban THA quốc tế của Hoa Kỳ (JNC: Joint National
Committee) VII thì đối tượng được gọi là THA khi: HATT ≥ 140 mmHg và/hoặc
HATTr ≥ 90 mmHg. Phân độ THA theo JNC VII (2003), theo khuyến cáo Hội tim
mạch học Việt Nam (2010) [1],[2],[8],[22]:

1.1.3. Tổn thương cơ quan đích do tăng huyết áp
1.1.3.1. Tổn thương tim
- Phì đại thất trái: phì đại đồng tâm hay lệch tâm; chủ yếu là phì đại vách
liên thất và thành sau thất trái, gây tăng khối lượng cơ thất trái và chỉ số khối
lượng cơ thất trái.
- Suy chức năng tâm trương thất trái (giảm khả năng đổ đầy máu về buồng
thất trái), sau đó là suy chức năng tâm thu thất trái (giảm khả năng tống máu của
thất trái: EF% < 40%). Đến giai đoạn sau sẽ xuất hiện suy cả chức năng tâm thu và
suy cả chức năng tâm trương mức độ nặng.
- Rối loạn nhịp tim (LNT) hay gặp như: ngoại tâm thu thất; nhanh thất,
rung thất gây đột tử…



13

- THA thường kèm theo vữa xơ ĐMV gây đau thắt ngực hoặc NMCT.
- Động mạch chủ vồng cao, nếu kết hợp vữa xơ động mạch có vơi hố cung
động mạch chủ; phình, giãn, bóc tách động mạch chủ (theo các típ của Debakey),
động mạch chậu và động mạch chi dưới.
Điện tim được coi là một chỉ định thường quy trên bệnh nhân THA, bởi điện
tim có thể phát hiện thiếu máu cơ tim (TMCT), rối loạn dẫn truyền, LNT. Ngoài ra
điện tim phát hiện được độ dày thất trái thơng quan chỉ số SokolowLyons. Siêu âm
tim có độ nhạy phát hiện dày thất trái và dự báo nguy cơ tim mạch hơn điện tim.
Tuy nhiên, sử dụng siêu âm tim không phải lúc nào thực hiện được trên bệnh nhân
THA, nhất là ở tuyến y tế cơ sở, giá thành cao và phải có bác sĩ chuyên khoa siêu
âm tim mạch làm.
Trong nhóm nghiên cứu dựa trên lượng dân số lớn của, chúng tôi nhận thấy
tỷ lệ nguy cơ do huyết áp khác nhau đối với đột quỵ thiếu máu cục bộ và xuất
huyết cũng như giữa ICH và SAH. Hơn nữa, dường như sức mạnh của mối liên hệ
giữa huyết áp và đột quỵ kèm xuất huyết có thể bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ ICH trong
xuất huyết và do sự phân bố giới tính của dân số nghiên cứu
1.1.3.2. Tổn thương mạch máu
Nhiều nghiên cứu thấy ở bệnh nhân THA có tăng độ dày nội mạc động
mạch cảnh và phát hiện mảng vữa xơ động mạch cảnh có giá trị cao trong dự báo
ĐQN và NMCT.
1.1.3.3. Tổn thương thận
Đái tháo đường là nguyên nhân thường gặp nhất của suy thận và nguyên
nhân chính gây tử vong và bệnh tim mạch [51]. Ở người THA thường thấy có tổn
thương thận khi thấy nồng độ creatinin tăng hoặc độ thanh thải creatinin giảm, có
albumin niệu vi thể hoặc đại thể. Khi tăng nồng độ creatinin phản ánh sự giảm
mức lọc cầu thận, thì sự gia tăng đào thải albumin hoặc protein niệu phản ánh
thương tổn cầu thận. Nhiều nghiên cứu thấy khi phát hiện tổn thương thận ở bệnh
nhân THA với bất kỳ dấu chứng nào đều có giá trị dự báo tử vong tim mạch cho

tương lai. Tổn thương thận diễn biến theo mức độ, giai đoạn của bệnh:


