Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Đánh giá hiệu quả và đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng ven biển thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.15 MB, 138 trang )

Được sự phân công của Khoa Tài nguyên đất
và Môi trường Nông nghiệp, trường Đại học Nông
lâm Huế, sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TS.
Hồ Kiệt, tôi đã thực hiện đề tài “Đánh giá hiệu
quả và đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp vùng đồng bằng ven biển thị xã Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân
thành cảm ơn quý thầy, cô Khoa Tài nguyên đất
và Môi trường Nông nghiệp đã tận tình giảng
dạy, hướng dẫn trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và rèn luyện tại trường Đại học Nông
lâm Huế.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo
hướng dẫn TS. Hồ Kiệt đã tận tình, chu đáo
hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn các cô, chú, anh, chị đang
công tác tại Phòng Tài nguyên và Môi trường thị
xã Hương Trà đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong
suốt thời gian tôi thực tập tại cơ quan. Chúc các
cô, chú, anh, chị dồi dào sức khỏe và công tác
tốt.
Tuy đã cố gắng hết sức để hoàn thành khóa
luận này nhưng vẫn không thể tránh khỏi những
sai sót nhất định mà bản thân chưa nhận ra. Rất
mong nhận được những góp ý chân thành và quý
báu của các thầy, cô và các bạn để khóa luận
được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, Ngày 22 tháng 5
năm 2014


Sinh viên
Đinh Thị Ngọc
Diệu
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
HÌNH
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Cơ cấu kinh tế thị xã Hương Trà năm 2013 43
Biểu đồ 4.2. Số lượng trang trại qua các năm tại vùng đồng bằng ven biển 59
Biểu đồ 4.5. So sánh bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp/người giữa
vùng đồng bằng, ven biển với toàn thị xã và tỉnh Thừa Thiên Huế 68
thị xã Hương Trà năm 2013 64
Biểu đồ 4.4. Cơ cấu sử dụng đất sản xuất nông nghiệp năm 2013 67
Biểu đồ 4.3. Cơ cấu sử dụng đất vùng đồng bằng và ven biển 64
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỤC LỤC
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ buổi bình minh của lịch sử và trong suốt quá trình phát triển của nhân loại,
đất đai luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Các Mác viết răng đất đai là tài sản mãi
mãi của loài người, là điều kiện không thể thiếu của sản xuất và là tư liệu cơ bản
trong nông lâm nghiệp. Đúng thế, đất đai được sử dụng trong hầu hết tất cả các
ngành sản xuất của đời sống con người. Tùy theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực
đời sống mà đất đai được phân loại và gọi tên khác nhau. Do đó, đất đai là tài sản vô
cùng quý giá, với tính chất là một bộ phận của lãnh thổ thì đất đai còn quyết định đến
vấn đề sống còn của mỗi quốc gia. Mặt khác, đất đai là loại tài nguyên có những nét
đặc thù mà không một tư liệu sản xuất nào có được. Vì vậy, việc sử dụng hợp lý đất
đai để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và đảm bảo sự phát triển bền vững là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Thị xã Hương Trà ở vị trí trung độ của tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm trong

tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây. Hương Trà có 16 đơn vị hành chính trực
thuộc, gồm 7 phường và 9 xã; với diện tích tự nhiên là 51.853,4 ha, chiếm
khoảng 10,3% diện tích toàn tỉnh. Trung tâm hành chính - kinh tế - văn hóa của
thị xã là phường Tứ Hạ, cách thành phố Huế 15 km về phía Bắc. Địa hình của
thị xã được chia thành 3 vùng: vùng miền núi, gò đồi; vùng đồng bằng và vùng
đầm phá, ven biển. Thị xã Hương Trà có vai trò ngày càng quan trọng đối với
tỉnh Thừa Thiên Huế, là địa bàn cung cấp một lượng lớn lương thực, thực phẩm
cho thành phố Huế, đặc biệt là khu vực Bắc sông Hương.
Nước ta đang trên đà tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa làm tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp. Mặc dù tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm đi nhưng giá trị
sản xuất lại được nâng cao đáng kể. Có thể nói rằng, nông nghiệp là hoạt động
sản xuất chính của hơn 70% lao động toàn thị xã và cũng là ngành sản xuất then
chốt trong nền kinh tế của thị xã Hương Trà.
Tốc độ đô thị hóa của thị xã Hương Trà đang diễn ra nhanh chóng đặc
biệt là ở các xã, phường vùng đồng bằng. Cùng với đó là sự gia tăng dân số nên
việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp ngày càng nhiều. Điều
này đã tạo ra áp lực rất lớn lên đất đai. Tuy nhiên, việc khai thác đất đai chỉ
nhằm mục đích đem lại lợi ích cao nhất về kinh tế mà không quan tâm tới các
khía cạnh khác như môi trường, xã hội. Đồng thời, để tăng thu nhập nhiều hộ gia
5
đình đã thay đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi loại hình sử dụng trên đất sản xuất
nông nghiệp một cách tự phát và thiếu cơ sở khoa học dẫn tới giảm đa dạng sinh
học và ảnh hưởng đến tính bền vững trong sử dụng đất. Chính vì vậy, tiến hành
đánh giá toàn diện về hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của thị xã
Hương Trà trên cả ba phương diện: kinh tế, xã hội, môi trường để đề ra giải
pháp khắc phục các vấn đề tồn tại cũng như hướng sử dụng đất hiệu quả, tiết
kiệm và bền vững là việc làm rất cấp bách hiện nay.
Thừa Thiên Huế đã và đang thực hiện Kế hoạch phát triển bền vững trong
giai đoạn 2008 - 2020 với những định hướng nhằm phát triển kinh tế - xã hội toàn

