Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nghiên cứu đánh giá thái độ và ý muốn của người cao tuổi về kế hoạch chăm sóc cuối đời và các phương tiện duy trì sự sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.18 KB, 11 trang )

Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TĨM TẮT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ VÀ Ý MUỐN CỦA
NGƢỜI CAO TUỔI
VỀ KẾ HOẠCH CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI
VÀ CÁC PHƢƠNG TIỆN DUY TRÌ SỰ SỐNG
Mã số:…………..

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê Đại Dƣơng
PGS.TS. Nguyễn Văn Trí

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 05/2018

Tn thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

1


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TĨM TẮT


ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ VÀ Ý MUỐN CỦA
NGƢỜI CAO TUỔI
VỀ KẾ HOẠCH CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI
VÀ CÁC PHƢƠNG TIỆN DUY TRÌ SỰ SỐNG
Mã số:…………..

Chủ nhiệm đề tài

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 05/2018

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

2


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

DANH SÁCH THAM GIA NGHIÊN CỨU
Lê Đại Dương
Thân Hà Ngọc Thể
Nguyễn Văn Trí
Đơn vị cơng tác: Bộ mơn Lão Khoa – Khoa Y – Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

3



Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ VÀ Ý MUỐN
CỦA NGƢỜI CAO TUỔI
VỀ KẾ HOẠCH CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI
VÀ CÁC PHƢƠNG TIỆN DUY TRÌ SỰ SỐNG
TĨM TẮT
Mở đầu: Chăm sóc cuối đời (CSCĐ) là một thành phần quan trọng khơng thể thiếu trong
chuỗi chăm sóc liên tục của ngành y tế. Người cao tuổi (NCT) là một đối tượng đặc biệt cần CSCĐ và
nhất là cá nhân hóa kế hoạch điều trị. Tuy vậy hầu như khơng có bằng chứng nào nhằm định hướng
các kế hoạch cũng như chính sách y tế đặc biệt cho đối tượng này tại Việt Nam.
Mục tiêu:Đánh giá thái độ và ý muốn của bệnh nhân cao tuổi nội trú khoa Lão – Chăm Sóc
Giảm Nhẹ (CSGN) Bệnh Viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) về kế hoạch chăm sóc cuối đời bằng cơng
cụ “Đánh Giá Thái Độ Người Cao Tuổi về Các Vấn Đề Cuối Đời” (AEOLI)”.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả đã được tiến hành
trên các bệnh nhân NCT (>=60 tuổi) nhập viện nội trú tại khoa Lão – CSGN tại BVDHYD trong thời
gian từ 01/03/2017 đến 31/05/2017. NCT đồng ý tham gia sẽ được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bảng
câu hỏi AEOLI được việt hóa để đánh giá thái độ và ý muốn về CSCĐ.
Kết quả: Đã có 47 BN đồng ý tham gia nghiên cứu và được phỏng vấn từ 207 BN cao tuổi
nhập viện. Tỉ lệ đồng ý tham gia là 33,81%. Tuổi trung bình mẫu nghiên cứu là 73,96 ± 9,19 tuổi. 29
BN (61,7%) có chẩn đốn ung thư, nhưng chỉ có 1/3 là có hiểu biết về chẩn đốn ung thư và tiên
lượng bệnh. NCT trong mẫu chúng tôi có thái độ mâu thuẫn về vấn đề thời gian sống thêm so với chất
lượng cuộc sống (85% đồng ý sống bằng mọi giá nhưng 72% lại coi trọng chất lượng cuộc sống so
với thời gian sống). 60% BN NCT muốn biết rõ tình trạng bệnh của mình và đặc biệt có đến 94% BN
muốn được mất tại nhà.
Kết luận: Hầu như tất cả NCT đều muốn mất tại nhà. Nhân viên y tế cần đẩy mạnh thảo luận
trước các vấn đề liên quan CSCĐ ở NCT lúc họ còn đủ khả năng ra quyết định. Hệ thống chăm sóc y
tế NCT tại nhà cần được phát triển như là một thành phần của hệ thống y tế để đảm bảo họ có một

cái chết “đẹp” tại nhà, cùng với gia đình.
Từ khóa:chăm sóc cuối đời, người cao tuổi, chăm sóc tại nhà