14

- Tiểu đêm nhiều lần do rối loạn chức năng cơ đặc và hồ lỗng.
- Microalbumin, protein niệu do tổn thương cầu thận.
- Suy thận ở các mức độ khác nhau: lúc đầu biểu hiện bằng tăng urê và
creatinin máu, về sau xơ hoá lan toả động mạch tiểu cầu thận, không đáp ứng với
các phương pháp điều trị nội khoa, phải lọc máu chu kỳ hoặc ghép thận.
1.1.3.4. Tổn thương mắt
- Độ 1: co thắt, hẹp lòng động mạch.
- Độ 2: động mạch co cứng đè lên tĩnh mạch chỗ bắt chéo gọi là Salusgunn
(+).
- Độ 3: có xuất tiết, xuất huyết.
- Độ 4: xuất tiết, xuất huyết và kèm theo phù gai thị.
Ở người THA thường ghi nhận tổn thương động mạch võng mạc độ 1, độ 2;
nhưng chúng ít có giá trị tiên lượng BTM. Một nghiên cứu gần đây khi soi đáy mắt
ở 800 bệnh nhân THA thấy tỷ lệ tổn thương động mạch võng mạc độ 1, độ 2 là
78%; trong khi đó có 43% có mảng vữa xơ động mạch cảnh, 22% dày thất trái và
14% có albumin niệu vi thể. Do đó, cịn nhiều quan điểm chưa thống nhất, liệu tổn
thương động mạch võng mạc độ 1, độ 2 có thể áp dụng như là bằng chứng cho tổn
thương cơ quan đích. Cịn tổn thương mắt giai đoạn 3,4 thì hầu hết bệnh nhân
THA ít khi quan sát được.
1.1.3.5. Tổn thương não
THA là YTNC cao đến ĐQN (nhồi máu não, xuất huyết não). Tỷ lệ ĐQN ở
bệnh nhân THA chiếm khá cao (80%). Các triệu chứng của tổn thương não do
THA bao gồm:
Thiếu máu não sẽ gây những triệu chứng: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, rối
loạn giấc ngủ...

Rối loạn tâm thần do THA, sa sút trí tuệ, động kinh..., đều có thể gặp khi bị
bệnh THA.
Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua (TIA: Transient Ischemic Attack):
bệnh nhân bị tổn thương thần kinh khu trú (ví dụ: bại liệt nửa mặt, rối loạn ngôn


15

ngữ, liệt trung ương dây thần kinh VII, mù...) nhưng phục hồi hồn tồn trong 24
giờ.
Tùy thuộc vào vị trí tổn thương của động mạch não mà gây những triệu
chứng lâm sàng khác nhau như: liệt trung ương ½ người, liệt trung ương dây thần
kinh VII, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vịng, thất điều... Hiện nay, chẩn đốn
ĐQN ở giai đoạn sớm dựa vào chụp cắt lớp vi tính (CT: Computed Tomography)
sọ não. Tuy nhiên, nó được dần thay thế bởi chụp cộng hưởng từ (MRI: Magnetic
Resonance Imaging) vì nó có thể phát hiện thương tổn nhũn não chỉ trong vài phút
bị tắc nghẽn động mạch não.
Nghiên cứu của Nguyễn Duy Cường về các yếu tố nguy cơ kèm theo ở bệnh
nhân đột quỵ/THA thấy rằng: Tăng mỡ máu chiếm tỉ lệ cao nhất 53,5%; tăng Uric
máu 24,2%; tiền sử đột quỵ 11,6%; đái tháo đường 8,4%; rung nhĩ 6,8%. THA kết
hợp với 1 yếu tố nguy cơ khác chiếm tỷ lệ cao nhất (55,3%), kết hợp với 2 yếu tố
nguy cơ chiếm tỷ lệ 11,1%; kết hợp với 3 yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ 7,9%; kết
hợp với ≥ 4 yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ 4,7%. Thời gian điều trị trung bình là 14,5
± 7,8 ngày. Kết quả điều trị phục hồi, di chứng nhẹ 65 (34,2%), di chứng nặng 81
(42,6%), tử vong và xin về để chết chiếm tỷ lệ khá cao (23,2%) [12].
Nghiên cứu của Hyeon Chang Kim cho thấy rằng tỷ lệ nguy cơ theo mức
huyết áp khác nhau đối với thiếu máu cục bộ và xuất huyết cũng như giữa ICH và
SAH. Hơn nữa, dường như sức mạnh của mối liên hệ giữa huyết áp và xuất huyết
có thể bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ ICH trong xuất huyết và do sự phân bố giới tính của
dân số nghiên cứu [65].