tỉnh nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Song trên thực tế, hiệu quả
kinh tế mang lại chưa cao, hiệu quả xã hội và môi trường vẫn chưa được chú trọng
đúng mức.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên, tôi lựa chọn đề tài: “Đánh giá
hiệu quả và đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp vùng đồng
bằng ven biển thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Đánh giá thực trạng sản xuất nông nghiệp các xã vùng đồng bằng ven
biển của thị xã Hương Trà.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng
của vùng nghiên cứu.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất một số loại hình sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp vùng đồng bằng ven biển của thị xã trên ba phương diện: kinh tế,
xã hội, môi trường.
- Đề xuất giải pháp sử dụng đất hợp lý, phù hợp với địa phương.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu các điều kiện của thị xã một cách đầy đủ, chính xác, khoa
học; các tiêu chí phải thống nhất.
- Thu thập số liệu chính xác và đáng tin cậy.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp một cách khoa học,
khách quan và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
- Đề xuất các giải pháp khoa học, có tính khả thi cao và hướng sử dụng
đất phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
6
1.3. Những câu hỏi nghiên cứu
- Đất sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng ven biển thị xã Hương Trà có
những đặc điểm gì?
- Hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại thị xã Hương Trà hiện
nay ra sao? Nhân tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông

nghiệp tại địa bàn nghiên cứu?
- Cần có những giải pháp nào để nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp vùng đồng bằng ven biển thị xã Hương Trà trong thời gian tới?
7
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những vấn đề liên quan đến đất đai
2.1.1. Khái niệm về đất đai
Theo học thuyết sinh thái học cảnh quan (Land scape ecology), đất đai
được coi là vật mang của hệ sinh thái. Đất đai được định nghĩa như sau: “Một
vạt đất xác định về mặt địa lý là một diện tích bề mặt của trái đất với những
thuộc tính tương đối ổn định, hoặc thay đổi có tính chất chu kỳ, có thể dự đoán
được của sinh quyển bên trên, bên dưới, và bên trong nó như: không khí, đất
(soil), điều kiện địa chất, thực vật và động vật cư trú”. Những hoạt động hiện
nay và trước đây của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính này ảnh
hưởng có ý nghĩa tới việc sử dụng đất đó của con người ở hiện tại và tương lai.
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất được nhìn nhận như một
nhân tố sinh thái (FAO, 1976). Trên quan điểm nhìn nhận của FAO, đất đai bao
gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng
nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động, đồng thời là sản
phẩm lao động. Khái niệm đất đai bao hàm nội dung mặt bằng lãnh thổ sử dụng
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, từ những định nghĩa trên, có thể hiểu đơn giản như sau: Đất đai là
một vùng có ranh giới, vị trí cụ thể và có các thuộc tính tổng hợp của tự nhiên, kinh
tế, xã hội như khí hậu, địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, thủy văn, thảm thực vật tự
nhiên, động vật tự nhiên, những biến đổi của đất do hoạt động của con người [2].
2.1.2. Đặc điểm của đất đai
2.1.2.1. Các đặc điểm tự nhiên của đất đai
Trong đất luôn có các đặc điểm tự nhiên được hình thành nhờ vào các tính

chất vật lý, hóa học của đất đai.
- Tính chất vật lý của đất đai
Tính chất vật lý của đất đai được thể hiện qua các yếu tố như tỷ trọng,
dung trọng, độ xốp, tính trương co, tính dẻo, độ chặt của đất Các yếu tố
này ảnh hưởng tới các đặc tính của đất đai, đặc biệt là thành phần cơ giới,
ảnh hưởng trực tiếp tới phương thức canh tác và việc lựa chọn các loại hình
sử dụng đất phù hợp.
8
- Trong đất đai có nhiều tính chất hóa học đặc trưng, do bản thân trong đất
chứa nhiều nguyên tố hóa học và sự phản ứng giữa các nguyên tố hóa học này sẽ
tạo nên các tính chất hóa học. Các yếu tố thể hiện tính chất hóa học có trong đất
như độ chua, các nhóm mùn, keo đất, tính đệm, dung dịch đất các yếu tố này
ảnh hưởng đến chất lượng đất rất lớn và quyết định đến việc chọn lựa loại hình
sử dụng đất [1].
2.1.2.2. Các đặc điểm về kinh tế, xã hội của đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt vì đất đai là điều kiện vật chất chung
nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người. Đất đai vừa là đối
tượng lao động vừa là phương tiện lao động. Bên cạnh đó đất đai có các đặc tính
khác biệt so với các tư liệu sản xuất khác như sau:
- Đặc điểm tạo thành: Đất đai là vật thể tự nhiên mang tính lịch sử.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện và tồn tại ngoài ý chí và sự
nhận thức của con người. Song song với quá trình hình thành loài người, đất
đai vẫn tuân thủ các quy luật mà con người không thể can thiệp được, ví dụ
liên tục phong hóa đá
Đất đai còn gắn liền với quá trình con người sử dụng sức lao động của
mình tác động vào đất để thu lại sản phẩm. Chính nhờ việc chuyển tải giá trị sức
lao động của mình vào đất đai mà làm cho đất đai tham gia vào các mối quan hệ
xã hội, lúc này từ một vật thể tự nhiên đất đai chuyển dần sang vật thể lịch sử.
- Đất đai có độ phì nhiêu
Đây là tính chất quan trọng nhất khiến cho đất đai khác hẳn với các tư