Tn thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

4


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

ĐẶT VẤN ĐỀ
“Sinh – lão – bệnh – tử” là qui luật không thể tránh khỏi, tất cả mọi người đều phải trải qua
giai đoạn cuối đời. Dân số người cao tuổi (NCT) tại VN vào 2013 chiếm khoảng 10% dân số. Với
khoảng 9 triệu NCT này, với tỉ lệ tử vong 32,34 / 1000 NCT (1), mỗi năm tại Việt Nam sẽ có hơn
297.000 NCT tử vong tại nước ta. Đối tượng bệnh nhân (BN) này phải trải qua gánh nặng triệu chứng
vô cùng nặng nề vào giây phút cuối đời. Trong một nghiên cứu đoàn hệ trên 9.000 BN mắc các bệnh
giới hạn sự sống, đa phần các BN đều biểu hiện triệu chứng vô cùng phức tạp vào thời điểm 3 ngày
trước khi mất: đau trung bình đến nặng (34–45%), khó thở (28–83%), mệt (80%), rối loạn tri giác
(24–34%), nơn ói (12%), lo âu bứt rứt (25%) … (5). Ngoài ra, cách NCT rời bỏ cuộc sống này sẽ có
tác động sâu sắc đến gia đình BN, có thể để lại những hậu quả to lớn về mặt tâm lí, tài chính, ảnh
hưởng đến sinh hoạt và cơng việc các thành viên gia đình. Chính vì thế, chăm sóc cuối đời (CSCĐ) –
là giai đoạn chăm sóc đặc biệt ở BN có tiên lượng sống dưới 6 tháng - có vai trị rất quan trọng trong
chuỗi chăm sóc y tế liên tục từ lúc sinh đến lúc qua đời. Tuy vậy hiện tại nền y tế Việt Nam vẫn chưa
có chính sách y tế cụ thể về CSCĐ. Nhân viên y tế chưa được đào tạo bài bản để quản lí BN ở giai
đoạn này. Bên cạnh đó do cịn nhiều rào cản về mặt văn hóa, vấn đề về CSCĐ ít được đề cập và các
nghiên cứu về thái độ và ý muốn của NCT về các vấn đề CSCĐ dường như không tồn tại ở Việt Nam.
Bước quan trọng đầu tiên của qui trình CSCĐ là thảo luận người bệnh và gia đình khi cuộc sống gần
đi đến hồi kết, qua đó làm nền tảng xây dựng nên kế hoạch CSCĐ cá nhân hóa cho từng BN và gia
đình. Q trình này cần sự giao tiếp cởi mở và chân thật, tôn trọng tự chủ, chú trọng ý muốn các giá

trị niềm tin của BN. Chính vì thế việc tìm hiểu thái độ và ý muốn của BN NCT nhằm định hướng sự
trao đổi của nhân viên y tế và phát triển các chính sách y tế liên quan kế hoạch CSCĐ phù hợp là vơ
cùng cần thiết.

Tn thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

5


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá thái độ và ý muốn của BN cao tuổi nội trú khoa Lão – Chăm Sóc Giảm Nhẹ
(CSGN) Bệnh Viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) về kế hoạch chăm sóc cuối đời bằng công cụ
“Đánh Giá Thái Độ Người Cao Tuổi về Các Vấn Đề Cuối Đời” – “Assess the attitudes of older people
to end-of-life issues (AEOLI)”.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu: các BN người cao tuổi (NCT) nhập viện nội trú tại bệnh viện
BVDHYD. Dân số chọn mẫu là NCT (>=60 tuổi) nhập viện nội trú tại khoa Lão – CSGN tại
BVDHYD trong thời gian từ 01/03/2017 đến 31/05/2017
Phƣơng pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả
Phƣơng pháp lấy mẫu: lấy mẫu thuận tiện
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí nhận vào: BN cao tuổi (>=60 tuổi) nhập viện tại khoa Lão – CSGN tại BVĐHYD
trong khoảng thời gian từ 01/03/2017 đến 31/05/2017 đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
BN có khó khăn trong giao tiếp do thính giác hoặc thị giác, hay do tình trạng bệnh lí
nền.BN có tình trạng bệnh cấp tính chưa ổn định hay có tình trạng rối loạn nhận thức do
bệnh lí cấp tính (nhiễm trùng, sảng, rối loạn điện giải …). Các trường hợp này sẽ được đánh