Còn theo nghiên cứu của Huỳnh Thị Tuyết Vân trên 250 bệnh nhân, tỷ lệ
gan nhiễm mỡ ở nữ là 63,2%, ở nam là 36,8%. Tuổi trung bình là 56,47±10,67
tuổi. Tỷ lệ thừa cân – béo phì là 54,8%, béo bụng là 57,6% và béo dạng nam là
50,4%; tiền THA là 50,8% và THA là 38%; tiền ĐTĐ là 36,4% và ĐTĐ là 22%;
tăng CT là 58,8%, TG là 70,8%, LDL-c là 84,8% và 49,6% có HDL-c thấp. Theo
thang điểm Framingham, ước lượng nguy cơ 10 năm bệnh ĐMV ở mức thấp là
20,4%, trung bình là 35,2% và cao là 44% [9].


16

Tăng huyết áp khơng biến chứng hầu như khơng có triệu chứng, vì vậy bệnh
nhân có thể khơng biết được tổn thương tim mạch kéo dài đến 10 đến 20 năm. Chỉ
khi huyết áp được đo thường xuyên và người ta nhận thức được rằng tăng huyết áp
có thể có hại ngay cả khi khơng có triệu chứng thì đa số những người bị chứng
tăng huyết áp không được nhận ra hoặc không được điều trị một cách hiệu quả.
Các triệu chứng thường gây ra chứng tăng huyết áp - đau đầu, ù tai, chóng mặt và
ngất xỉu - có thể được quan sát thấy bình thường ở người bình thường. Hơn nữa,
nhiều triệu chứng do huyết áp tăng cao có ý nghĩa về mặt tinh thần, thường phản
ánh sự tăng nhiệt do lo lắng về chẩn đoán của một căn bệnh cả đời, xấu đi đe doạ
sự sống và sống sót. Ngay cả nhức đầu, lâu được coi là một triệu chứng thường
gặp của tăng huyết áp, là không liên quan đến mức độ huyết áp [62].
Các báo cáo gần đây cho thấy tỷ lệ bệnh tim mạch và đái tháo đường đã
tăng mạnh ở các nước đang phát triển. Thật vậy, bệnh tim mạch hiện nay là
nguyên nhân chính gây tử vong; vào năm 2020, nó sẽ trở thành nguyên nhân gây
tử vong và tàn tật trên toàn thế giới. Ở các nước đang phát triển, bệnh tim mạch
chiếm tới 75% số ca tử vong do các bệnh không lây nhiễm và chiếm 10% gánh
nặng tàn tật của thế giới đang phát triển [42].
Trong nghiên cứu của Kelly J. Hunt có 2815 người tham gia, từ 25 đến 64
tuổi khi ghi danh, 509 đáp ứng cả hai tiêu chí, 197 chỉ đáp ứng các tiêu chí NCEP,

và 199 chỉ đáp ứng các tiêu chí của WHO. Trong trung bình 12,7 năm, có 229 ca
tử vong (117 người mắc bệnh tim mạch). Hơn nữa, trong quần thể dự phòng ban
đầu của 2372 người tham gia (ví dụ những người không mắc bệnh đái tháo đường
hoặc bệnh tim mạch ban đầu), 132 ca tử vong xảy ra (50 bệnh nhân tim mạch)
[58].
1.2. Hội chứng chuyển hoá
1.2.1. Khái niệm về hội chứng chuyển hố
Hội chứng chuyển hóa, cịn được gọi là hội chứng suy giảm insulin, được
đặc trưng bởi chứng béo bụng, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, và tăng đường
huyết và hiện diện ở khoảng 20% người lớn ở Hoa Kỳ. Các cá nhân có hội chứng