liệu sản xuất khác. Độ phì là khả năng của đất đai có thể cung cấp cho cây
trồng thức ăn, nước và những điều kiện khác cần thiết cho sự sinh trưởng và
phát triển của cây trồng.
- Tính giới hạn về số lượng
Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, các tư liệu khác không ngừng
tăng lên về số lượng, riêng số lượng của đất đai (diện tích) bị giới hạn trong
phạm vi ranh giới của lục địa. Do là sản phẩm của tự nhiên, đất đai có tính
nguyên thủy là không thể gia tăng về số lượng.
Do vậy, việc sử dụng hợp lý, triệt để đất đai và không ngừng làm tăng
thêm hệ số sử dụng đất chính là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
- Tính cố định về không gian
Đất là tư liệu sản xuất có vị trí không thể thay đổi trong không gian. Đây
là tính chất đặc thù của đất làm cho những mảnh đất ở những vị trí khác nhau có
giá trị không giống nhau.
- Tính không thay thế
9
Trong quá trình sản xuất con người có thể thay tư liệu sản xuất này bằng
tư liệu sản xuất khác nhưng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được đặc
biệt trong nông lâm nghiệp.
- Đất có khả năng tăng tính sản xuất
Nếu xét về mặt không gian (diện tích), đất là tư liệu vĩnh cửu, không chịu sự
phá hủy của thời gian. Mặt khác, nếu sử dụng hợp lý, hiệu quả thì độ phì nhiêu của
đất còn được nâng lên, cải thiện làm cho đất tốt lên về mặt chất lượng [6].
2.2. Sản xuất nông nghiệp
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm sản xuất nông nghiệp
2.2.1.1. Khái niệm về sản xuất nông nghiệp (SXN)
Đất sản xuất nông nghiệp (SXN) là đất sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp; bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.
* Đất trồng cây hàng năm (CHN) là đất chuyên trồng các loại cây có thời

gian sinh trưởng từ khi gieo trồng cho đến khi thu hoạch không quá một (01)
năm, kể cả đất sử dụng theo chế độ canh tác không thường xuyên, đất cỏ tự
nhiên có cải tạo sử dụng vào mục đích chăn nuôi, bao gồm đất trồng lúa, đất cỏ
dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác.
- Đất trồng lúa (LUA): là ruộng, nương rẫy trồng lúa từ một vụ trở lên
hoặc trồng lúa kết hợp với sử dụng vào các mục đích khác được pháp luật cho
phép nhưng trồng lúa là chính; bao gồm đất chuyên trồng lúa nước (LUC), đất
trồng lúa nước còn lại (LUK), đất trồng lúa nương (LUN).
+ Đất chuyên trồng lúa nước (LUC): là ruộng lúa nước cấy trồng từ hai vụ lúa
mỗi năm trở lên kể cả trường hợp luân canh với cây hàng năm khác, có khó khăn đột
xuất mà chỉ trồng cấy được một vụ hoặc phải bỏ hóa không quá một năm.
+ Đất trồng lúa nước còn lại (LUK): là ruộng lúa nước không phải chuyên
trồng lúa nước.
+ Đất trồng lúa nương (LUN): là đất nương, rẫy để trồng từ một vụ lúa trở lên.
- Đất cỏ dùng vào chăn nuôi (COC): là đất trồng cỏ hoặc đồng cỏ, đồi cỏ
tự nhiên có cải tạo để chăn nuôi gia súc; bao gồm đất trồng cỏ và đất cỏ tự nhiên
có cải tạo.
+ Đất trồng cỏ (COT): là đất gieo trồng các loại cỏ được chăm sóc, thu
hoạch như các loại cây hàng năm.
+ Đất cỏ tự nhiên có cải tạo (CON): là đồng cỏ, đồi cỏ tự nhiên đã được
10
cải tạo, khoanh nuôi, phân thành từng thửa để chăn nuôi đàn gia súc.
- Đất trồng cây hàng năm khác (HNK): là đất trồng cây hàng năm không phải
đất trồng lúa và đất cỏ dùng vào chăn nuôi gồm chủ yếu để trồng màu, hoa, cây thuốc,
mía, đay, gai, cói, sả, dâu tằm, cỏ không để chăn nuôi; gồm đất bằng trồng cây hàng
năm khác (BHK) và đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác (NHK).
+ Đất bằng trồng cây hàng năm khác (BHK): là đất bằng phẳng ở đồng
bằng, thung lũng, cao nguyên để trồng cây hàng năm khác.
+ Đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác (NHK): là đất nương, rẫy ở
trung du và miền núi để trồng cây hàng năm khác.

* Đất trồng cây lâu năm (CLN) là đất trồng các loại cây có thời gian sinh
trưởng trên một (01) năm từ khi gieo trồng tới khi thu hoạch kể cả cây có thời gian
sinh trưởng như cây hàng năm nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm như thanh
long, chuối, dứa, nho… bao gồm đất trồng cây công nghiệp lâu năm (LNC), đất
trồng cây ăn quả lâu năm (LNQ) và đất trồng cây lâu năm khác (LNK).
- Đất trồng cây công nghiệp lâu năm (LNC): là đất trồng cây lâu năm có
sản phẩm thu hoạch (không phải là gỗ) để làm nguyên liệu cho sản xuất công
nghiệp hoặc phải qua chế biến mới sử dụng được gồm chủ yếu là chè, cà phê,
cao su, hồ tiêu, điều, ca cao, dừa,…
- Đất trồng cây ăn quả lâu năm (LNQ): là đất trồng cây lâu năm có sản
phẩm thu hoạch là quả để ăn tươi hoặc kết hợp chế biến.
- Đất trồng cây lâu năm khác (LNK): là đất trồng cây lâu năm không phải
đất trồng cây công nghiệp lâu năm và đất trồng cây ăn quả lâu năm gồm chủ yếu
là đất trồng cây lấy gỗ, lấy bóng mát, tạo cảnh quan không thuộc đất lâm nghiệp,
đất vườn trồng xen lẫn nhiều lại cây lâu năm hoặc cây lâu năm xen lẫn cây hàng
năm [8].
2.2.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
- Sản xuất nông nghiệp có tính vùng: Sản xuất nông nghiệp được tiến
hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang
tính chất khu vực rõ rệt. Chịu ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu (nhiệt độ, lượng
mưa, ánh sáng, độ ẩm…) rất lớn.
- Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và
không thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về diện tích, con người không
thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan nhưng sức sản xuất ruộng đất là chưa có
11
giới hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thỏa
mãn nhu cầu tăng lên của loài người về nông sản phẩm. Do đó trong quá trình sử
dụng phải biết quý trọng ruộng đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế chuyển đổi đất
nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp, tìm cách để cải tạo, duy trì và
nâng cao độ phì nhiêu của đất.

- Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và vật
nuôi. Các loại cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định.
Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong
bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu
trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho trình sản xuất sau.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển hình
nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình
tái sản xuất kinh tế gắn bó chặt chẽ với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian
hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn trùng
hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp [9].
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp là hết sức
cần thiết, nó giúp ích trong việc phân tích, đánh giá khu vực nghiên cứu, từ đó xác
định được các yếu tố nào ảnh hưởng nhiều nhất đến quá trình sử dụng đất tại địa
bàn. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp. Các nhân tố chia thành 3 nhóm sau:
2.2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố như đất đai, khí hậu thời tiết,
nước… có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp bởi vì đây là cơ sở để
sinh vật sinh trưởng, phát triển và tạo sinh khối. Đánh giá đúng điều kiện tự
nhiên là cơ sở để xác định cây trồng, vật nuôi phù hợp và định hướng đầu tư
thâm canh đúng.
- Đặc điểm lý, hóa tính của đất: hàm lượng các chất trong đất (bao gồm
chất hữu cơ và vô cơ), kết cấu của đất, thành phần cơ giới, tính dính, dẻo, dung
trọng đất… đều là những yếu tố quyết định đến chất lượng đất cũng như việc
sử dụng đất. Quỹ đất nhiều hay ít, tốt hay xấu có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu
quả sử dụng đất.
12
- Nguồn nước và chế độ nước: Đây là yếu tố rất cần thiết, nó là điều kiện

sinh tồn của cây trồng, là môi trường hòa tan các chất tạo ra chất dinh dưỡng
cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, nó cũng là điều kiện quan trọng cho sự
phát triển tập đoàn vi sinh vật đất.
- Địa hình, độ dốc và thổ nhưỡng: trong nhóm yếu tố này độ phì của
đất có ảnh hưởng lớn nhất đến sự sinh trưởng, phát triển cũng như năng suất
cây trồng vật nuôi.
- Vị trí địa lý: vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh
sáng, nhiệt độ, nguồn nước, gần đường giao thông, khu công nghiệp… sẽ quyết
định đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất
nông lâm nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế sẵn có
nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội, môi trường.
- Điều kiện khí hậu: các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất
nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn, nhiệt độ bình
quân, sự khác nhau về nhiệt độ, ánh sáng, về thời gian và không gian… trực tiếp
ảnh hưởng tới sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, cây rừng và
thực vật thủy sinh,… lượng mưa, bốc hơi có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ
nhiệt độ, độ ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cũng cấp nước cho sinh
trưởng của cây trồng, gia súc, thủy sản [13].
2.2.2.2. Biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác chính là các tác động của con người vào đất
đai, cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Biện pháp kỹ thuật canh
tác là những tác động mà thông qua đó thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của con người
về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những dự
báo thông minh, sắc sảo của con người. Chính sự hiểu biết sâu sắc đó giúp con
người lựa chọn loại tác động kỹ thuật, chủng loại cũng như cách sử dụng các yếu
tố đầu vào một cách phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt mục
tiêu đề ra.
Với biện pháp canh tác thô sơ, con người chỉ có thể khai thác và sử dụng
hiệu quả lớp đất bề mặt. Việc ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ sẽ góp phần

đẩy mạnh khai thác chiều sâu của đất và nâng cao năng suất cây trồng nhằm
đáp ứng nhu cầu về nông sản ngày càng cao của con người trong điều kiện quỹ
đất có hạn [11].
Như vậy, các biện pháp kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai
13
thác đất, sử dụng đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
2.2.2.3. Nhân tố kinh tế, xã hội
Nhân tố kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo về việc sử
dụng đất đai nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói riêng. Phương thức sử
dụng đất nông nghiệp được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh
tế trong từng thời kỳ nhất định.
Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ kinh tế xã hội khác nhau đã tác
động đến việc quản lý của xã hội về sử dụng đất nông nghiệp, chi phối phương
thức và hiệu quả sử dụng đất. Trình độ phát triển xã hội và kinh tế khác nhau dẫn
đến trình độ sử dụng đất nông nghiệp khác nhau. Trong quá trình sử dụng đất cần
phải căn cứ vào những yêu cầu của xã hội kết hợp chặt chẽ những yêu cầu về việc
sử dụng ưu thế tài nguyên đất đai để xác định cơ cấu sử dụng đất hợp lý nhất mang
lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và sử dụng đất được bền vững. Ngoài ra cần
phải tuân thủ các quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế - xã hội [11].
Bao gồm các nhân tố sau:
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp: Trong nhóm nhân tố này
thì yếu tố giao thông vận tải là quan trọng nhất, góp phần vận chuyển, tiêu thụ
sản phẩm, đồng thời cung cấp các dịch vụ khác hay các yếu tố đầu vào cho sản
xuất. Ngoài ra, còn có các yếu tố như thủy lợi, thông tin liên lạc, điện… đều có
sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng. Các yếu tố này hỗ trợ trực tiếp
hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản: Nhân tố này kết nối giữa
người sản xuất và người tiêu dùng lại với nhau, người sản xuất tiêu thụ, trao đổi
hàng hóa và thực hiện quá trình tái sản xuất sau đó.
- Trình độ kiến thức, khả năng và tập quán sản xuất của chủ sử dụng đất

