Tải bản đầy đủ (.docx) (155 trang)

Quản lý nhà nước về thu phí và lệ phí hàng hải tại các cảng biển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 155 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với bờ biển dài 3.260 km và rất nhiều đảo lớn nhỏ có địa điểm thích hợp cho
xây dựng cảng biển, tọa lạc ở vị trí gần với 10 tuyến đường hàng hải quốc tế lớn
nhất, Việt Nam là một trong số các quốc gia trên thế giới có lợi thế lớn về kinh tế
biển nói chung, về dịch vụ cảng biển, vận tải đường biển nói riêng. Lợi thế này có
vai trị rất quan trọng trongthời đại tồn cầu hóa. Bởi vì vận tải hàng hóa đường biển
có ưu thế vượt trội nhờ khối lượng vận tải lớn, phương thức vận tải đa dạng, có thể
vận chuyển các loại hàng hóa siêu trường, siêu trọng, giá thành vận chuyển thấp…
Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam (Cục HHVN) và Tổng cục Hải quan thì
vận tải đường biển thường đảm nhiệm từ 80% đến 90% khối lượng hàng hoá xuất,
nhập khẩu của nước ta.
Nhận thức rõ lợi thế này, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế biển nói chung, cảng biển nói riêng. Chiến lược Biển Việt
Nam đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu: Đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng
góp khoảng 53-55% GDP của cả nước [24, tr.3], trong đó nhấn mạnh:
Xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành
một số tập đồn kinh tế mạnh. Xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven
biển; xây dựng cơ quan QLNN tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực,
hiệu quả; mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển. Đến năm
2020, phát triển thành cơng, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển
như sau: 1) Khai thác, chế biến dầu, khí; 2) Kinh tế hàng hải; 3) Khai
thác, chế biến hải sản.... Sau năm 2020, thứ tự phát triển kinh tế biển có
sự thay đổi: 1) Kinh tế hàng hải; 2) Khai thác, chế biến dầu, khí và các
loại khoáng sản; 3) Khai thác, chế biến hải sản; 4) Du lịch biển và kinh tế
hải đảo…, [24, tr.4].
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 cũng đã chỉ rõ:
Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của
nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh,




bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu
công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành cơng nghiệp năng
lượng, đóng tàu, xi-măng, chế biến thủy sản chất lượng cao. Phát triển
cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông-biển; phát triển các đội tàu,
cơng nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển [23, tr.14].
Để huy động một phần nguồn lực tài chính phát triển các cảng biển, tăng
trách nhiệm của khách hàng sử dụng dịch vụ cảng biển, ngoài việc đầu tư cơ sở vật
chất- kỹ thuật hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ sức tiếp nhận các tàu vận tải trọng
lượng lớn, nước ta cần phải thực hiện chính sách giá dịch vụ cảng biển, chính sách
thu phí và lệ phí hàng hải (PLPHH) sao cho có thể vừa bù đắp đủ chi phí, có lãi,
vừa đảm bảo tính cạnh tranh với phí dịch vụ tại cảng biển của các nước trong khu
vực. Chủ thể thích hợp làm việc này là Nhà nước. Hơn nữa, Nhà nước ta còn cần có
cơ chế quản lý thích hợp để thống nhất hành động của các cảng biển trong lĩnh vực
thu phí dịch vụ nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia đi đôi với thúc đẩy phát triển các dịch
vụ cảng tương xứng với lợi thế của đất nước. Bên cạnh đó, sự cần thiết của quản lý
nhà nước (QLNN) đối với thu phí dịch vụ cảng biển cịn xuất phát từ nhiều lý do
khác như: hầu hết các cảng biển đều được đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước
(NSNN) nên cần có sự QLNN trong lĩnh vực này; cần quy định rõ phần đóng góp
cho các cấp NSNN phù hợp với các yêu cầu hoàn vốn, kinh doanh của doanh
nghiệp cảng, đầu tư, bảo trì hệ thống báo hiệu hàng hải, luồng hàng hải và kết cấu
hạ tầng (KCHT) cảng biển, hệ thống thơng tin dun hải, tìm kiếm cứu nạn …
Ngồi ra PLPHH là nhân tố có ảnh hưởng đến giá thành xuất, nhập khẩu
hàng hố, vì vậy cần xác định một mức thu phí, lệ phí hợp lý sao cho vừa phù hợp
với chính sách ngoại thương của Nhà nước, vừa phù hợp với chính sách thu hút tàu
biển đến các cảng Việt Nam, tạo điều kiện phát triển các dịch vụ có liên quan như
bốc xếp, giao nhận, đại lý, môi giới hàng hải. Ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đã
tham gia ký kết một loạt hiệp định song phương, đa phương thuộc lĩnh vực giao

thơng vận tải (GTVT), trong đó có ngành hàng hải. Gia nhập WTO, Việt Nam phải
thực hiện đầy đủ các quy định của tổ chức này, trong đó có cam kết về dịch vụ hàng