17

chuyển hóa có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch, cũng như tử vong
do tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân. Sự phổ biến của bệnh thận mãn tính
(CKD) cũng đang gia tăng, ảnh hưởng đến khoảng 8 triệu người trưởng thành ở
Hoa Kỳ. Các nghiên cứu chéo đã chỉ ra mối liên quan giữa hội chứng chuyển hóa
và CKD. Tuy nhiên, cho dù hội chứng chuyển hóa góp phần vào sự phát triển của
CKD là không biết [66].
Trong một số trường hợp, tỷ lệ hiện mắc hội chứng chuyển hóa ở nam giới
cao gấp đôi so với phụ nữ. Trong dữ liệu từ Nghiên cứu dịch tễ học về Insulin Hội
chứng kháng thuốc ở Pháp, tỷ lệ này là 23,5% đối với nam giới và 9,6% đối với
phụ nữ [34].
Khái niệm về hội chứng chuyển hóa đã biết đến được gần một thế kỷ qua.
Năm 1923, Kylin đã mơ tả hội chứng chuyển hóa là sự tập hợp của các triệu chứng
như: THA, tăng glucose máu và bệnh gout. Năm 1947, Vague mô tả rằng có mối
liên quan giữa béo với hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch. Hội chứng này
cịn có tên gọi: “Hội chứng X”, “Hội chứng kháng insulin” là sự tập hợp của nhiều
triệu chứng bao gồm: sự bất thường glucose máu, THA, kháng insulin, béo phì

(béo bụng) và RLLP máu.
Hội chứng chuyển hóa được định nghĩa bởi NCEP 5 bao gồm 3 hoặc nhiều
hơn các điểm sau: (1) nồng độ đường huyết lúc đói ít nhất là 110 mg/dL (6,1
mmol/L); (2) mức triglyceride huyết thanh ít nhất là 150 mg/dL (1,7 mmol/l); (3)
cholesterol lipoprotein mật độ cao trong huyết thanh thấp hơn 40 mg/dL (1,04
mmol/L); (4) BP ít nhất 130/85 mmHg hoặc được kiểm soát bằng điều trị hạ huyết
áp; và/hoặc (5) chu vi vòng eo trên 102 cm [80].
Ngày nay, hội chứng chuyển hóa là một vấn đề thời sự được nhiều nghiên
cứu quan tâm. Vì vậy, nhiều nghiên cứu đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán hội
chứng chuyển hóa khác nhau để chẩn đốn như: WHO, chương trình giáo dục
quốc gia về Cholesterol của Hoa Kỳ (NCEP: National Cholesterol Education
Program), nhóm nghiên cứu kháng insulin của châu Âu (EGIR: European Group
for Study of Insulin Resistance), Hội các nhà nội tiết lâm sàng Hoa Kỳ (AACE:


18

American Association of Cinical Endocinologists) và IDF (Bảng 1.1). Trong đó,
béo cũng được áp dụng theo tiêu chuẩn của khu vực châu Á - Thái Bình Dương
[59].

Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ có hội chứng chuyển hóa ở một số quốc gia trên thế giới
Zimmet PZ, Robert HE, Scott MG,(2005)[81]
Hội chứng chuyển hóa đang gia tăng nhanh và lan rộng trên phạm vi tồn
thế giới. Tuy nhiên, tỷ lệ có hội chứng chuyển hóa ở các quốc gia lại khác nhau,
khác nhau theo khu vực địa lý, theo tộc người và theo tiêu chuẩn chẩn đoán béo
cho các châu lục. Nhưng nhìn chung, có sự giống nhau về hội chứng chuyển hóa ở
các quốc gia: đó là tỷ lệ có hội chứng chuyển hóa tăng theo tuổi, hội chứng chuyển
hóa ở nữ giới cao hơn so với nam giới.