thể hiện ở khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, khả năng về
vốn lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh nghiệm truyền
thống trong sản xuất và cách xử lý thông tin để ra quyết định trong sản xuất. Do
vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng đất thì việc nâng cao trình độ và cập nhật
thông tin khoa học, kỹ thuật là hết sức quan trọng.
- Hệ thống chính sách: Bao gồm chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất, chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ giá, chính sách
định canh định cư, chính sách dân số, lao động, việc làm, đào tạo kiến thức,
14
chính sách khuyến khích đầu tư, xóa đói giảm nghèo… Các chính sách này đã
có những tác động rất lớn đến vấn đề sử dụng đất, phát triển và hình thành các
loại hình sử dụng đất mới [7].
Tóm lại: Tùy vào thực tế của từng vùng, từng địa phương mà có thể nhận
biết thêm nhiều nhân tố khác cũng có tác động đến hiệu quả sử dụng đất, có
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhưng có những nhân tố lại ảnh hưởng gián tiếp, có
nhân tố thuận lợi và cũng có nhân tố hạn chế. Do đó, cần phải tìm ra những nhân
tố có tác động chủ yếu tới hiệu quả sử dụng đất của địa bàn nghiên cứu trên cơ
sở đó đề xuất những biện pháp thích hợp để thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả.
2.2.3. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp
với tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và với nước ta nói riêng - đất
nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời. Vấn đề đặt ra hiện nay là người tham
gia sản xuất nông nghiệp phải có cái nhìn toàn diện về ngành kinh tế này, đồng
thời kỹ năng chăm sóc, nuôi trồng và sự quan tâm của họ đối với nông nghiệp
phải thỏa đáng. Mặc khác, họ phải gắn lợi ích sản xuất với các quá trình sinh
học diễn ra trong sản xuất vì tiềm năng sinh học của cây trồng, vật nuôi phát
triển theo quy luật sinh học nhất định mà con người không thể can thiệp vào các
quá trình như phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng.
Vai trò đầu tiên của ngành nông nghiệp đó là ngành cung cấp lương thực cho

nhu cầu xã hội. Ở các nước nghèo, đại bộ phận người dân đều sống phụ thuộc vào
ngành nông nghiệp, do đó nông nghiệp quyết định đến sự tồn tại, phát triển của
những đất nước này. Tuy nhiên không chỉ ở những nước chậm phát triển cần có
nông nghiệp, ngay cả những nước khá hoặc rất phát triển ngành công nghiệp, dịch
vụ trên thế giới cũng đặc biệt coi trọng ngành nông nghiệp, mặc dù tỷ trọng ngành
nông nghiệp đối với các nước này không lớn nhưng nông sản lại không ngừng tăng
lên cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm cung cấp đủ nhu cầu lương thực cho người
dân. Khi dân số tăng lên kéo theo sự tăng về nhu cầu lương thực, bắt buộc mỗi
quốc gia phải có chính sách đảm bảo an ninh lương thực cho nước mình. Do đó,
nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh
tế ở tất cả các nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển thông qua việc tăng cung
lương thực cho nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp là ngành cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công
nghiệp và khu vực đô thị. Biểu hiện của vai trò này như sau: Đầu tiên, dân
cư nông nghiệp sống tập trung ở khu vực nông thôn và đây là nguồn dự trữ
15
nhân lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Nông nghiệp còn
là ngành cung cấp nguyên liệu to lớn cho ngành công nghiệp chế biến, mà
thông qua đó chất lượng của sản phẩm nông nghiệp tăng lên kéo theo sự
tăng về cạnh tranh nông sản hàng hóa và mở rộng thị trường. Biểu hiện cuối
cùng, khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển
kinh tế, đặc biệt là giai đoạn đầu công nghiệp hóa. Nguồn vốn này cần thiết
phát huy nhưng không cường điệu hóa vốn tích lũy từ nông nghiệp mà phải
tận dụng, khai thác hợp lý các nguồn vốn khác để có sự đầu tư hợp lý cho sự
phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp và
dịch vụ. Các sản phẩm của công nghiệp bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản
xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường tại khu vực nông nghiệp và nông
thôn. Trong khu vực này, sự thay đổi về cầu sẽ tác động trực tiếp tới cung ở khu
vực phi nông nghiệp. Do vậy, muốn phát triển công nghiệp trước hết phải phát

triển mạnh mẽ nông nghiệp.
Nông nghiệp tham gia vào xuất khẩu. Đây cũng được coi là nguồn thu
nhập ngoại tệ lớn ở các nước đang phát triển chủ yếu dựa vào các loại nông,
lâm, thủy sản. Tỷ trọng xuất khẩu nông, lâm, thủy sản cao sẽ làm tiền đề cho
công nghiệp, dịch vụ phát triển và tỷ trọng này sẽ giảm dần cùng với sự phát
triển cao của nền kinh tế [9].
2.2.4. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng ven biển
- Sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng ven biển chủ yếu là sản xuất cây
hàng năm như lúa, ngô, sắn, cây thực phẩm và nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó còn
có cây lâu năm, chủ yếu là cây ăn quả trong các vườn của hộ gia đình.
- Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu là hộ gia đình. Số lượng các trang trại
có quy mô sản xuất lớn, khép kín như vườn - ao - chuồng (VAC), vườn - ao -
chuồng - ruộng (VACR) không nhiều vì bị hạn chế bởi diện tích đất đai.
- Lực lượng lao động nông nghiệp có trình độ thâm canh tốt hơn so với
khu vực miền núi. Bên cạnh đó lực lượng lao động vùng đồng bằng ven biển có
nhiều cơ hội để làm thêm các ngành nghề phụ trong thời gian nông nhàn.
- Giao thông, thủy lợi và hệ thống phân phối vật tư nông nghiệp đầy đủ,
thuận tiện cho quá trình sản xuất [5].
2.3. Lý luận về hiệu quả sử dụng đất
16
2.3.1. Khái niệm về hiệu quả
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả: Kết quả là hiệu quả; hiệu
quả là sự tăng trưởng GDP; hiệu quả là nâng cao mức sống cho người dân, mục
tiêu là nền sản xuất xã hội phát triển; hiệu quả là mức độ tiết kiệm chi phí trong
một đơn vị sản xuất và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Theo Trung tâm từ điển ngôn ngữ: Hiệu quả chính là kết quả cũng như
yêu cầu của việc làm mang lại. Do đó, hiệu quả sử dụng đất được hiểu là kết quả
của quá trình sử dụng đất [11].
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “Hiệu quả sử dụng đất là chỉ
tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt động kinh tế. Thể hiện