giá lại nếu có cải thiện rối loạn nhận thức sẽ được xem xét mời tham gia nghiên cứu.Có
chẩn đốn từ BS là sa sút trí tuệ.BN khơng thể trao đổi bằng tiếng Việt.
Qui trình nghiên cứu:
Toàn bộ BN NCT nhập khoa lão – CSGN của BVĐHYD trong thời gian nghiên cứu được
mời tham gia. Nếu đồng ý, BN được phỏng vấn mặt đối mặt bởi nghiên cứu viên sử dụng bảng câu
hỏi nghiên cứu (Phụ lục). Bộ công cụ thu thập bao gồm bảng câu hỏi Đánh Giá Thái Độ NCT về Các
Vấn Đề Cuối Đời “Assess the attitudes of older people to end-of-life issues (AEOLI)” của tác giả Catt
và cs (2) Bộ câu hỏi đã được phát triển bởi một nhóm các nghiên cứu viên, chuyên gia CSGN, đặc
biệt có sự tham gia của một nhóm BN cao tuổi. Thêm vào đó bộ cơng cụ cũng được đánh giá các tính
chất đo lường tâm lí trên đối tượng NCT. Nhóm tác giả đã có được sự đồng thuận từ nhóm nghiên cứu
sáng tác bộ công cụ là tác giả Catt và cs để chuyển ngữ và sử dụng cho nghiên cứu này. Ngoài ra bảng
câu hỏi còn gồm các câu hỏi đánh giá các đặc điểm dân số học, bệnh lí và ý muốn NCT về CSCĐ và
các phương tiện duy trì sự sống (PTDTSS). Phần câu hỏi về kiến thức các PTDTSS được hỗ trợ bằng
hình ảnh. Với mỗi phương tiện, người nghiên cứu sẽ giải thích cách thực hiện sau khi hỏi câu hỏi về
kiến thức, nhằm tạo điều kiện cho người tham gia trả lời về ý muốn thực hiện các PTDTSS. Mọi
thông tin cá nhân đối tượng sẽ được mã hóa và giữ kín. Bảng câu hỏi dự kiến sẽ tiến hành trong 30 –
40 phút.
Phân tích thống kê:
Đánh giá thái độ của NCT về CSCĐ và PTTDTSS dựa vào tính điểm trên thang Likert, số
điểm càng cao thể hiện không đồng ý càng tăng và điểm càng thấp thể hiện mức độ đồng ý càng tăng.
Để thuận tiện cho việc mô tả, mức độ “rất đồng ý” và “đồng ý” sẽ được gộp chung dưới tiêu đề “đồng
ý”, tương tự với “không đồng ý” và “rất không đồng ý” sẽ được gộp thành “không đồng ý”. Các biến
số định danh được biểu diễn dưới dạng bảng và biểu đồ.

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

6



Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 01/03/2017 đến 31/05/2017, đã có 47 BN đồng ý tham gia nghiên cứu và được phỏng vấn
từ 207 BN cao tuổi nhập khoa. Tỉ lệ đồng ý tham gia là 33,81%.
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 73,96 tuổi, cao nhất là 97 tuổi. Tỉ lệ nam nữ là 1:1. Đa
phần là dân tộc Kinh (91,5%). Chỉ có 36,2% (17 BN) sống ở thành thị. Khoảng 80% BN có tơn giáo.
Đối tượng chăm sóc chính của BN đa phần là con cái (57,4%), đặc biệt có tới 12,8% BN cịn có khả
năng tự chăm sóc tại nhà.
Đặc điểm bệnh lí của mẫu nghiên cứu như sau. Thời gian nằm viện trung bình là 12,34 ngày.
Phần lớn mẫu nghiên cứu là các BN có chức năng hoạt động tốt theo ECOG 1 và 2 (89%) – không bị
giới hạn vận động tại ghế hoặc giường. Có 29 BN (61,7%) có chẩn đốn ung thư đi kèm, chỉ có 1/3 số
ngày có hiểu biết về chẩn đoán ung thư.
Đặc điểm một thái độ về kế hoạch CSCĐ của mẫu nghiên cứu thể hiện trong bảng 1
Bảng 1: Đặc điểm thái độ về kế hoạch CSCĐ của mẫu nghiên cứu (N=47)
Số
thứ
tự
câu
C1
C5

C9
C20
C15
C4
C11
C2
C21
C22

C12

Thái độ
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn các BS sẽ là người quyết định toàn bộ quá trình chăm sóc của tơi.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn được điều trị để kiểm sốt hồn tồn cơn đau, ngay cả khi thuốc có
thể làm tơi lú lẫn.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn tự mình kiểm sốt thuốc giảm đau hơn là phụ thuộc vào số thuốc
BS và điều dưỡng phát.
Tôi tin là hầu hết mọi người đều bị đau đớn khi cái chết đến gần.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn được chăm sóc trong BV hơn là ở nhà.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn có sẵn một loại thuốc để chấm dứt cuộc sống của tơi khi tơi muốn.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, sự hỗ
trợ về tâm linh và tôn giáo rất quan trọng với tơi.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, tơi
muốn được sống bằng mọi giá.
Nếu tơi trong tình trạng bệnh rất nặng khơng có cơ hội hồi phục, chất
lượng cuộc sống của tơi quan trọng hơn thời gian tơi có thể sống thêm.
Tơi sợ bị bất lực và bị phụ thuộc hơn là tôi sợ cái chết.
Tôi mong rằng cái chết và sự hấp hối sẽ được trao đổi cởi mở hơn trong
xã hội của chúng ta.