hải và phí dịch vụ cảng biển, vì vậy trong quản lý cần phải nghiên cứu để thực hiện
chính sách thu PLPHH không gây bất lợi cho giao thương hàng hóa. Thực tế, nội
dung, cơ chế quản lý PLPHH ở nước ta những năm qua đã có bước tiến bộ nhất
định, giúp lành mạnh hóa việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi trong điều hành hoạt động thu phí của các cơ quan
QLNN.Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng nhiều bộ, ngành có thẩm quyền ban hành các
nghị định, thơng tư và văn bản khác nhau hướng dẫn hoạt động thu phí, lệ phí dẫn
đến tình trạng quy định chồng chéo. Đã xuất hiện nhiều tranh luận liên quan đến
QLNN về thu PLPHH như: ai kiểm soát và kiểm soát như thế nào đối với việc ban
hành và giám sát thực thi chính sách thu phí, lệ phí; làm thế nào để PLPHH không
trùng lắp với giá dịch vụ cảng biển; những trường hợp đặc biệt nào cần miễn, giảm
PLPHH; mức thu và cơ chế quản lý thu các loại PLPHH hiện nay có phù hợp với
u cầu QLNN trong tình hình hiện nay và thơng lệ quốc tế khơng…
Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải tiến hành nghiên cứu lĩnh vực
thu PLPHH một cách hệ thống và bài bản. Đây cũng chính là lý do mà đề tài “Quản
lý nhà nước về thu phí và lệ phí hàng hải tại các cảng biển Việt Nam” được chọn
làm đối tượng nghiên cứu trong luận án.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
của QLNN về thu PLPHH tại các cảng biển ở nước ta hiện nay dưới góc nhìn quản
lý kinh tế. Lấy cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đó làm khung phân tích, khảo
sát, đánh giá thực trạng QLNN về thu PLPHH của Việt Nam qua một số nội dung
và tiêu chí nhằm tìm ra các thành cơng, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó.
Trên cơ sở phân tích lý thuyết và thực tiễn, đề xuất một số phương hướng và giải
pháp hoàn thiện QLNN về thu PLPHH tại cảng biển Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Phù hợp với mục đích nghiên cứu nêu trên, q trình triển khai nghiên cứu
đề tài đã hồn thành các nhiệm vụ sau:


- Phân tích, làm rõ khung lý thuyết của QLNN về thu PLPHH tại các cảng
biển phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế.
- Tổng hợp, phân tích kinh nghiệm thành cơng và thất bại của một số nước
trong quản lý thu PLPHH tại cảng biển và rút ra bài học cho Việt Nam.
- Thu thập thơng tin, rà sốt, phân tích, đánh giá các chế độ, chính sách và
thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách trong lĩnh vực quản lý thu PLPHH tại
các cảng biển Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến 2015 trong đó chú trọng phân
tích đánh giá lộ trình thay đổi mức thu từ năm 2001 đến 2016.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện QLNN về phí PLPHH
các cảng biển Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các loại PLPHH tại các cảng biển Việt Nam
và nội dung, bộ máy QLNN về thu PLPHH tại các cảng biển Việt Nam giai đoạn từ
năm 2010 đến 2015 với các nội dung sau đây:
- Cơ sở khoa học của QLNN về thu PLPHH tại cảng biển;
- Thực trạng chính sách thu PLPHH tại cảng biển: phân tích để làm rõ việc
có hay không việc chồng chéo về thẩm quyền, chức năng ban hành chính sách thu
của cơ quan QLNN có thẩm quyền hiện nay; nếu có thì mức độ chồng chéo về thẩm
quyền ban hành chính sách thu như thế nào; những vướng mắc chủ yếu trong quá
trình tổ chức thực hiện hiện nay;
- Thực trạng triển khai thực hiện chính sách thu gồm: Tổ chức bộ máy thực
hiện thu, trình tự thủ tục thu và kiểm tra giám sát thu;
- Một số cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích thu, phịng chống thất thoát
trong thu PLPHH.

3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi về nội dung: Nội dung QLNN về thu PLPHH tại cảng biển giới hạn
trong thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương. Đối tượng quản lý
là tổ chức thu và tổ chức, cá nhân nộp phí, lệ phí tại cảng biển Việt Nam. Cơng cụ
quản lý là các chính sách thu và quy trình thu PLPHH. PLPHH được nghiên cứu


trong luận án là những loại phí, lệ phí trong danh mục phí, lệ phí do Bộ Tài chính
ban hành mức thu và các chủ tàu, chủ hàng phải nộp cho cơ quan, tổ chức được giao
nhiệm vụ thu phí tại các cảng biển Việt Nam khi tàu vào, rời cảng biển Việt Nam.
Phạm vi về thời gian: Giới hạn phân tích thực trạng QLNN về thu PLPHH
tại các cảng biển Việt Nam từ năm 2010 đến hết năm 2015 qua các số liệu thu thập
chính thống đã được cơng bố, phân tích về thay đổi mức thu nghiên cứu cả giai
đoạn 2001 đến 2016, trong đó số liệu khảo sát điều tra thực hiện trong năm 2016.
Các dự báo, đề xuất dự tính cho giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
Phạm vi về khơng gian: Địa bàn khảo sát chủ yếu là các cảng biển quốc gia
lớn của Việt Nam như: cảng biển ở Quảng Ninh, Hải Phịng, Đà Nẵng, Thành phố
Hồ Chí Minh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Quá trình triển khai nghiên cứu đề tài án đã vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp các dữ liệu khoa học đã có để hình thành
cơ sở lý thuyết của QLNN về thu PLPHH tại cảng biển, trong đó coi trọng việc
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phí và lệ phí như mối quan hệ giữa nhân tố
cung (gồm: công suất, năng lực thông qua của cảng biển, luồng hàng hải) với nhân
tố cầu (gồm: sản lượng hàng hóa, tàu thuyền thơng qua cảng biển). Phân tích mối
quan hệ hữu cơ giữa nguồn vốn đầu tư từ NSNN vào KCHT cảng biển và QLNN về
thu, sử dụng PLPHH trong chương 3 của luận án.
- Phương pháp so sánh: dùng để phân tích kinh nghiệm của một số nước
trong khu vực và rút ra bài học cho Việt Nam được sử dụng trong chương 2 và
chương 4 của luận án.

