Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tìm hiểu nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” được quy định trong Hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.08 KB, 19 trang )

LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Tìm hiểu nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” được quy định trong Hiến pháp
2013” là kết quả của quá trình cố gắng khơng ngừng học hỏi và tìm tịi của bản
thân, cùng với đó là sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cơ. Trong suốt q trình
học mơn “Luật Hiến pháp Việt Nam” vừa qua, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc nhất đến thầy- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung đã chỉ bảo tận tình giúp tơi
có được nền tảng kiến thức để có thể làm nên đề tài này. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất nhưng đề tài sẽ khơng tránh
khỏi những thiếu sót mà bản thân chưa thấy được. Vì vậy, tơi rất mong nhận được
sự góp ý của thầy cơ để đề tài này được hồn chỉnh hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại, quyền lực nhà nước là quyền lực gắn liền với sự ra
đời của nhà nước, gắn liền với chủ quyền quốc gia. Quyền lực nhà nước được sinh
ra để giữ gìn trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển, là có sức mạnh để bảo
đảm hoạt động hướng đích của xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ
lợi ích của cộng đồng và của mỗi con người. Quyền lực này thuộc về nhân dân và
được thể hiện thông qua những định chế nhà nước – pháp luật.
Nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như là một phương thức tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, một cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền
tảng dân chủ, trong đó nhà nước tồn tại, phát triển và vận hành trong môi trường
pháp luật, coi pháp luật là tối thượng. Việt Nam đang xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một trong những mục tiêu của nước ta là
hướng đến một hình thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước hợp lý sao cho
giữa các cơ quan nhà nước có sự phân cơng, phân nhiệm rõ ràng, rành mạch và
kiểm sốt có hiệu quả các cơ quan nhà nước này trong quá trình tổ chức, thực thi
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đây cũng là một trong những vấn đề


trọng tâm, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, quyết định đến sự thành bại của
tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Vì thế, tơi chọn chủ đề “Tìm hiểu nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” được quy định
trong Hiến pháp 2013” để giúp bản thân và các bạn sinh viên hiểu rõ về cơ sở
hình thành nguyên tắc, nội dung nguyên tắc và từ đó đề xuất các giải pháp hồn
thiện cơ chế pháp lý phân cơng, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay.


NỘI DUNG
I.

CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGUYÊN TẮC “QUYỀN LỰC NHÀ

NƯỚC LÀ THỐNG NHẤT, CĨ SỰ PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP, KIỂM
SỐT GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÁC QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP”
I.1.

Cơ sở Hiến định

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước ta tại Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
Đó là “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”.

Đây vừa là quan điểm vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây
dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong thời kì mới – Thời kì đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị.
I.2.

Cơ sở lý luận

Trong lịch sử xã hội lồi người có 4 kiểu nhà nước. Đó là nhà nước chủ nơ,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xét trong 4
kiểu nhà nước này, ta thấy:
Bộ máy nhà nước chủ nô, phần lớn các nhà nước chủ nơ chưa có sự phân
chia quyền lực. Ở các nước phương Đơng, hình thức chỉnh thể của nhà nước chủ
nơ phổ biến là hình thức qn chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay
quốc vương, hoàng đế. Bộ máy nhà nước phong kiến tổ chức theo nguyên tắc tập
quyền chuyên chế, toàn quyền lực nhà nước tập trung vào nhà vua.
Bộ máy nhà nước Tư sản tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, “tam quyền
phân lập”, quyền lực chia làm 3 nhánh: Nghị viện – lập pháp, Chính phủ - hành


pháp, Tòa án – tư pháp, độc lập với nhau và kiến chế đối trọng, kiểm soát lẫn
nhau.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất, mục đích, cở sở kinh tế - xã hội
khác kiểu nhà nước Phong kiến, Tư sản, là kiểu nhà nước nửa nhà nước nên bộ
máy nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, quyền
lực nhà nước tập trung vào tay của nhân dân (Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp 2013) và
nhân dân ủy thác cho cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Tịa án và các cơ quan khác
của Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước.
II.