Đồng ý (%)

Không đồng
ý (%)


Không ý
kiến (%)

87,2

2,1

10,7

42

50

8

21,3

74,5

4,2

76,6

8,6

14,8

53,2


38,3

8,5

17

68,1

14,9

63,8

17

19,2

85,1

4,3

10,6

72,3

14,9

12,8

55,3


21,3

23,4

63,8

10,6

25,6

Hơn 50% số BN mong muốn rằng thông tin xấu nên được chia sẻ với cả BN và gia đình.
Trong khi đó có 1 BN (2%) khơng muốn biết gì về chẩn đốn bệnh của mình.
Nhìn chung trên ¾ số BN trong mẫu nghiên cứu khơng có hiểu biết về các PTDTSS. Sau khi
được giải thích thì >80% họ vẫn muốn được tiến hành các phương pháp này với hi vọng được sống.
Trong các PTDTSS, ấn tim ngoài lồng ngực là phương tiện được nhiều BN biết đến nhất và ít
nhất là nội khí quản. Hơn 90% BN muốn được sử dụng dinh dưỡng nhân tạo và tỉ lệ muốn được ấn
tim ngồi lồng ngực và nội khí quản là thấp nhất 85%. Nhìn chung tỉ lệ hiểu biết về PTDTSS còn thấp
và tỉ lệ muốn được dùng PTDTSS là rất cao.
Khi khảo sát đặc điểm ý muốn về điều quan trọng nhất trong giây phút cuối của mẫu nghiên
cứu: tỉ lệ cao nhất là 55,3% muốn “ở cạnh gia đình hay bạn bè”, sau đó là “khơng muốn bị đau”
(14,9%), tiếp đến lần lượt là “cảm thấy bình an” (8,5%), “Giữ được phẩm giá cá nhân” (6,4%), “mọi
người lắng nghe tôn trọng mong ước bản thân” (6,4%) và “cảm thấy không là gánh nặng cho mọi
người” (4,3%).

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

7



Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

Trong mẫu nghiên cứu có khoảng 47% BN đã có suy nghĩ về kế hoạch cuối đời cho bản thân
nhưng chỉ có 40% có ý muốn chia sẻ với gia đình về kế hoạch này. 42% số BN cảm thấy không thoải
mái khi bàn luận về cái chết.
Về nơi qua đời mong muốn, hầu như toàn bộ (94%) BN đều muốn qua đời tại nhà. 2 BN
muốn qua đời ở BV và 2% (1 BN) có ý kiến khác là khơng muốn nghĩ tới điều này vì lí do của họ là
còn muốn vui sống, chưa nghĩ đến.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Dù cỡ mẫu không quá lớn nhưng nghiên cứu đã thu nhận được một mẫu khá đa dạng về mặt
tuổi với sự phân bố nhóm tuổi ở cả ba nhóm lần lượt là 51% ở nhóm Sơ lão, 34% ở nhóm Trung lão
và 15% Đại lão. Tỉ lệ BN ở nông thôn cao trong nghiên cứu một phần do tiêu chuẩn đánh giá thành
thị chỉ bao gồm các thành phố trực thuộc trung ương, do đó một số đối tượng dù sống ở thành phố
trực thuộc tỉnh vẫn được xếp là nơng thơn. Lí do cho tiêu chuẩn này là do sự phân bố về dịch vụ y tế
khác cả về số lượng và chất lượng ở các thành phố trực thuộc trung ương và các thành phố hạng khác.
Điểm nổi bật về mặt dân số học của mẫu nghiên cứu là tỉ lệ theo tôn giáo khá cao 72%, nhiều nhất là
đạo Phật và đạo Thiên Chúa. Đặc biệt, có đến 13% NCT vẫn cịn có khả năng tự chăm sóc bản thân.
Đặc điểm bệnh lí dân số nghiên cứu
Trong mẫu của chúng tơi, tỉ lệ BN NCT có chẩn đốn ung thư đi kèm chiếm tỉ lệ cao 64%.
Trong số đó, 2/3 số BN khơng có hiểu biết về chẩn đốn và tiên lượng bệnh của họ. Điều này sẽ giới
hạn khả năng tự ra quyết định và chuẩn bị các kế hoạch cá nhân và y tế trong tương lai. Trong thực tế
lâm sàng, một hiện tượng thường gặp là người nhà với lí do khơng muốn BN lo lắng và sợ hãi về bệnh
sẽ giới hạn việc BS trao đổi thông tin trực tiếp với BN. Mọi thông tin chỉ được trao đổi giữa người
nhà và BS; qua đó mọi quyết định liên quan chăm sóc y tế sẽ diễn ra giữa BS và gia đình mà khơng có
sự tự chủ của BN.
Đặc điểm thái độ và ý muốn NCT về CSCĐ
Đặc điểm thái độ của NCT trong mẫu chúng tôi sẽ được so sánh với kết quả nghiên cứu của
tác giả Catt – trên đối tượng NCT >=75 tuổi tại Hoa Kì trong cộng đồng (3). Với câu hỏi thái độ về
khả năng ra quyết định, có sự khác biệt rõ rệt về thái độ giữa hai nhóm dân số, NCT của chúng tơi có