- Phương pháp phân tích số liệu thống kê: sử dụng để phân tích các tài liệu
thống kê, các văn bản quy định về thu, sử dụng phí, lệ phí, báo cáo của cơ quan
QLNN chuyên ngành HHVN, một số đề tài đề án có liên quan để làm rõ thực trạng
chính sách thu PLPHH ở Việt Nam (mặt thành cơng; mặt hạn chế) tại chương 3 của
luận án để từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện, khắc phục các mặt cịn hạn chế,
phát huy thành cơng trong QLNN về thu PLPHH.
* Phương pháp thu thập số liệu


- Dữ liệu thứ cấp: sử dụng các nguồn tài liệu dưới đây:
+ Các báo cáo tổng kết năm từ 2010 đến 2015 của Cục HHVN, các đề án có
liên quan đến QLNN về thu PLPHH, các đề án về KCHT hàng hải, hợp tác quốc
tế…của Cục HHVN về lĩnh vực quản lý ngành hàng hải đã hoàn thành.
+ Các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về các nội dung liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Sử dụng bảng hỏi đối với cán bộ trực tiếp thu và một
số đối tượng nộp PLPHH tại cảng biển nhằm cung cấp thông tin đánh giá thực trạng
QLNN về thu PLPHH tại một số cảng lớn ở Việt Nam được tiến hành trong chương
3 của luận án. Các câu hỏi sẽ xoay quanh các chủ đề: mức thu, cơ cấu thu, hình thức
thu, bộ máy thu, cán bộ thu, thủ tục hành chính liên quan đến thu PLPHH tại cảng
biển Việt Nam. Kết quả điều tra thu thập được sử dụng để làm minh chức cho các
nhận định về thành công, hạn chế của QLNN về thu PLPHH tại cảng biển Việt
Nam. Quy trình điều tra (Xem Bảng 0.1).
Bảng 0.1- Quy trình điều tra nghiên cứu bằng phiếu hỏi
Bƣớc

Định dạng

Phƣơng pháp


1

Sơ bộ 1

Khảo sát

Kỹ thuật xử lý
Thảo luận trực tiếp với đối tượng

Thời gian
20/10/2015

điều tra. Số phiếu từ 3 đến 5 phiếu
2

Sơ bộ 2

Điều chỉnh

Phiếu điều tra sơ bộ.
Số phiếu từ 7 đến 10 phiếu

3

Chính thức

Định lượng

Phiếu điều tra chính thức. Số
phiếu từ 200 đến 250 phiếu


20/11/201520/12/2015
03/02/201603/04/2016

Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Trên cơ sở các tiêu chí đánh giá QLNN về thu PLPHH tại cảng biển, luận án
sử dụng các phiếu hỏi nhằm thu thập các thông tin phản ánh ý kiến của các đối
tượng thuộc cả chủ thể quản lý lẫn đối tượng quản lý. Số liệu được xử lý bằng phần
mềm SPSS 20. Quy mô điều tra gồm 250 phiếu hỏi với các đối tượng là: thuyền
trưởng tàu biển, các CVHH, cán bộ ở một số doanh nghiệp hàng hải.


Các câu hỏi được thiết kế theo thang điểm từ 1 đến 5, với các mức ý nghĩa: 1
= Đồng ý rất thấp; 2 = Đồng ý thấp; 3 = Đồng ý; 4 = Đồng ý cao vừa; 5 = Đồng ý
cao (Chi tiết mẫu phiếu điều tra tại Phụ lục số 1).
Phiếu điều tra 1: Đối tượng điều tra là các cá nhân gồm thuyền trưởng, người
điều khiển tàu biển ra, vào các cảng biển Việt Nam. Mẫu phiếu này gồm 24 câu hỏi.
Phiếu điều tra 2: Đối tượng điều tra là cán bộ làm việc trong các doanh
nghiệp gồm một số doanh nghiệp vận tải biển, 02 Tổng cơng ty Bảo đảm an tồn
hàng hải, một số doanh nghiệp cảng biển, công ty hoa tiêu hàng hải. Mẫu phiếu này
gồm 24 câu hỏi.
Phiếu điều tra 3: Đối tượng điều tra là các cảng vụ hàng hải (CVHH). Mẫu
phiếu này gồm 17 câu hỏi.
Trong số các câu hỏi có 2 câu hỏi về độ phức tạp của văn bản QPPL về thu
PLPHH và đánh giá chất lượng QLNN về thu PLPHH hiện nay, phiếu hỏi được gửi
cho các thuyền trưởng tàu biển và các doanh nghiệp hàng hải với các mức ý nghĩa:
i) Độ phức tạp của văn bản QPPL: 1 = Phức tạp; 2 = Phức tạp vừa phải; 3 =
Đạt yêu cầu; 4 = Khá đơn giản; 5 = Đơn giản.
ii) Đánh giá về chất lượng QLNN: 1 = Quản lý kém so với yêu cầu; 2 =
Quản lý thấp hơn so với yêu cầu; 3 = Quản lý đạt yêu cầu; 4 = Quản lý khá; 5 =

Quản lý tốt.
Quy trình thực hiện điều tra tại Bảng 0.1 được thực hiện như sau:
Bước 1, thực hiện sơ bộ công tác khảo sát bằng cách thảo luận trực tiếp với
một số cán bộ có kinh nghiệm của Cục HHVN và các CVHH để khai thác, tìm hiểu
các nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu trên cơ sở khung lý thuyết QLNN thu
PLPHH tại cảng biển. Tạo lập dàn bài về các tiêu chí cần điều tra phục vụ cho đề
tài, mức độ hài lòng của từng tiêu chí từ đối tượng điều tra.
Bước 2, nghiên cứu sơ bộ bằng các phiếu điều tra thử trực tiếp nhằm hiệu
chỉnh, xác lập chuỗi câu hỏi cho bảng hỏi, giữ lại các biến cần thiết để điều tra.
Bước 3. Phát hành và gửi các phiếu điều tra theo dàn bài, câu hỏi đã được
hiệu chỉnh (250 phiếu). Kết quả điều tra nhận được sẽ sử dụng phần mềm SPSS 20