NỘI DUNG NGUYÊN TẮC “QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC LÀ


THỐNG NHẤT, CÓ SỰ PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP, KIỂM SỐT GIỮA
CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC QUYỀN
LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP”
II.1. Quy định về tam quyền phân lập ở Việt Nam
Quy định tam quyền phân lập tại Việt Nam thể hiện về quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp được giao cho các cơ quan khác nhau trong nhà nước
chứ không tập trung cho một cơ quan nào cụ thể mà sẽ phân ra cho các cơ quan
khác nhau: quyền lập pháp giao cho Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính
phủ, quyền tư pháp giao cho Tịa án. Tam quyền phân lập được hiểu là nhằm mục
đích dùng quyền lực để thực hiện kiểm soát, cân bằng, khống chế và kiềm chế
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Quy định tam quyền phân lập được thể hiện
cho ta thấy rõ và nó giúp ngăn ngừa được sự chuyên chế rất dễ phát sinh ở xã hội
lạm quyền. Như vậy, có thể hiểu các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp phải hoạt động theo nguyên tắc độc lập, có điều kiện kiểm tra và giám sát
lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền để đảm bảo được quyền lực nhà nước.
Theo quy định về mặt hình thức thì tại Việt Nam chính là đất nước có hệ
thống tam quyền phân lập, gồm có Quốc hội, có Chính phủ, có Tịa án và cơ quan
công tố. Hệ thống quyền lực theo quy định của pháp luật có cơ cấu tổ chức hồn
thiện từ Trung ương đến các địa phương cấp huyện, quận cho tới cấp xã, phường.


Hiến pháp Việt Nam đã qua 5 lần thay đổi từ Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992 sửa đổi bổ sung 2001, 2013 hiện hành thì trong đó ta thấy rõ về mối
quan hệ trong việc phân quyền theo chiều ngang đã ngày càng được hoàn thiện và
đi đến sự thống nhất từ cơ chế theo tập quyền sang cơ chế phân công, đến phối
hợp rồi tiếp theo là phân quyền, phân cơng, phối hợp và thực hiện kiểm sốt quyền
lực.
II.2. Quyền lực nhà nước là thống nhất
Kể từ khi có chế độ Dân chủ Cộng hịa, Nhà nước Việt Nam vẫn được tổ

chức theo nguyên tắc tập quyền, tức là quyền lực nhà nước là thống nhất, phủ
nhận hoàn tồn những biểu hiện của phân quyền. Nhưng với cơng cuộc đổi mới,
mở cửa và nhất là với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện nay, những hạt nhân hợp lý trong học thuyết phân quyền đã được chúng ta
ghi nhận trong quy định của Hiến pháp năm 2013.
Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba
lĩnh vực quyền lực đó là một khối thống nhất được nhân dân trao cho Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân
bầu ra. Tuy tổ chức theo nguyên tắc tập quyền nhưng bộ máy nhà nước ta có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp đồng thời cũng có thẩm quyền
trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan hành pháp nhưng cũng
có vai trị quan trọng trong lập pháp và tư pháp. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân là những cơ quan tư pháp nhưng cũng có những thẩm quyền nhất định
trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Tất cả đều hoạt động dưới sự giám sát của
Quốc hội.
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước là
thống nhất vì quyền lực nhà nước bao giờ cũng thuộc vào một giai cấp hay liên
minh giai cấp nhất định. Ở Việt Nam, “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức” (Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp 2013). Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về


Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước, Nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình
cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp như các Hiến pháp trước
đây. Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm
quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn
và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước. Đồng thời điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền

lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
Nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông
qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong
đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (điều 29 và điều 120 Hiến pháp 2013)… Có
như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mới đúng, mới
bảo đảm thực hiện đầy đủ, khơng hình thức. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà
nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống
nhất ở Nhân dân chứ khơng phải tập trung ở Quốc hội. Quan niệm đó có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn thiết thực. Điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền
lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân
dân, đều do Nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là
thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của
nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị
chung là xây dựng một nhà nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm
chủ về mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” như Điều 3 Hiến pháp 2013 đã quy định.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên của Hiến pháp
năm 2013 là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm của nhà
nước trước Nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và
nhiệm vụ mà Nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để khơng có chỗ cho các
yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất


là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để
hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là
Nhân dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
theo Hiến pháp năm 2013 đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
II.3. Phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
II.3.1. Về sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Mặc dù quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng không phải tập quyền, tập
trung tuyệt đối vào một nhánh, đề cao quyền lực của một nhánh quyền và hạ thấp
vai trò của các nhánh quyền cịn lại.
Quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công hợp lý. Phân công
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp là giao cho từng nhóm các cơ quan nhà nước thực hiện một quyền lực nhất
định nào đó có tính chun mơn. Cần phải phân cơng thực hiện quyền lực nhà
nước vì nếu tất cả quyền lực nhà nước tập trung trong tay một người hay một cơ
quan sẽ dẫn đến ôm đồm, không hiệu quả, lạm quyền. Mỗi nhánh quyền lực cần có
cơ quan “bản tính” khác nhau đảm nhận. Quyền lập pháp được trao cho Quốc hội,
quyền hành pháp trao cho Chính phủ và quyền tư pháp do Tòa án thực hiện.
Bản chất của quyền lập pháp là đại diện cho nhân dân, ý chí của Nhân dân
được thể hiện rất rõ trong chức năng của Quốc hội. “Quốc hội là cơ quan đại diện
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 69 Hiến pháp 2013), chủ yếu thực hiện 3 chức năng:
thực hiện quyền Lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của
Hiến pháp năm 2013; Quốc hội đại diện cho người dân thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, thay mặt nhân dân biểu quyết,


quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước với mục tiêu bảo vệ lợi ích của
người dân, của quốc gia những vấn đề quan trọng của đất nước.
Đối với quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội, quyền này được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ. “Chính phủ là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 94 Hiến

pháp 2013). Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia
do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền
này là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và sau khi chính
sách quốc gia được thơng qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà
thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển
xã hội. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành
pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp năm 2013.
Quyền tư pháp được trao cho Tòa án - thực hiện chức năng xét xử. “Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp” (Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp 2013). Viện kiểm sát nhân
dân được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. So
với quyền lập pháp và quyền hành pháp, quyền tư pháp cần sự độc lập và chỉ tuân
theo những nguyên tắc, quy định của pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm (Khoản 2, Điều 103
Hiến pháp 2013). Đây thực chất là quyền bảo vệ pháp luật, thực thi công lý, công
bằng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, góp phần xây dựng đất
nước ổn định, văn minh, dân chủ và phát triển. Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có
nghĩa vụ tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý trong các phán
quyết của Tịa án.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định
thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Mục đích của việc phân cơng


quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho tính
pháp quyền của nhà nước và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là
để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực nhà nước giữa các quyền.
Một vấn đề nữa cần xác định rõ đó là quyền lực nhà nước là thống nhất nên
có sự “phân cơng” mà khơng phải là “phân chia” như học thuyết “phân chia quyền
lực” (hay còn gọi là học thuyết “tam quyền phân lập”), vì vậy quan điểm của Đảng
và tinh thần Hiến pháp năm 2013 đã nhất quán Việt Nam không theo học thuyết