qua lượng sản phẩm, lượng giá trị (lợi nhuận) thu được bằng tiền, đồng thời về
mặt xã hội, là thể hiện hiệu quả của lượng lao động được sử dụng trong cả quá
trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai thác đất”.
Việc sử dụng đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan. Vì vậy, xác định
bản chất và khái niệm hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học
của Mác và những nhận thức lý luận của lý thuyết hệ thống, tức là phải tiết kiệm
thời gian, tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã hội và phải bảo vệ môi
trường. Điều đó có nghĩa là đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải được xem xét
trên 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội, môi trường [4].
2.3.1.1. Hiệu quả kinh tế
Theo C. Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau.
Theo các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyrer, Simmerman -
1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn
vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất
trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm phúc lợi xã hội [10].
Như vậy, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa
lượng kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ ra trong các hoạt động sản xuất. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là
phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần
so sánh tuyệt đối với tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả
17
kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị
đều tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt
được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó hiệu quả sản
xuất mới đạt được hiệu quả kinh tế.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế

sử dụng đất là: trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng của
cải vật chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp
nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ
vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được
loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao nhất.
2.3.1.2. Hiệu quả xã hội
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chính
là thể hiện mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và các lợi ích xã hội mang lại.
Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự thì hiệu quả xã hội là mối tương
quan so sánh giữa kết quả về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp [15].
Biểu hiện của hiệu quả xã hội:
- Thứ nhất là mức độ thu hút lao động và giải quyết công ăn việc làm cho
người dân với mức thu nhập có thể chấp nhận được.
- Thứ hai, trình độ dân trí của người dân, mức độ nhận thức và tiếp thu
khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất
và chất lượng sản phẩm.
- Thứ ba, sự phát triển cơ sở ha tầng phục vụ cho sản xuất và đáp ứng các
nhu cầu khác của người dân.
- Thứ tư, đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định chính trị, an ninh lương
thực và khả năng bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
2.3.1.3. Hiệu quả môi trường
Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó không
có những tác động xấu đến vấn đề môi trường như đất, nước, không khí về hệ
sinh học; là hiệu quả đạt được khi quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra không
làm cho môi trường xấu đi mà ngược lại quá trình sản xuất đó còn làm cho môi
trường xanh, sạch, đẹp hơn trước. Hiệu quả môi trường vừa đảm bảo lợi ích
18
trước mắt vì phải gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi

ích lâu dài tức là bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái [4].
Xét hiệu quả môi trường trong sử dụng đất, đó là đảm bảo chất lượng đất
không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác. Bên cạnh
đó còn có các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan hệ giữa các hệ
thống phụ trợ trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy văn, bảo quản chế
biến, tiêu thụ hàng hóa
Tóm lại, sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vững phải quan tâm tới
cả ba loại hiệu quả, lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, không có hiệu quả kinh
tế thì không có điều kiện, nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường;
ngược lại, không có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không
vững chắc.
2.3.2. Khái niệm và ý nghĩa của đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp
2.3.2.1. Khái niệm về đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì: “Hiệu quả sử dụng đất là
chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất đai trong hoạt động kinh tế, thể
hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị (lợi nhuận) thu được bằng tiền; đồng thời
về mặt xã hội là thể hiện hiệu quả của lượng lao động được sử dụng trong cả quá
trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để khai thác đất.
Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về mặt giá trị
sản lượng và hiệu quả về mặt sử dụng sức lao động của nông dân, trong nhiều
trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu
được, nhất là các loại nông sản cơ bản, có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản
phẩm xuất khẩu, nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến ) để
đảm bảo sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước [12].
Theo Đường Hồng Dật và các cộng sự (1994), hoạt động sản xuất nông
nghiệp mang tính xã hội rất sâu sắc. Chính vì vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp cần phải quan tâm đến những tác động của sản xuất nông
nghiệp đến các vấn đề xã hội bao gồm giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng
cao trình độ dân trí ở nông thôn. Đây thực chất là đề cập đến hiệu quả xã hội khi

đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài ra cũng theo tác giả này, phát
triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp khi con người biết cách làm cho môi
trường phát triển, điều này không đồng nghĩa với việc đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp phải quan tâm tới những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp
19
tới môi trường xung quanh [3].
2.3.2.2. Ý nghĩa của đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa đặc
biệt đối với đời sống xã hội nói chung và đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng.
Khi đánh giá về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sẽ thu được các kết quả:
- Xác định được hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất đai, từ đó đưa ra
những quyết định đúng đắn trong việc bố trí sản xuất, đạt lợi nhuận cao nhất.
- Đi sâu vào những lợi ích, bất cập về mặt xã hội của việc sử dụng đất
nông nghiệp đem lại như tăng thu nhập, giải quyết công ăn việc làm, sự phù hợp
của quá trình sản xuất với tập quán, văn hóa của vùng. Từ đó khuyến cáo với
các cấp chính quyền và người dân bố trí lao động, cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội
cho phù hợp.
- Xem xét sự ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp đến môi trường sinh thái,
đặc biệt là môi trường đất. Đề xuất những loại hình sử dụng đất phù hợp với từng
khu vực, phương án cải tạo đất, chất lượng nước và môi trường xung quanh.
2.4. Tình hình sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam
Kinh tế Việt Nam gồm công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ
nhưng nông nghiệp là ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính kết nối rất cao với
nhiều ngành kinh tế. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến
thực phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của các ngành
công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc cơ khí,
năng lượng, tín dụng, bảo hiểm Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan mật thiết
đến sức mua của dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực
lượng lao động cả nước đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân
số sống ở nông thôn, mức thu nhập trong nông nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn

đến sức cầu của thị trường nội địa và tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông nghiệp
Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương
thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân cư, là nhân tố
quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định
chính trị - xã hội của đất nước.
Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và
suy thoái kinh tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò là trụ đỡ
của nền kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng. Năm 2011 xuất khẩu
nông - lâm - thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng 29% so với năm 2010.
20
Thặng dư thương mại toàn Ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần giảm
nhập siêu cả nước; nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá
trị kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng
trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước
tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%.
Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,7%.
Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng
3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%. Tốc độ
tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,6%. Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng
trưởng của ngành nông nghiệp rất đáng quan ngại, giảm dần, năm sau thấp hơn
năm trước. Phân tích nguyên nhân tình trạng trên có thể thấy những bất cập cần
được nghiên cứu khắc phục như sau:
Tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua của nước ta chủ yếu theo chiều rộng
thông qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên mức độ thâm dụng các yếu tố vật chất
đầu vào cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và đất đai. Sản xuất nông nghiệp đã và
đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như: mất đa dạng sinh học, suy thoái tài
nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, đất đai bị bạc màu, chi phí sản xuất tăng…
đe dọa tính bền vững của tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.
Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn
được dồi dào, nông nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp và dịch

vụ khác. Chi phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam với vị thế là nước sản xuất có
chi phí thấp so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do đầu tư cho nông
nghiệp ngày càng giảm dần, không tương xứng với sự đóng góp của nông
nghiệp cho nền kinh tế. Nếu như năm 2000, tỷ trọng đầu tư vào ngành Nông
nghiệp chiếm 13,85% tổng đầu tư của xã hội, thì tới năm 2005 chỉ còn 7,5%;
năm 2008: 6,45%; năm 2009: 6,26%; năm 2010: 6,2%. Đầu tư từ ngân sách nhà
nước và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp cũng giảm, từ 21,5% năm 2006
xuống 21,3% năm 2010 trong tổng số.
Đặc biệt, việc thống kê về đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất khó bóc
tách do có rất nhiều khoản chi cho công nghiệp, kết cấu hạ tầng quốc gia nằm trên
địa bàn nông thôn. Trong khi đó, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp luôn chịu
độ rủi ro rất cao (Tuy chính sách bảo hiểm nông nghiệp đã được ban hành nhưng
mới chỉ thực hiện thí điểm ở 20 tỉnh, thành phố) khiến các doanh nghiệp dè dặt khi
21
đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã giảm đáng kể,
từ 8% năm 2001 xuống còn chỉ 1% năm 2010. Đầu tư của tư nhân trong nước chỉ
chiếm từ 13 - 15% tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Nguyên nhân tiếp theo là thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là các
tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến nông sản được đưa vào ứng dụng sản
xuất chưa nhiều nên năng suất, chất lượng hiệu quả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng, khai thác hải sản còn thấp.
Tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, ruộng đất bị xé lẻ, phần lớn
nông hộ có diện tích đất nhỏ, rải rác làm tăng rủi ro, ngăn cản quá trình áp dụng
công nghệ tiên tiến, khó bảo quản hàng hóa, tăng chi phí sản xuất, gây phức tạp
cho quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh.
Một nguyên nhân khác là công nghiệp chế biến nông sản vẫn còn kém
phát triển. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, trong khi hàng hóa
thành phẩm được sản xuất ở nước khác và sau đó lại được nhập khẩu trở lại

Việt Nam. Điều này phản ánh nông dân, doanh nghiệp Việt Nam đang tự làm
thất thoát giá trị hàng nông sản trên thị trường quốc tế. Cho tới nay, chỉ có rất ít
thương hiệu và chỉ dẫn địa lý nổi tiếng gắn với nông sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, năng lực các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu
nông sản còn hạn chế, đặc biệt là năng lực quản lý, nghiên cứu, dự báo thị
trường, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế yếu; công tác xúc tiến
thương mại, xúc tiến xuất khẩu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên chưa
tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chậm được đổi mới, cơ chế hợp tác
liên kết sản xuất chế biến sản phẩm còn nhiều bất cập làm cản trở phát triển hợp
tác nông - công do tính rủi ro khi ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản với nhiều
nông hộ nhỏ, lẻ, phân tán.
Xây dựng nông thôn mới là chương trình lớn nhất từ trước đến nay trong
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhiều kế hoạch, cơ chế chính sách
đã được ban hành, nhưng nhiều nơi vẫn mới dừng lại ở quy hoạch, đề án; Việc
huy động các nguồn lực của toàn xã hội xây dựng nông thôn mới còn hạn chế.
Nếu giải quyết tốt các vấn đề nêu trên, tin chắc chắn rằng nông nghiệp
Việt Nam sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng, tiếp tục làm tốt vai trò là trụ đỡ
cho nền kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của đất nước [16].
2.5. Tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh Thừa Thiên Huế
Năm 2010, thời tiết khí hậu diễn biến bất thường gây khó khăn không nhỏ
22
cho sản xuất nông nghiệp nhưng với sự chỉ đạo kịp thời của ngành Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã hướng dẫn các địa phương thực hiện lịch thời vụ gieo
trồng, cơ cấu giống lúa và các loại giống cây trồng khác phù hợp cho từng vụ
sản xuất. Điều tra dự tính dự báo và kịp thời hướng dẫn các biện pháp phòng trừ
các đối tượng sâu bệnh hại Ngoài ra, việc chỉ đạo khắc phục hậu quả do thiên
tai bão lụt gây ra kịp thời, sát thực tế đã hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại.
Bên cạnh đó, với sự cố gắng vượt bậc của bà con nông dân trong toàn tỉnh, sản
xuất nông nghiệp tỉnh ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