để xử lý và làm sạch số liệu điều tra. Các phân tích nhận được sẽ sử dụng để phân
tích, đánh giá QLNN về thu PLPHH tại cảng biển Việt Nam.
5. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
- Tổng quan các thành tựu nghiên cứu liên quan đến QLNN về thu PLPHH
tại cảng biển đến thời điểm 2017.
- Hình thành khung phân tích lý thuyết QLNN về thu PLPHH tại cảng biển
trên các giác độ: Mục tiêu QLNN về thu PLPHH (gồm hoạch định chính sách thu
PLPHH hợp lý; Thực thi chính sách thu hợp lý; Thống nhất quản lý thu PLPHH tại
các cảng biển; Giảm thất thu và tiêu cực trong thu PLPHH tại các cảng biển; Tạo
điều kiện thuận tiện, dễ tiếp cận, chi phí thấp cho tầu biển ra vào cảng biển; Thu hút
các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước nhằm phát triển hệ thống KCHT hàng
hải); nội dung QLNN về thu PLPHH tại cảng biển (gồm xây dựng và ban hành các
chế độ, chính sách về thu PLPHH tại cảng biển, tổ chức bộ máy thu PLPHH tại
cảng biển; quản lý quá trình thu PLPHH tại cảng biển; thanh tra, kiểm tra, giám sát
quá trình thu PLPHH tại cảng biển); xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá QLNN về
thu PLPHH tại cảng biển (nhóm tiêu chí đánh giá chính sách thu và nhóm tiêu chí
đánh giá q trình tổ chức thu PLPHH tại cảng biển); xác định bốn nhóm nhân tố

ảnh hưởng đến QLNN về thu PLPHH (nhóm nhân tố thuộc về mơi trường vĩ mơ,
nhóm nhân tố thuộc về cơ quan QLNN, nhóm nhân tố thuộc về đối tượng nộp
PLPHH, nhóm nhân tố thuộc về CVHH).
- Đúc kết một số kinh nghiệm QLNN về thu PLPHH của Thái Lan,
Singapore và Trung Quốc và rút ra một số bài học có thể áp dụng ở Việt Nam.
- Làm rõ thành công, hạn chế của QLNN về thu PLPHH tại các cảng biển
Việt Nam giai đoạn 2010 đến 2015, trong đó nhấn mạnh thành cơng về đổi mới
chính sách thu, thành cơng về kiện tồn bộ máy quản lý và điều hành thu, thành
công thể hiện ở tổng số thu tăng lên, mức thu giảm xuống.
Các hạn chế trong QLNN về thu PLPHH được làm rõ bao gồm: i)Chính sách
thu PLPHH tại cảng biển cịn một số nội dung chưa hợp lý về quy định thu, mức
thu; ii)Tổ chức bộ máy quản lý quá trình thu PLPHH tại cảng biển cịn khép kín,
thẩm quyền ban hành danh mục phí, lệ phí chưa phù hợp, bộ máy trực tiếp thu chưa


phù hợp để tạo thuận lợi cho đối tượng nộp PLPHH; iii)Quản lý q trình thực hiện
thu cịn một số hạn chế; iv) Hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố
cáo về thu PLPHH chưa hiệu quả.
- Nguyên nhân của hạn chế được xác định chủ yếu là do khung khổ pháp lý
chế định chính sách thu và tổ chức thu PLPHH tại cảng biển chưa đầy đủ và một số
nguyên nhân chủ quan khác.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về thu PLPHH tại các cảng biển
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 gồm: i) Hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật chun ngành có liên quan đến chính sách thu phí, lệ phí hàng
hải tại cảng biển; ii) Nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức thu phí và lệ phí hàng
hải tại cảng biển; iii) Nâng cao chất lượng thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu
nại, tố cáo; iv) Giải quyết nợ đọng và quản lý chặt chẽ thời hạn thanh toán của đối
tượng nộp PLPHH tại cảng biển.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung

của luận án được trình bày trong 4 chương và 13 tiết.


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÍ VÀ LỆ PHÍ HÀNG HẢI
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ DỊCH VỤ CÔNG VÀ THU PHÍ DỊCH VỤ
CƠNG
Đã có một số cơng trình nghiên cứu về dịch vụ cơng (DVC) và thu phí
DVC. Dưới góc độ kinh tế, một số nhà khoa học cho rằng, nên đối xử với DVC và
phí DVC như là một loại hàng hóa đặc biệt và phí DVC phải gắn với chi phí xã hội
và lợi ích xã hội của DVC. Có thể lược qua một số cơng trình sau đây:
- Adrienne Curry (1999) với nghiên cứu về "Sáng tạo quản lý dịch vụ
cơng"[65]. Trong cơng trình này, tác giả, thông qua nghiên cứu việc quản lý và
cung cấp KCHT giao thông, đã đề xuất quan điểm nên coi dịch vụ giao thông như
là một phần của DVC mà Nhà nước phải cung cấp, nhưng cần và nên quản lý việc
sản xuất và cung ứng dịch vụ giao thông dưới hình thức doanh nghiệp. Theo ơng,
hình thức doanh nghiệp cho phép tính tốn chi phí và lợi ích dưới dạng tiền để vừa
có thể bồi hồn một phần chi phí đầu tư, vừa khơng cản trở lưu thơng của các
phương tiện, vừa hạch tốn minh bạch tài chính cơng. Đây là nghiên cứu có thể sử
dụng tham khảo trong việc tính tốn lợi ích DVC tại cảng biển. Tuy nhiên, cơng
trình này chưa giải quyết được vấn đề là trong thực tế khơng phải lợi ích xã hội nào
cũng có thể đo lường được bằng tiền hoặc những lợi ích tổng thể như phát triển một
vùng kinh tế cụ thể sẽ khó khăn khi chuyển sang lượng hóa bằng tiền.
- Sonny Nwankwo và Bill Richardson (1994), trong nghiên cứu về "Đảm
bảo và đo lường chất lượng dịch vụ đối với khu vực cơng"[69], đã đưa ra cách nhìn
người tham gia giao thông là khách hàng của các cơ quan quản lý hạ tầng giao
thơng. Với cách nhìn này, việc định mức phí, giá dịch vụ giao thơng cũng như cung
cấp các hạ tầng thiết yếu phải xuất phát từ nguyện vọng của khách hàng. Cơng trình
này đưa ra những gợi mở hướng nghiên cứu tính tốn các mức thu PLPHH tại cảng

biển. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào vấn đề cải cách DVC nói
chung, chưa phân tích sâu về các DVC gắn với đặc thù ngành hàng hải, cảng biển.