thái độ đồng tình nhiều hơn về việc dù bệnh có khơng chữa khỏi thì họ vẫn để BS quyết định toàn bộ
điều trị và chăm sóc. Trong khi đó, NCT của Catt có suy nghĩ ngược lại. Điều này có thể lí giải do
khác biệt về mặt văn hóa và khác biệt về cả bối cảnh y tế. Tại các nước phương Tây luôn đề cao giá
trị của bản thân, BN ln được khuyến khích phát huy quyền tự chủ. Ngoài ra các qui tắc y đức cũng
yêu cầu BS phải tôn trọng quyền tự chủ của BN. Trong khi đó ở nước ta, BN thường khơng hiểu rõ về
bệnh tình của bản thân, thiếu kiến thức y học nên không dám tự ra quyết định mà sẽ giao quyền đó
cho người thân hay BS. Mặt khác, về phía nhân viên y tế, quyết định y khoa vẫn dựa chủ yếu vào BS
mà không phải là việc chia sẻ quyết định giữa BS và BN, gia đình BN.
Về mục chất lượng cuộc sống và thời gian sống cũng cho thấy sự khác biệt về thái độ giữa hai
nhóm dân số. Nếu trong tình trạng bệnh nặng không thể hồi phục, thái độ của NCT chúng tơi rất đồng
tình với chuyện sống bằng mọi giá, khác biệt hồn tồn với NCT của Catt là rất khơng đồng ý. Tuy
vậy cả hai nhóm đều khơng đồng ý với việc thử mọi điều trị tối tân nhất bất kể hậu quả, và thái độ này
là khác biệt không ý nghĩa thống kê. Có lẽ do cả hai nhóm đều coi trọng chất lượng cuộc sống hơn
thời gian sống thêm và sợ bị phụ thuộc hơn là sợ cái chết. Ta có thể thấy dù vẫn muốn sống bằng mọi
giá nhưng NCT trong mẫu nghiên cứu này vẫn sợ lệ thuộc, sợ bị bất lực và không muốn thử các
phương tiện điều trị tối tân nhất trong điều kiện bệnh nặng, không thể phục hồi. Họ không sợ cái chết
và coi trọng chất lượng cuộc sống hơn. Tuy nhiên đây chỉ là thái độ, việc chuyển từ thái độ thành
quyết định thực sự về chăm sóc y tế cần có hiểu biết tốt hơn về điều trị và thơng tin cụ thể về chẩn
đốn. Hai yếu tố đó là hai yếu tố vẫn còn hạn chế ở BN NCT do đặc thù của nền y tế.

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

8


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

Ở vấn đề điều trị đau, thái độ của hai nhóm hồn tồn khác nhau. Về vấn đề điều trị kiểm sốt
đau hồn tồn dù điều trị làm giảm mức độ nhận thức, mức độ khơng đồng tình của NCT Việt Nam