* Những thành quả đạt được
- Diện tích gieo trồng các cây trồng chính ổn định, riêng lúa tăng 977
ha, năng suất lúa tăng 02 tạ/ha, góp phần đưa sản lượng lúa trên địa bàn toàn
tỉnh đạt trên 29 vạn tấn/năm, đảm bảo an ninh lương thực tại địa phương. Năng
suất các loại cây khác như sắn, lạc đều có tăng lên so với năm trước.
- Công tác khảo nghiệm, chọn lọc giống mới có chất lượng cao để đưa vào
trong sản xuất ngày càng được chú trọng. Cơ cấu cây trồng được chuyển dịch
theo hướng phát triển về chất lượng sản phẩm. Các giống lúa mới có chất lượng
cao (như HT1, IRi352, HT6, HC95, BT7), giống lạc mới L14, L18; giống sắn
công nghiệp được đưa vào sản xuất với diện tích ngày càng tăng, tạo được sản
phẩm mang tính hàng hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích.
- Công tác khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật được tiến hành
thường xuyên, kịp thời và ngày càng có hiệu quả, đã có tác động tích cực đến
nâng cao thu nhập cho người dân. Các dịch vụ phục vụ sản xuất như cung ứng
giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tưới tiêu được nâng cao đã đáp
ứng được phần lớn nhu cầu của người nông dân, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tình hình giá cả vật tư phân bón, giá nông sản phẩm từng bước ổn định theo
chiều hướng có lợi cho người sản xuất.
- Công tác bảo vệ thực vật, thú y được chú trọng, mạng lưới ở cơ sở
không ngừng được củng cố và phát triển, công tác điều tra dự tính dự báo,
phòng chống dịch bệnh được thực hiện thường xuyên, kịp thời, có hiệu quả.
- Các chính sách hỗ trợ của tỉnh để phát triển sản xuất và khắc phục thiên
tai được ban hành kịp thời nên phát huy hiệu quả, có vai trò lớn trong kết quả
đạt được của sản xuất nông nghiệp năm 2010.
* Những tồn tại, hạn chế
- Cơ cấu giống lúa chủ lực vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể, có giống đã
23
tồn tại qua nhiều năm, nhiễm nặng các loại sâu bệnh đang còn chiếm tỷ lệ lớn,
chưa có nhiều giống có khả năng chống chịu bệnh đạo ôn, lem lép hạt, rầy,
chưa lựa chọn và đưa ra sản xuất các giống có năng suất cao và chống chịu hạn

mặn để cơ cấu ở một số vùng khó khăn. Chất lượng đàn bò không tăng, chất
lượng đàn lợn có được nâng lên nhưng tỷ lệ vẫn còn thấp.
- Đối với cây cao su còn phổ biến tình trạng khai thác không đúng kỹ thuật
đã ảnh hưởng đến chất lượng vườn cây, một số diện tích cao su ở các vùng xa, đi
lại khó khăn, nông dân thiếu đầu tư chăm sóc, bón phân, cỏ dại mọc che phủ cây
cao su, cây sinh trưởng phát triển kém, có nơi cây bị chết với tỷ lệ cao.
- Việc nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả còn chậm. Có đề
tài nghiên cứu ứng dụng đạt kết quả tốt nhưng chưa được áp dụng rộng rãi
vào sản xuất.
- Công tác chỉ đạo sản xuất một số địa phương còn thiếu đồng bộ, kết quả
đạt được chưa cao như thực hiện thời vụ gieo cấy vụ Hè Thu vẫn còn chậm so
với kế hoạch. Công tác giám sát thực hiện phòng trừ sâu bệnh có lúc chưa được
chặt chẽ, có nơi áp dụng kỹ thuật phòng trừ chưa đúng, một số địa phương còn
chủ quan đã làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất lúa.
- Công tác quản lý nhà nước về chất lượng giống, vật tư, thuốc thú y, bảo
vệ thực vật và an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn hạn chế.
- Thị trường sản phẩm nông nghiệp thiếu tính ổn định, gây khó khăn cho
người sản xuất. Các giải pháp điều tra, đánh giá, nghiên cứu thị trường chưa
được quan tâm đúng mức.
- Năng lực quản lý, điều hành của một số hợp tác xã còn yếu, thiếu kinh
nghiệm đặc biệt về các vấn đề liên quan đến quản lý sâu bệnh. Chưa phát huy
đầy đủ vai trò dịch vụ sản xuất nông nghiệp tại địa phương, khắc phục thiên tai,
dịch hại gây ra và tiêu thụ sản phẩm cho hộ nông dân.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
24
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng đồng bằng ven biển ở thị xã
Hương Trà.

- Thực trạng và hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp vùng đồng
bằng, ven biển tại thị xã Hương Trà.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu các số liệu từ năm 2005 đến năm
2013, được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 02/01/2014 đến ngày
06/05/2014.
- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tại các xã, phường vùng đồng
bằng và ven biển thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Hương Trà.
- Nghiên cứu thực trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của địa bàn.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của vùng thông qua
một số loại hình sử dụng đất chính.
- Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu
3.4.1.1. Số liệu thứ cấp
Các tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình sử
dụng đất… từ các báo cáo của địa phương, định hướng sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp của thị xã, quy hoạch sử dụng đất.
3.4.1.2. Số liệu sơ cấp
Xây dựng phiếu điều tra nông hộ. Tiến hành điều tra ở các xã vùng đồng
bằng ven biển thị xã Hương Trà về mùa vụ, cơ cấu cây trồng, mức đầu tư, lợi
nhuận thu được, những khó khăn, thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp…
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điều tra được 188
hộ trong tổng số 200 hộ dự kiến tại 7 xã, phường vùng đồng bằng ven biển thị
25

×