19

Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ có hội chứng chuyển hóa ở một số quốc gia châu Á
(Thống kê IDF: 2006) [42]
Bảng 1.1. Các tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa hiện nay
Tiêu chuẩn của WHO (1999)
Tiêu chí bắt buộc: Đề kháng insulin hoặc có rối loạn chuyển hóa Glucose bao
gồm:
+ Đái tháo đường tuýp 2.
+ Rối loạn đường huyết lúc đói (Glucose máu 140 – 199 mg/dl 2 giờ sau khi
uống 75gam Glucose).
+ Đường huyết bình thường nhưng có tăng insulin
Các tiêu chí khác:
+ Béo bụng:


Chỉ số vịng bụng /vịng mơng (WHR) > 0,9 (ở nam); > 0,85 (ở nữ)và hoặc



BMI > 30 kg / m2 ( ở người Châu Âu – Châu Mỹ ).



BMI > 27 kg / m2 ( ở người Châu Á).

+ Rối loạn chuyển hóa Lipid:



Triglycerid > 1,7 mmol / l và hoặc



HDL – C < 1,0 mmol / l ( nữ ); < 0,9 mmol / l (nam).

+ Tăng huyết áp: huyết áp tâm thu trên 140 mmHg và hoặc huyết áp tâm trương
trên 90mmHg.


20

+ MicroAlbumin niệu dương tính > 20 µg/phút hoặc tỷ số Albumin/creatinin
=30mg/g.
Để xác định hội chứng chuyển hóa bắt buộc phải có ít nhất một trong các biểu
hiện kháng insulin cộng thêm hai tiêu chí khác.
Tiêu chuẩn chẩn đốn của hội Châu Âu nghiên cứu đề
kháng insulin-EGIR (1999)
Tiêu chuẩn bắt buộc: có tăng nồng độ insulin.
Các tiêu chí khác :
+ Tăng glucose máu: Glucose máu lúc đói trên 6,1mmol/l.
+ Tăng huyết áp: huyết áp tâm thu trên 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương
trên 90mmHg hoặc đang điều trị bằng thuốc hạ áp.
+ Rối loạn chuyển hóa Lipid:


Triglyxerid huyết tương > 2,0 mmol/l.




HDL – C < 1,0 mmol/l.



Hoặc đang điều trị rối loạn chuyển hóa Lipid.

+ Béo vùng bụng : vòng eo nam trên 94cm, vòng eo nữ trên 80cm.
Để chẩn đốn hội chứng chuyển hóa phải có tăng insulin máu là tiêu chí bắt buộc
và ít nhất hai tiêu chí khác.
Tiêu chuẩn chẩn đốn của NCEP – ATP III (2001)
* Có mặt của 3 tiêu chuẩn trở lên dưới đây :
+ Glucose máu lúc đói trên 6,1 mmol/l.
+ Huyết áp trên 130/85mmHg.
+ Triglyceride trên 1,7 mmol/l (trên 150 mg/dl)
+ HDL –C < 1,03 mmol/l (nam), < 1,29 mmol/l (nữ).
+ Béo bụng: VE > 90cm (nam), >80 cm (nữ) đối với người Châu Á. Người
Châu Âu và Châu Mỹ thì >102 cm (nam), và > 88cm (nữ).
Tiêu chuẩn của hiệp hội các chuyên gia nội tiết lâm sàng Hoa Kỳ (American
Asosia tion of Climical En docrinnologist - 2003)
Yếu tố chính:
+ Thừa cân / béo phì: BMI trên 25kg/ m2 .



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×