“tam quyền phân lập” như nhiều quốc gia trên thế giới. Quyền lực nhà nước được
phân định thành ba nhánh và phân công cho các cơ quan khác nhau thực hiện, đảm
bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động bộ máy nhà nước, tránh trùng lặp,
chồng chéo và hướng tới thực hiện mục tiêu chung của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Để đảm bảo được điều đó, ba nhánh quyền khơng chỉ có
sự phân cơng mà cịn có sự phối hợp lẫn nhau, sự phối hợp tốt nhất đó là các cơ
quan đảm bảo thực hiện hiệu lực, hiệu quả tức là làm đúng, đủ và tốt chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn luật định. Đồng thời phối hợp chính là để tạo cơ chế kiểm
sốt giữa các cơ quan khi thực hiện các nhánh quyền này.
II.3.2. Về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Phối hợp là sự hỗ trợ lẫn nhau để cùng thực hiện quyền lực nhà nước, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan nhà nước.
Như đã nói ở trên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó
là sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà
nước khơng chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung của
quyền lực nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp khơng hồn tồn tách biệt nhau, mà “ràng buộc
lẫn nhau”, cả ba quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách nhịp
nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhân dân giao cho
mỗi quyền được Hiến pháp – Đạo luật gốc của nhà nước và xã hội quy định.


Phối hợp trong lập pháp, xây dựng, ban hành pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân các cấp cũng như đội ngũ cán bộ, công chức trong
hệ thống các cơ quan này là chức năng của Quốc hội. Quốc hội làm luật, sửa đổi
luật song Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội, Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ

quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật
trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội; Đại
biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án
pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 84 Hiến pháp 2013).
Ngoài ra, sự tham gia của Quốc hội vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác
còn thể hiện ở thẩm quyền bầu, phê chuẩn, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh
chủ chốt trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ, Tịa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân…
Chính phủ thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của
quốc gia bao gồm cả đội ngũ nguồn nhân lực công đang hoạt động trong các cơ
quan của Quốc hội và cơ quan thực thi quyền tư pháp. Chính phủ tham gia vào
cơng tác xây dựng hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đảm nhiệm các hoạt
động xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý – một hoạt động mang
bản chất tư pháp với quy trình xử lý tương tự hoạt động xét xử của Tịa án nhưng
do cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền hành chính nhà
nước thực hiện. Các quyết định hành pháp do Chính phủ, các cơ quan hành chính
các cấp ban hành là căn cứ quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tuy khơng có
quyền ban hành các đạo luật nhưng có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội, có
quyền kiến nghị chương trình xây dựng pháp luật hàng năm. Tòa án nhân dân thực
hiện chức năng xét xử, nhưng phải phối hợp với Chính phủ trong việc quản lý


nhân sự ngành Tòa án; Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng phối hợp
để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
Như vậy, trong lĩnh vực lập pháp, Quốc hội quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước; thành lập, bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh
trong bộ máy nhà nước; phối hợp cơ chế giám sát văn bản pháp luật; Chính phủ

với tồ án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Sự phối hợp giữa cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện, giải quyết một vấn đề sẽ đảm bảo dễ dàng trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mỗi cơ quan nhà nước cũng như nhiệm vụ chung của bộ
máy nhà nước.
II.3.3. Về sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, kiểm soát quyền lực nhà nước
được quy định ở tầm Hiến pháp tại Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013. Đây là một
trong những bước tiến lớn trong lịch sử Việt Nam, mặc dù vẫn là tập quyền, nhưng
vẫn có sự quy định rõ cho 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với 3 cơ quan
tương ứng thực hiện. Đó là cơ sở cơ bản nhất cho việc thực hiện quy định “kiểm
soát quyền lực” ở Điều 2 Chương I – về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước,
mà khơng có một bản Hiến pháp nào trong lịch sử thể hiện.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ chế kiểm soát được thể hiện
rõ trong hoạt động giám sát của Quốc hội với Chính phủ, với Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đặc biệt sự hình thành hai cơ quan: Tổng
kiểm toán nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013 và quy
định cơ chế bảo hiến tại khoản 2 Điều 119 đã xác định rõ hơn cơ chế kiểm soát.
Đồng thời, Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tịa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân, các cơ quan khác
của nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Mặc dù Hiến pháp 2013 chưa quy