cao hơn nhiều so với NCT của Catt. Điều này có thể do NCT Việt Nam vẫn muốn tỉnh táo đến giây
phút cuối để nhìn con cái, nhà cửa lần cuối trước khi qua đời. Tuy cả hai nhóm NCT đều khơng đồng
tình với việc tự kiểm sốt thuốc giảm đau mà khơng theo điều trị của BS, NCT chúng tơi có mức độ
đồng ý cao hơn nhiều. Điều này tương ứng với thái độ về việc ra quyết định y tế, NCT vẫn không
muốn tự kiểm sốt điều trị của mình dù bản thân họ là người đánh giá mức độ đau bản thân tốt nhất.
Lí do có thể là sự thiếu kiến thức về thuốc và sợ tác dụng phụ của thuốc, cũng như sợ giảm nhận thức
do điều trị đau triệt để. Có một sự khác biệt hoàn toàn về thái độ giữa hai nhóm về vấn đề đau lúc cuối
đời, NCT chúng tơi rất đồng tình với niềm tin rằng hầu hết mọi người đều bị đau khi cái chết đến
gần. Điều này cho thấy NCT có nỗi sợ rất lớn với đau, và họ tin rằng đau nhiều hơn lúc qua đời. Do
đó nhân viên y tế cần quan tâm đánh giá và điều trị đau tốt hơn ở NCT nhất là giai đoạn cuối đời. Tuy
nhiên cần chú ý là NCT rất sợ tác dụng phụ và phụ thuộc hoàn toàn vào BS về việc điều trị đau.
Ý muốn của BN cao tuổi về các vấn đề chăm sóc cuối đời và các PTDTSS
Về vấn đề ý muốn đối tượng được chia sẻ thơng tin liên quan chẩn đốn và tiên lượng bệnh,
trong nghiên cứu của chúng tơi, chỉ có 56% BN NCT muốn cả bản thân và gia đình biết thơng tin xấu.
Đặc biệt có đến 38% chỉ muốn gia đình biết mà bản thân BN khơng muốn biết. Kết quả này thấp hơn
ở các quốc gia khác có nền văn hóa tương tự Việt Nam. Các nghiên cứu trên đối tượng BN ung thư ở
châu Á cho thấy BN rất muốn BS trung thực và trao đổi hiểu biết về thơng tin bệnh của họ (4).Các
nghiên cứu tồn quốc trên BN ung thư giai đoạn cuối ở Đài Loan cho thấy đa phần BN muốn BS
thông tin cho BN trước người nhà và muốn tự mình biết thơng tin bệnh thay vì chỉ cho người nhà biết
(12),(13). 72,5% BN ung thư ở Nhật muốn biết thông tin bệnh và 32% muốn biết thơng tin về tiên
lượng sống cịn của bản thân (9). 65,5% NCT trong mẫu nghiên cứu các BN ung thư gốc châu Á
muốn biết càng nhiều thông tin về bệnh càng tốt và gần 90% muốn có người thân bên cạnh khi nhận
thông tin xấu về bệnh (10). Nói tóm lại, NCT trong mẫu của chúng tơi vẫn có xu hướng muốn hiểu rõ
thơng tin bệnh của bản thân. Tuy vậy một số vẫn có ý muốn khơng biết (40%). Do đó trong thực hành
lâm sàng, các BS trước khi thơng báo tin xấu nên tìm hiểu ý muốn của cả BN và người nhà về đối
tượng sẽ nhận thơng tin, qua đó làm tăng cơ hội BN hiểu rõ tình trạng bệnh của mình nếu BN muốn.
Xét về kiến thức và ý muốn sử dụng các PTDTSS, bảng khảo sát đưa ra 5 chọn lựa về
PTDTSS là “ấn tim ngồi lồng ngực”, “nội khí quản”, “máy thở”, “lọc thận nhân tạo” và “dinh dưỡng
nhân tạo”. Tỉ lệ hiểu biết về các PTDTSS này chỉ ở mức dưới 30% rất thấp. Vấn đề nổi bật là NCT
trong mẫu của chúng tơi vẫn chưa có đầy đủ kiến thức về các PTDTSS mà trong tương lai có thể họ

phải sử dụng bất kể họ có muốn hay khơng. Trong bối cảnh nước ta, việc áp dụng các PTDTSS là bắt
buộc cho mọi trường hợp BN suy hô hấp tuần hồn, sẽ khơng tránh khỏi những trường hợp sử dụng
PTDTSS mà khơng mang lại lợi ích gì cho BN. Trong những trường hợp đó việc giới hạn những điều
trị này là vô cùng cần thiết. Tuy vậy việc giới hạn các điều trị này sẽ cần thái độ, đánh giá của BS;
cũng như hiểu biết từ phía BN, gia đình về những chọn lựa PTDTSS, chẩn đốn và tiên lượng bệnh;
cũng như trao đổi chi tiết cởi mở giữa nhân viên y tế và BN cũng như gia đình họ. Sau khi được giới
thiệu và giải thích về các PTDTSS, tỉ lệ muốn sử dụng các PTDTSS dao động từ 80 - 90%. Một phần
lí do của tỉ lệ cao này có thể do hiểu biết của BN về PTDTSS chỉ ở mức lợi ích mà chưa hiểu rõ tác
hại cũng như tỉ lệ hiệu quả thay đổi theo tình huống lâm sàng của PTDTSS. Tỉ lệ chọn lựa dinh dưỡng
nhân tạo là cao nhất 90% có thể do đây là phương pháp ít xâm lấn và ít gây khó chịu nhất so với các
phương pháp cịn lại. Thêm vào đó cũng có thể do quan điểm về ăn uống trong tín ngưỡng văn hóa
Việt Nam cho rằng nếu qua đời mà khơng có dinh dưỡng thì sẽ thành “ma đói” và khơng được đầu
thai chuyển kiếp. Gia đình ln rất quan tâm và nhấn mạnh vai trị dinh dưỡng nhân tạo trong tình
huống BN khơng thể ăn uống được.
Vấn đề quan trọng nhất trong phần đánh giá ý muốn của NCT là địa điểm qua đời mong
muốn. Rất nhiều BN thể hiện sự không chắc chắn do không biết mình sẽ mất ở đâu khi đưa ra câu trả