- Luận án tiến sỹ quản lý kinh tế của Nguyễn Quốc Tuấn (2015) với đề tài:
"Quản lý nhà nước đối với dịch vụ logistics ở Cảng Hải Phòng"[61] đã xác định nội
hàm QLNN đối với lĩnh vực vận tải đa phương thức ở cảng biển Hải Phòng và các
yếu tố tác động đến QLNN về logistics. Tác giả luận án đã chứng minh rằng,
QLNN đối với dịch vụ logistics ở cảng Hải Phòng còn nhiều bất cập, kiến nghị với
Chính phủ, các bộ, ngành và thành phố Hải Phịng hoàn thiện nội dung, bộ máy và
cán bộ quản lý trong lĩnh vực logistics nhằm phát triển bền vững dịch vụ này tại
cảng biển Hải Phịng. Đây là cơng trình nghiên cứu cụ thể về một DVC tại cảng
biển có thể sử dụng tham khảo cho nhiều nghiên cứu về đề tài QLNN đối với dịch
vụ cảng biển, song phạm vi nghiên cứu của cơng trình khá hẹp, chưa nghiên cứu
chuyên sâu về KCHT cảng biển, quy hoạch cảng biển, luồng hàng hải…là những
nền tảng cốt yếu hình thành nên các DVC trong lĩnh vực hàng hải ở Việt Nam.
- Nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Điệp (2013) về "Quản lý nhà nước đối với
dịch vụ công, kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam"[28] đã coi
việc cung ứng DVC là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, phân tích bất cập giữa
Nhà nước với tư cách là bên tổ chức cung ứng DVC và xã hội, người dân là người
tiêu dùng DVC. Bài viết phân tích kinh nghiệm quốc tế về phương thức quản lý và
cung ứng trực tiếp của Nhà nước đối với một số loại DVC đặc thù; xu thế đa dạng
hóa phương pháp quản lý DVC như quản lý theo mục tiêu, quản lý theo kết quả,
quản lý theo hợp đồng; phân cấp quản lý từ trung ương cho chính quyền địa
phương như là quá trình phân quyền và phi tập trung hóa trong quản lý của Chính
phủ nhằm thu hẹp khoảng cách giữa người được thụ hưởng DVC với người ra
quyết định, quản lý và cung cấp DVC. Nghiên cứu cũng đi sâu vào phân tích kinh
nghiệm của các nước trong xã hội hóa DVC, đánh giá tình hình tài chính của đối
tượng thụ hưởng DVC, khuyến nghị chính sách cho Việt Nam trong tạo lập cơ sở
pháp lý, phân định DVC và cơ cấu lại chi tiêu ngân sách theo hướng tập trung đầu

tư thích đáng cho DVC cơ bản, thiết yếu, phân cấp quản lý và định mức các loại
giá, phí sử dụng DVC. Nghiên cứu này đã cung cấp một số luận điểm lý luận và
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý DVC tại cảng biển. Tuy nhiên đây là nghiên
cứu có phạm vi


rộng về lý thuyết, song chưa nghiên cứu cụ thể về nội dung QLNN đối với hạ tầng
cảng biển cũng như chưa phân tích chuyên sâu về chính sách phí, mức thu phí, lệ
phí.
- Nghiên cứu của Đặng Đức Đạm về "Một số vấn đề về đổi mới quản lý
dịch vụ cơng ở Việt Nam"[27]. Trong cơng trình này tác giả đã phân tích nội hàm
khái niệm DVC theo nghĩa hẹp đang áp dụng tại Việt Nam gồm có dịch vụ hành
chính cơng, dịch vụ cơng cộng, dịch vụ cơng ích. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến
thực trạng, vấn đề và yêu cầu đổi mới quản lý đối với DVC của Nhà nước ta, trong
đó đặc biệt xác định bất cập trong việc các cơ quan tổ chức cung ứng DVC chủ yếu
như giáo dục, đào tạo, y tế đang quản lý theo mơ hình cơ quan hành chính cơng
quyền tốn kém NSNN, trong khi mức thu phí bị khống chế quá thấp, bỏ phí cơ hội
xã hội hóa chi phí cho một số loại hình DVC. Tác giả cũng phân tích ý thức làm
việc của người lao động trong cơ quan cung ứng DVC chưa cao, kiến nghị đổi mới
quản lý theo hướng cơ cấu lại chi tiêu NSNN, đổi mới chế độ tài chính cho giáo
dục và y tế, đổi mới căn bản chế độ học phí, viện phí, cơ chế tài chính quản lý đối
với các đơn vị cung ứng DVC, đồng thời đề xuất chế độ trợ giúp của Nhà nước đối
với các hộ nghèo, cận nghèo và vùng đặc biệt khó khăn. Các kết quả trong cơng
trình nghiên cứu có thể là dữ liệu tham khảo cho nghiên cứu về giải pháp đổi mới
quản lý DVC tại cảng biển. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung
vào 2 DVC có ảnh hưởng lớn đến xã hội là giáo dục, y tế.
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài mã số ĐTĐL 2004/13 về
"Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ cơng trong điều kiện cải cách hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay"do Chu Văn Thành (2004) làm chủ nhiệm[60]. Cơng
trình này đi sâu phân tích bản chất, đặc trưng của DVC và xã hội hoá DVC; tiến

hành phân loại DVC và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong quản
lý và tổ chức cung ứng DVC. Báo cáo cũng đưa ra các phân tích về thành tựu, hạn
chế trong quản lý, tổ chức cung ứng DVC cũng như việc thực hiện chủ trương đẩy
mạnh xã hội hố một số loại hình DVC chủ yếu ở nước ta, đề xuất phương hướng
đổi mới, cải cách quản lý, tổ chức cung ứng DVC, xã hội hoá DVC đáp ứng yêu
cầu cải cách nền hành chính nhà nước. Cơng trình này cung cấp dữ liệu tham khảo
hữu ích cho nghiên cứu giải pháp hồn thiện QLNN về thu PLPHH tại cảng biển.


Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này chưa đề cập đến quản lý thu phí gắn với cung
ứng DVC, mới đề xuất phân cơng, phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các bộ,
ngành trong quản lý DVC theo yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước.
- Đề án "Phân cấp, xã hội hóa cơng tác bảo dưỡng, duy tu kết cấu hạ tầng
hàng hải"của Cục HHVN (2013)[17]. Đề án đã phân tích thực trạng việc phân cấp,
xã hội hóa cơng tác bảo dưỡng, duy tu KCHT hàng hải, nhu cầu vốn cho duy tu,
bảo dưỡng hạ tầng ngành, thực trạng phân cấp QLNN giữa Bộ Giao thông vận tải
(Bộ GTVT) và doanh nghiệp trong bảo dưỡng, duy tu; phân cấp trong quy hoạch,
đầu tư xây dựng cảng biển; nguồn nhân lực trong thực hiện phân cấp, xã hội hóa…
Cơng trình này cũng phân tích các tồn tại trong quản lý, duy tu, bảo dưỡng, tồn tại
về cơ chế chính sách, tồn tại về nguồn nhân lực trong lĩnh vực này và đề xuất giải
pháp đổi mới mạnh mẽ trong phân cấp, xã hội hóa hoạt động bảo dưỡng, duy tu
KCHT hàng hải và có nhiều thơng tin tham khảo hữu ích khác.
- Nghiên cứu của David Koh, Đặng Đức Đạm và Nguyễn Thị Kim Chung
(2009) về "Cơ cấu tổ chức Chính phủ để cung ứng dịch vụ cơng tốt nhất: Trường
hợp Việt Nam và một số kiến nghị đổi mới"trong loạt bài nghiên cứu chính sách về
cải cách hành chính và chống tham nhũng, chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP) tại Việt Nam[42]. Trong cơng trình nghiên cứu này các tác giả đã nhấn
mạnh rằng, việc thiết kế quy trình cải cách hành chính nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phải trả lời ít nhất hai câu hỏi: quản trị
quốc gia tốt để làm gì và làm thế nào để đo lường được quản trị quốc gia tốt. Bên

cạnh đó nghiên cứu khẳng định: một đất nước có DVC ưu việt là một dấu hiệu thể
hiện chính phủ tốt và cho rằng cần đẩy mạnh q trình tư nhân hóa cung cấp DVC
một số lĩnh vực đang do chính phủ quản lý, đồng thời cần hướng dẫn và giám sát
khu vực tư nhân trong thực hiện cung ứng DVC nhằm hạn chế thất bại của thị
trường. Các tác giả cũng đề nghị Chính phủ cần phải đề ra các tiêu chuẩn đối với
các DVC sao cho đảm bảo cân bằng mang tính bền vững giữa lợi nhuận và phúc lợi
cơng cộng. Cuối cùng, nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần thiết lập các cơ quan
chuyên môn chịu trách nhiệm quản lý, giám sát các tiêu chuẩn và thực hiện các
chiến lược phát triển của Chính phủ bằng cách nên thành lập các ban quản lý chất


lượng cho từng ngành DVC. Các ban này có quyền kiểm tra, giám sát độc lập, có
quyền yêu cầu các tổng công ty nhà nước tuân thủ các tiêu chuẩn trong cung cấp
DVC cũng như đưa ra các biện pháp trừng phạt khi các tiêu chuẩn của DVC đi
xuống. Việc đánh giá tiêu chuẩn DVC của từng ngành sẽ do bộ quản lý ngành và
ban quản lý thống nhất ban hành. Tuy nhiên, kết quả đánh giá, ngoài việc phải dựa
trên kết quả do ban quản lý chất lượng công bố, còn phải dựa trên việc khảo sát lấy
ý kiến người sử dụng độc lập, ý kiến của các tổ chức nghiên cứu có uy tín trên cơ
sở khơng thơng báo trước kế hoạch, thời gian khảo sát. Nghiên cứu này là nguồn
tham khảo hữu ích nhằm tìm kiếm giải pháp hoàn thiện QLNN về thu PLPHH tại
cảng biển.
- Nghiên cứu của Vũ Thanh Sơn (chủ nhiệm đề tài) và các cộng sự tại báo
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ (2006) về: Mở rộng cạnh
tranh trong khu vực công để nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hóa và dịch vụ
cơng ở Việt Nam hiện nay[58]. Trong cơng trình nghiên cứu này các tác giả đã trình
bày một số cách tiếp cận lý luận về cạnh tranh trong khu vực công theo trường phái
Chicago, trường phái chủ nghĩa công quản mới và quan điểm của Ngân hàng thế
giới; trình bày những yếu tố ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh ở khu vực cơng
Việt Nam như hệ thống pháp luật và chính sách, vấn đề độc quyền Nhà nước ở Việt
Nam, vấn đề tham nhũng trong bộ máy công quyền và áp lực cạnh tranh quốc tế.