định được một cơ chế bảo hiến chuyên trách như quan điểm của Đảng đã đề ra
nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế
bảo vệ Hiến pháp do luật định, điều này khẳng định cơ chế kiểm soát trong thực
thi quyền lực nhà nước được tăng cường hơn, cũng như cần phát huy hơn nữa ý
thức, trách nhiệm của tồn thể Nhân dân trong kiểm sốt hoạt động của các cơ
quan nhà nước – cơ chế kiểm soát bên ngoài tổ chức bộ máy nhà nước. Rồi đây,
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm

sát Nhân dân chắc chắn sẽ được sửa đổi bổ sung để hình thành cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền
mềm dẻo thì kiểm sốt quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp. Ở Việt
Nam, Quốc hội – lập pháp do nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về
mình bầu ra, trực tiếp thành lập ra Chính phủ - hành pháp, và Chính phủ này phải
chịu trách nhiệm trước Quốc hội (Điều 94). Chính phủ có trách nhiệm hoạch định
chính sách và trình chính sách trước Quốc hội (Điều 96 khoản 2). Và cụ thể hơn
nữa Quốc hội có quyền giám sát Chính phủ với nhiều hình thức khác nhau như
việc nghe báo cáo, cũng như sự giải trình của Chính phủ, đại biểu Quốc hội chất
vấn Thủ tướng và các thành viên Chính phủ. Trong trường hợp đặc biệt Quốc hội
có quyền bãi miễn Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ (Khoản 7 Điều 70)
… Đó là trọng tâm của sự kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát của hệ thống cơ quan hành pháp đối với các cơ quan nhà nước
khác được thực hiện thông qua việc tổ chức triển khai đưa pháp luật vào đời sống
xã hội, các cơ quan hành chính nhà nước có quyền kiến nghị các cơ quan nhà nước
khác có thẩm quyền về việc hồn thiện chính sách, pháp luật. Để tăng cường kiểm
soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, điều chỉnh
một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ví dụ
như: Uỷ ban thường vụ Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ: Quyết định, thành


lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (khoản 8, Điều 74). Quốc hội được bổ sung thêm
nhiệm vụ quyền hạn: Phê chuẩn, đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức thẩm
phán Tòa án Nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Cùng với điều đó, Hiến pháp
năm 2013 đã thiết lập thêm hai thiết chế độc lập: Hội đồng bầu cử quốc gia có
nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Hội
đồng Nhân dân các cấp (Điều 117) và Kiểm tốn nhà nước có nhiệm vụ giúp

Quốc hội kiểm sốt việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118). Sự ra
đời các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường các cơng cụ để
Nhân dân kiểm sốt quyền lực nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính
ngân sách nhà nước và tài sản công một cách hiệu quả hơn.
Kiểm sốt của cơ quan tư pháp thơng qua hoạt động tài phán hành chính, tài
phán tư pháp Tịa án phân định tính đúng đắn của quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân có thẩm
quyền hoặc đề nghị, kiến nghị hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức áp dụng các biện
pháp để khắc phục, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm,
vi phạm pháp luật, hoặc hồn thiện pháp luật, chính sách, cải tiến phương thức
quản lý.
Phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam đã tạo ra
cơ chế pháp lý tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phù hợp với điều kiện
thực tiễn đất nước, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, an toàn trong tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước, ngăn chặn sự tùy tiện của nhà nước, đẩy lùi hiện tượng
“tha hóa” quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền lực của nhân dân.
II.4. Nhận xét
Sau khi tìm hiểu nội dung nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực


hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, tác giả nghiên cứu và đưa một số
nhận xét sau:
Một là, bắt đầu từ Hiến pháp năm 2013, các khái niệm quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp đi liền với nó là sử dụng các thuật ngữ cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp để chỉ các cơ quan trong bộ máy
nhà nước được chính thức sử dụng rộng rãi. Đây là điểm mới đáng ghi nhận của
Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, vì Hiến pháp năm 1992
khơng khẳng định cơ quan nào là cơ quan hành pháp, cơ quan nào là cơ quan tư