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

9


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

lời này nhưng khi được đưa các lựa chọn là “nhà”, “bệnh viện”, “viện dưỡng lão” hay nơi khác thì
92% (46 BN) chọn nhà là nơi qua đời mong muốn. Lí do cho việc hầu hết NCT của chúng tơi mong
muốn được mất tại nhà có thể tập họp thành 4 chủ đề chính: “qua đời với người thân xung quanh”,
“cảm giác gắn bó với mái ấm”, “nơi hỗ trợ về mặt tâm linh tôn giáo” và”tiết kiệm chi phí”.Việc hiểu
rõ lí do tại sao BN chọn nhà là nơi qua đời mong muốn rất quan trọng vì nếu trong trường hợp BN

không thể về nhà được do một lí do khách quan nào đó, chúng ta có thể thay đổi mơi trường BV để ít
nhất có được các yếu tố mà BN mong muốn có được khi qua đời ở nhà. Chẳng hạn như việc đánh giá
tình trạng BN sớm và thơng báo với gia đình, hỏi BN về ý muốn hỗ trợ tâm lí tâm linh cuối đời.
Tuy nhiên ở phần thái độNCT của chúng tôi tỏ thái độ đồng tình hơn với việc chăm sóc tại
BV với tỉ lệ 50%. Điều này cho thấy sự sai biệt giữa thái độ và mong muốn của BN. Mặc dù BN
mong muốn mất ở nhà nhưng có thể do nhiều yếu tố họ vẫn muốn được chăm sóc tại BV như: lo sợ
triệu chứng sẽ không được kiểm sốt tốt, hay gia đình cảm thấy bất lực khi cho BN về nhà mà khơng
có sự hỗ trợ về mặt y tế ... Thực tế là ý định về nơi qua đời mong muốn là một ý định có trạng thái
động, sẽ thay đổi theo thời gian bởi rất nhiều yếu tố tác động qua lại như đau không kiểm sốt được,
các biến cố cấp tính như té ngã, sự bất lực của người nhà trong việc chăm sóc BN tại nhà, mức độ phụ
thuộc của BN tăng dần, hay tránh tác động tiêu cực lên trẻ nhỏ (7). Khảo sát trên dân số chung tại
Vương Quốc Anh cho thấy 60% người trưởng thành cho rằng họ sẽ thay đổi ý định ban đầu về việc
muốn mất ở nhà sang mất ở một nơi khác nếu khơng có được sự hỗ trợ từ gia đình, bạn bè, các hỗ trợ
y tế và xã hội khác (11). Tính chất động của nơi qua đời mong muốn càng làm nổi bật vai trò của việc
trao đổi sớm nhằm nắm bắt được ý muốn của BN, cũng như định kì kiểm tra lại để xác định ý muốn
mới hay những vấn đề có thể giải quyết để BN có thể mất tại nơi họ mong muốn.
Và trên hết là phát triển mô hình CSCĐ tại nhà. Do trong một tổng quan hệ thống bởi tác giả
Gomes đã phát hiện các yếu tố sẽ tăng khả năng BN mất tại nhà là mức hoạt động chức năng thấp,
thời gian bệnh kéo dài, có sự hỗ trợ từ gia đình, mong muốn BN là mất ở nhà, đồng thuận ý muốn mất
ở nhà từ phía gia đình, tình trạng kinh tế xã hội tốt và yếu tố liên quan mạnh nhất là được nhận dịch
vụ chăm sóc tại nhà, và cường độ được chăm sóc tại nhà càng cao thì OR của việc mất tại nhà càng
lớn (8). Bên cạnh đó Gomes cịn chứng minh được tính hiệu quả về mặt điều trị và chi phí với cả BN
và người nhà qua một tổng quan hệ thống khác của COCHRANE: tăng khả năng BN có thể mất tại
nhà, giảm bớt gánh nặng triệu chứng cho BN (6). Một trong những nguyên nhân khiến BN thay đổi
địa điểm mất mong muốn từ nhà sang BV là nỗi sợ và sự bất lực của người chăm sóc cũng như của
BN khi triệu chứng khơng kiểm sốt được. Dịch vụ chăm sóc tại nhà và hỗ trợ 24 / 7 có thể cung cấp
lời khuyên và giúp người nhà kiểm sốt những tình huống khơng phải nhập viện. Qua đó ta thấy việc
phát triển hệ thống CSGN và lão khoa tại nhà, kết hợp mạng lưới BS gia đình và y tế phường xã nhằm
giảm bớt chi phí y tế đồng thời mở rộng địa bàng phủ sóng đến cả vùng nơng thơn là một hướng phát
triển chiến lược của hệ thống y tế để tạo điều kiện cho BN được mất tại nhà.


Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

10


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược Tp.HCM.

KẾT LUẬN
NCT trong mẫu chúng tơi có thái độ mâu thuẫn về vấn đề thời gian sống thêm so với chất
lượng cuộc sống (85% đồng ý sống bằng mọi giá nhưng 72% lại coi trọng chất lượng cuộc sống so
với thời gian sống).60% BN NCT muốn biết rõ tình trạng bệnh của mình và 94% BN muốn được mất
tại nhà.
Hầu như tất cả NCT đều muốn mất tại nhà. Nhân viên y tế cần đẩy mạnh thảo luận trước các
vấn đề liên quan CSCĐ ở NCT lúc họ còn đủ khả năng ra quyết định. Hệ thống chăm sóc y tế NCT tại
nhà cần được phát triển như là một thành phần của hệ thống y tế để đảm bảo họ có một cái chết “đẹp”
tại nhà, cùng với gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bui Thi Tu Quyen, Pham Viet Cuong (2016), Patterns of Mortality in the Elderly in Chi Linh,
Hai Duong, Vietnam, Period 2004–2012.AIMS Public Health.
2.
Catt S, Blanchard M, Addington-Hall J, Zis M, Blizard B et al. (2005), The development of a
questionnaire to assess the attitudes of older people to end-of-life issues (AEOLI).Palliat Med, 19
(5), pp. 397-401.
3.
Catt S, Blanchard M, Addington-Hall J, Zis M, Blizard B et al. (2005), Older adults' attitudes
to death, palliative treatment and hospice care.Palliat Med, 19 (5), pp. 402-10.
4.

Eng TC, Yaakup H, Shah SA, Jaffar A, Omar K (2012), Preferences of Malaysian cancer
patients in communication of bad news.Asian Pac J Cancer Prev, 13 (6), pp. 2749-52.
5.
Freeborne N, Lynn J, Desbiens AN (2000), Insights about dying from the SUPPORT project.
The Study to Understand Prognoses and Preferences for Outcomes and Risks of Treatments.J Am
Geriatr Soc, 48 (5 Suppl), pp. S199-205.
6.
Gomes B, Calanzani N, Curiale V, McCrone P, Higginson I (2013), Effectiveness and costeffectiveness of home palliative care services for adults with advanced illness and their
caregivers.Cochrane Database Syst Rev, (6), pp. Cd007760.
7.
Gomes B, Calanzani N, Gysels M, Hall S, Higginson I (2013), Heterogeneity and changes in
preferences for dying at home: a systematic review.BMC Palliat Care., 12, pp. 7-7.
8.
Gomes B, Higginson I (2006), Factors influencing death at home in terminally ill patients
with cancer: systematic review.BMJ : British Medical Journal, 332 (7540), pp. 515-521.
9.
Ichikura K, Matsuda A, Kobayashi M, Noguchi W, Matsushita T et al. (2015), Breaking bad
news to cancer patients in palliative care: A comparison of national cross-sectional surveys from 2006
and 2012.Palliat Support Care, 13 (6), pp. 1623-30.
10.
Muthu KD, Symonds P et al. (2004), Information needs of Asian and White British cancer
patients and their families in Leicestershire: a cross-sectional survey.British Journal of Cancer, 90
(8), pp. 1474-1478.
11.
Shucksmith J, Carlebach S, Whittaker V, British Social Attitudes Survey, 2012, National
Centre for Social Research: United Kingdom.
12.
Tang ST, Liu TW, Lai MS, Liu LN, Chen CH et al. (2006), Congruence of knowledge,
experiences, and preferences for disclosure of diagnosis and prognosis between terminally-ill cancer
patients and their family caregivers in Taiwan.Cancer Invest, 24 (4), pp. 360-6.

13.
Tang ST, Lee SY (2004), Cancer diagnosis and prognosis in Taiwan: patient preferences
versus experiences.Psychooncology, 13 (1), pp. 1-13.

Tuân thủ Luật Sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử.
Ghi rõ nguồn tài liệu này khi trích dẫn.

11



×