Nghiên cứu phân tích tình hình cạnh tranh trong một số lĩnh vực cung cấp DVC
như bưu chính viễn thơng, giao thơng vận tải thủy, bộ, ngành hàng không, ngành
điện…và đề xuất giải pháp tạo lập quy tắc cạnh tranh, xây dựng môi trường cạnh
tranh, giám sát và đánh giá hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp… Đây là cơng
trình nghiên cứu cung cấp nhiều ý tưởng mới về xã hội hóa cung ứng DVC ngành
GTVT, mặc dù nghiên cứu này chưa đi sâu vào phân tích thực trạng KCHT cung
ứng DVC để từ đó định hình, xác lập việc tiến hành thu phí của từng loại hình dịch vụ.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BẢN CHẤT CỦA THUẾ, PHÍ, LỆ PHÍ
Nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho thuế và phí là một dạng giá cả
của DVC. Họ cho rằng cần phải định lượng các loại thuế và phí đánh vào việc sử
dụng DVC căn cứ vào lợi ích và chi phí xã hội của việc cung ứng DVC, qua đó tìm


kiếm các phương thức xác định thuế và phí hiệu quả. Có khá nhiều cơng trình bàn
về vấn đề này. Lược qua một số nghiên cứu về nội dung này như sau:
- Athur Cecil Pigou với nghiên cứu trường hợp ảnh hưởng của nhà máy xả
khí thải gây ơ nhiễm đối với hợp tác xã đánh cá[25, tr.111-114], [67, tr.120-124].
Ông đề xuất đánh thuế ô nhiễm đối với nhà máy này. Thuế được tính trên mỗi đơn
vị sản phẩm đầu ra của nhà máy gây ô nhiễm sao cho khoản thuế này đúng bằng
chi phí ngoại ứng biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội. Khi chịu tác động của
khoản thuế này, nhà máy sẽ sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận tại mức sản lượng
mà xã hội mong muốn (gọi là Q0) và Chính phủ sẽ sử dụng doanh thu thuế từ thuế
suất và sản lượng Q0 đó để bồi thường cho hợp tác xã đánh cá. Từ lý thuyết cơ bản
của thuế Pigou, đã có những gợi ý chính sách nhằm đánh thuế gián tiếp vào những
hàng hóa bổ sung liên quan đến hoạt động gây ô nhiễm. Đối với phương tiện giao
thông xả khí thải làm ô nhiễm môi trường, các kiến nghị hướng đến đánh thuế vào
chủ phương tiện và căn cứ vào độ dài quãng đường mà chủ phương tiện đã đi, tuổi
đời của phương tiện tương ứng với mức độ gia tăng của việc gây ơ nhiễm mơi
trường. Trong nghiên cứu hình thành thị trường về ô nhiễm, kinh tế học công cộng
cũng đề xuất việc bán giấy phép gây ô nhiễm hay cịn gọi là giấy phép xả thải.

Theo đó, Chính phủ sẽ bán giấy phép cho các nhà sản xuất được phép xả một lượng
phế thải tương ứng với lượng phế thải khi sản xuất tại sản lượng xã hội mong
muốn. Các hãng sẽ tiến hành đấu giá để mua giấy phép xả thải và hãng nào trả giá
cao nhất sẽ được nhận giấy phép. Mức giá cao nhất của giấy phép được các hãng
trả cho Chính phủ sẽ là mức giá cân bằng thị trường và gọi là phí xả thải P*. Chính
phủ sẽ tuyên bố bán đấu giá quy mô Z* giấy phép xả thải vànhững hãng không sẵn
sàng trả mức phí cân bằng P* cho mỗi đơn vị gây ô nhiễm gây ra sẽ phải giảm sản
lượng dưới mức Q0 hoặc phải lựa chọn một công nghệ ít gây mức độ ơ nhiễm hơn
xem ình

.


Phí
xả
thải

Sz

P*
Dz
0
Z*
Số giấy phép
Hình 1.1- Thiết lập thị trƣờng về giấy phép xả thải thơng qua mức phí xả thải

Nguồn: [25]
- Nghiên cứu của Trần Vũ Hải (2009) về "Bản chất của thuế, phí nhà nước
và vấn đề thu phí tần số vơ tuyến điện"[32] cho rằng, thuế là khoản trích nộp bằng
tiền của tổ chức, cá nhân bắt buộc đóng góp cho Nhà nước thơng qua quyền lực nhà

nước nhằm: (i) chia sẻ thu nhập của chủ thể nộp thuế với nhà nước để nhà nước
thực hiện các chức năng của mình vì lợi ích của xã hội; (ii) thiết lập cơng bằng theo
hướng, người có thu nhập cao hơn phải có trách nhiệm nộp thuế lớn hơn; (iii) định
hướng tiêu dùng xã hội thông qua việc đánh thuế vào những tài sản đặc thù. Nghiên
cứu này cũng cho rằng, khác với thuế, cơ sở để thu phí là việc chủ thể được nhận
phí đã cung cấp cho chủ thể nộp phí một lợi ích nhất định thơng qua dịch vụ của
mình. Theo tác giả, bản chất của phí là khoản tái đầu tư và duy tu, quản lý của nhà
nước trong cung ứng DVC. Từ bản chất của thuế, phí và cơng tác quản lý nguồn thu
thuế, phí tác giả đi đến kết luận: nên thu phí tần số vơ tuyến điện thay vì thu thuế.
Kết quả nghiên cứu có thể được vận dụng trong đề xuất xây dựng các mức thu
PLPHH tại cảng biển theo hướng thiết lập mức thu cơng bằng: mức thu phí phải
tương xứng với lợi ích mà chủ thể nhận được thơng qua chất lượng, số lượng DVC
được cung ứng.
- Nghiên cứu của Vũ Anh Tuấn, Viện nghiên cứu chính sách giao thơng Nhật
Bản (2012) về "Thu phí lưu hành phương tiện như thế nào cho đúng bản chất và
hiệu quả"[62]. Nghiên cứu này dựa trên nguyên tắc 2 loại chi phí trong giao thơng
i) nhóm chi phí nội sinh gồm các chi phí cố định dùng để xây dựng, mở mang hạ


tầng và các chi phí biến thiên dùng cho vận hành khai thác và duy tu bảo dưỡng hạ
tầng dịch vụ. Những chi phí này sẽ do người sử dụng chi trả một phần lớn, phần còn
lại do nhà nước bỏ ra vì hạ tầng giao thơng cịn đem lại các lợi ích xã hội cơ bản
khác; ii) nhóm chi phí ngoại sinh do những hậu quả của hoạt động khai thác hạ
tầng/dịch vụ giao thông gây ra như là tắc đường, tai nạn, ô nhiễm môi trường, tiếng
ồn. Nghiên cứu này cho rằng lệ phí trước bạ và phí sử dụng phương tiện giao thông
sẽ là các công cụ chính sách điều tiết các phí nội sinh cố định. Nghiên cứu đề xuất
sử dụng các loại phí phương tiện, trong đó có phí lưu hành hàng năm, phí đi vào
trung tâm, phí xăng dầu, phí bến bãi … và coi đó là những chính sách lâu dài. Việc
thu phí sẽ tạo ra một khoản thu lớn, ổn định cho phát triển giao thơng tương lai, góp
phần giải quyết các vấn nạn giao thông. Nghiên cứu đề xuất Nhà nước ta khơng nên