pháp. Không chỉ phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan với
nhau mà Hiến pháp mới cũng có những quy định nhằm phân biệt trách nhiệm giữa
các cơ quan này với những con người hoạt động trong cơ quan đó (phân biệt trách
nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân), đặc biệt là trong hoạt động của cơ quan
hành pháp. Hiến pháp xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, cá nhân Thủ
tướng Chính phủ và các thành viên của Chính phủ trong hoạt động quản lý.
Hai là, Hiến pháp năm 2013 bổ sung thêm một nội dung mới về tổ chức
quyền lực nhà nước ở nước ta. Đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, khơng chỉ
được phân cơng, phối hợp mà cịn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là nguyên tắc chi phối đến mối quan hệ giữa
các cơ quan trong khi thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp
cũng như tương quan quyền lực giữa chúng với nhau. Đây là một bước tiến lớn
trong tư duy của các nhà lập hiến, bởi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi không đặt ra
vấn đề kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực.
Ba là, Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới, tiến bộ nhằm phát huy
bản tính thận trọng của Quốc hội, tôn trọng pháp quyền và phát huy sự độc lập,
chủ động, kiến tạo mạnh mẽ và dám chịu trách nhiệm của Chính phủ - cơ quan
thực hiện quyền hành pháp. Quốc hội đã khơng cịn là cơ quan có tồn quyền như
trong cơ chế tập quyền mà chỉ là cơ quan nắm giữ một loại quyền lực trong cơ cấu
quyền lực. Hiến pháp năm 2013 đã đặt tính hành chính cao nhất của Chính phủ lên


trước tính chấp hành và chính thức quy định Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp. Hiến pháp năm 2013 quy định cho Chính phủ vị trí như thế là vì Chính phủ
trực tiếp nhận quyền hành pháp từ nhân dân, chính nhân dân phân cơng Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp chứ không phải là Quốc hội như nhận thức trong cơ
chế tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây.
III.

LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆC PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP VÀ


KIỂM SỐT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
III.1. Thực trạng thực hiện việc “phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”
Việc tổ chức, thực thi, phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được quy
định rõ trong Hiến pháp 2013, nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước được Nhân dân
giao phó được sử dụng đủ, đúng mục đích, đảm bảo quyền lực nhà nước thật sự
thuộc về Nhân dân và phục vụ tốt nhất cho Nhân dân. Thế nhưng vẫn còn tồn tại
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Một số cơ quan không thực hiện tốt chức năng được phân công.
Sự phân công không rõ ràng, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước
không chặt chẽ thường dẫn đến hiện tượng không quy kết được trách nhiệm cho
các cơ quan, hoặc khó khăn trong việc phối hợp cơng việc giữa các cơ quan. Ngồi
ra, có thể có cả nguy cơ một số cơ quan sẽ chạy để được phân công những việc
ngon.
Thứ hai, Trong thực tế nhiều khi sự phối hợp chưa thật tốt. Nhiều cơ quan
nhà nước chỉ biết thực hiện xong phần việc của mình mà khơng có sự phối hợp
hoặc theo dõi xem phần công việc liên quan đến sự việc được thực hiện đến đâu
hoặc thực hiện như thế nào, có thống nhất và phù hợp với phân công việc đả được
cơ quan mình thực hiện.
Thứ ba, Từ cơ chế và cơng cụ để thực hiện sự kiểm soát trên cho thấy hiệu
quả kiểm soát chưa thật sự đạt hiệu quả cao, điển hình nhất là trong quy định pháp


luật hiện nay cơ chế cũng như công cụ để kiểm sốt phần lớn nghiêng về phía cơ
quan quyền lực nhà nước là chủ yếu, trong kiểm soát đối với hoạt động lập pháp
của cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp mới dừng lại ở việc kiến nghị Quốc hội
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật mà chưa có một chế chế tài pháp

lý đủ mạnh để hai cơ quan trên kiểm soát chặt chẽ hoạt động của Quốc hội trong
việc xây dựng, ban hành Hiến pháp, các đạo luật cũng như trong quyết định các
vấn đề trọng đại của đất nước và thực hiện chức năng giám sát tối cao.
Từ thực tế nêu trên, yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện cơ chế pháp lý phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước Việt Nam để đảm bảo quyền lực
nhà nước được tổ chức và thực thi một cách chặt chẽ và hiệu quả.
III.2. Hồn thiện cơ chế pháp lý phân cơng, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay
Để đảm bảo quyền lực nhà nước được tổ chức và thực thi một cách chặt chẽ
và hiệu quả cần nghiên cứu:
Hoàn thiện cơ chế thực thi dân chủ. Đảm bảo thực hiện trên thực tế quyền
làm chủ của Nhân dân. Trước hết là đổi mới cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng dân chủ, tranh cử công bằng. Thứ hai,
hoàn hiện cơ chế để Nhân dân hiện thực hóa quyền làm chủ của mình trong việc
bãi miễn đại biểu dân cử trong trường hợp những đại biểu này khơng cịn nhận
được sự tín nhiệm của Nhân dân.
Thứ hai, định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước,
nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống
nhất. Nghiên cứu làm rõ tính độc lập, chủ động của Chính phủ, Tịa án nhân dân
trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được trao, nhất là trong thiết lập vai trị kiểm
sốt đối với hoạt động của cơ quan lập pháp, khắc phục tình trạng mất cân đối
trong kiểm sốt thực thi quyền lực nhà nước hiện nay.


Thứ ba, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức thực hiện nhiệm vụ phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Quốc hội, Chính phủ,
Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương và các cơ quan
chuyên trách khác (Thanh tra, Kiểm toán nhà nước). Xây dựng, ban hành và thực

thi có hiệu quả Luật giám sát và phản biện xã hội nhằm nâng cao vai trò, chức
năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức và công dân đối với hoạt động của Nhà nước.
Thứ tư, thực hiện có hiệu quả phương hướng, giải pháp của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu hoàn thiện về cơ
chế bảo vệ Hiến pháp.
Tóm lại, hồn thiện cơ chế pháp lý phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là
một trong những nội dung quan trọng ở Việt Nam hiện nay nhằm phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
qua đó đẩy lùi tham nhũng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo
đảm Nhà nước Việt Nam thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.


KẾT LUẬN
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” là quy định có tính ngun tắc, khơng chỉ chi phối chủ đạo đối với chương
về Chế độ chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước mà xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hố,
giáo dục, khoa học cơng nghệ và mơi trường, bảo vệ Tổ quốc.
Đối với chúng ta, quyền lực nhà nước là từ Nhân dân, của Nhân dân. Bản
thân Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước không thể tự
sinh ra quyền lực, mà chỉ nhận sự ủy quyền của Nhân dân, thay mặt Nhân dân
thực thi quyền lực của Nhân dân. Việc hoàn thiện cơ chế pháp lý phân cơng, phối
hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ quan trọng,
để bảo đảm sự hợp lý trong việc phân công về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan nhà nước phù hợp với những yêu cầu của quá trình thực hiện

quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước thống nhất. Đồng thời, bảo đảm thực
hiện phối hợp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu chung của cả bộ máy nhà nước nhằm duy
trì sự kiểm sốt, chế ước, phát hiện và xử lý kịp thời những biểu hiện không đúng,
không hiệu quả trong việc thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi cơ quan, nhân
viên nhà nước hoặc của các thiết chế khác khi tham gia thực hiện quyền lực nhà
nước, trong tính chỉnh thể thống nhất.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (2015), Quyền lực nhà nước thống

nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.

GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Kiểm soát quyền lực nhà nước, NXB

Cính trị Quốc gia, Hà Nội 2017.
3.

GS.TS. Trần Ngọc Đường, Ngun tắc phân cơng, phối hợp và kiểm

sốt giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp qua các văn bản Hiến pháp
Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 11 (387), tháng 6/2019.
4.

PGS.TS. Trương Hồ Hải, ThS. Đặng Viết Đạt, Hoàn thiện cơ chế


pháp lý phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Lý luận chính trị số 2 – 2021, ngày 19/5/2021.
5.

Quốc Hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(Năm 2013 – 1992 – 1980 – 1959 – 1946), NXB Lao Động.



×