cắt giảm khoản ngân sách (từ thuế nói chung) phân bổ cho ngành giao thơng khi có
các khoản thu bổ sung từ phí. Đồng thời phải có chiến lược sử dụng nguồn thu bổ
sung hợp lý, hiệu quả nhằm giải quyết tình trạng tắc nghẽn giao thơng. Tuy nhiên
nghiên cứu này chưa đánh giá mặt tiêu cực và tác động của chúng đến xã hội khi sử
dụng các loại phí lưu hành hàng năm, phí đi vào trung tâm đối với phương tiện giao
thơng, tính khả thi của việc thiết lập bộ máy tổ chức thu phí.
- Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuyến (2009) về "Bản chất của thuế- sự tiếp
cận từ các học thuyết cổ điển và hiện đại"[63]. Cơng trình đã phân tích ảnh hưởng
của các học thuyết cổ điển và hiện đại đối với quá trình phát triển hệ thống thuế ở
Việt Nam. Những đổi mới đã làm cho chính sách thuế của Việt Nam tiến bộ và phù
hợp với xu thế phát triển chung. Luật quản lý thuế năm 2006 đã khẳng định: quyền
đối kháng của người nộp thuế được ghi nhận với quyền khiếu nại và quyền khởi
kiện về thuế đối với cơ quan thuế. Việc tiến hành áp dụng biểu thu thuế lũy tiến làm
cho người có khả năng tài chính dồi dào hơn phải đóng góp thuế nhiều hơn và phản
ánh được quan điểm chủ đạo của học thuyết thuế là bù đắp và tương trợ giữa những
người đóng thuế trong xã hội. Đây là nghiên cứu có thể tham khảo trong kiến nghị
xây dựng biểu thu PLPHH tại cảng biển. Nghiên cứu này chưa xác định được quan
hệ giữa đối tượng nộp thuế với nhà nước, chưa đề xuất được biện pháp để tăng
cường hiệu lực quản lý thu thuế.


- Bộ Tài chính (2013) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: " ồn thiện
chính sách phí và lệ phí"[8] trình bày khái niệm, bản chất của phí và lệ phí, cấu
trúc của từng loại phí và kinh nghiệm xây dựng, thực hiện thu phí của một số quốc
gia trên thế giới. Tại nghiên cứu này, xuất phát từ việc phân định các loại dịch vụ
công của Việt Nam để Nhà nước quyết định việc ban hành loại phí hoặc lệ phí kèm
theo DVC được cung ứng, các tác giả đã làm rõ sự khác nhau về mặt bản chất của
phí, lệ phí so với giá. Điểm nổi bật của nghiên cứu là đã khẳng định bản chất của
phí được xây dựng trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc bù đắp chi phí, là khoản thu có
tính bồi hồn trực tiếp, có tính chất ngang giá và có tính xã hội cao, cịn lệ phí

khơng có tính bồi hồn trực tiếp, cơng việc thu và cung cấp gắn với cơ quan cơng
quyền, gắn với cơng tác QLNN, có tính pháp lý cao và khơng có tính chất ngang
giá. Đây là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích trong phần trình bày về cơ sở lý luận
thu PLPHH tại cảng biển của luận án.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH KHÁCH QUAN VÀ CHÍNH SÁCH
THU PHÍ, LỆ PHÍ HÀNG HẢI TẠI CẢNG BIỂN
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, việc thu phí DVC là cần thiết khơng những
về phương diện giảm gánh nặng tài chính cho NSNN, mà cịn là cách hạn chế tiêu
dùng DVC q mức. Một số cơng trình nghiên cứu khoa học thể hiện quan điểm
này là:
- Sách“Kinh tế học công cộng” của Joseph E.Stiglitz [29, tr.102-114]. Theo
ông, cạnh tranh là cơ chế để nền kinh tế đạt được hiệu quả Paretto. Việc chính phủ
tham gia cung ứng DVC sẽ có hiệu quả hơn khi vận dụng cơ chế cạnh tranh. Đối
với những hàng hóa cơng cộng (HHCC) tư nhân không thể cung cấp hoặc cung cấp
không đủ do tổng lợi ích tiêu dùng của các chủ thể cao hơn chi phí, song lợi ích tiêu
dùng của từng chủ thể lại thấp hơn chi phí cung ứng dịch vụ, thì Nhà nước nên hỗ
trợ để cung cấp nhằm tăng hiệu quả KT-XH của đất nước. Ông cho rằng Nhà nước
cần thu phí sử dụng HHCC khơng thuần túy (HHCC có thể loại trừ người sử dụng
khơng đóng phí) để hạn chế tình trạng sử dụng quá mức loại hàng hóa này. Khoản
phí thu được dùng để duy trì và tái đầu tư trang thiết bị tài sản cố định chế tạo
HHCC hoặc để bù đắp NSNN tài trợ cho các khoản phúc lợi xã hội khác. Việc


người sử dụng HHCC khơng thuần túy phải nộp phí còn hạn chế nguy cơ tắc nghẽn
trong sử dụng HHCC khơng thuần túy. Ơng cũng cho rằng, khi tiến hành thu phí
phải nghiên cứu chi phí của việc loại trừ. Trường hợp chi phí loại trừ (chi phí liên
quan đến vệc điều hành hệ thống giá, phí để loại trừ việc tiêu dùng HHCC) q lớn
thì việc thu phí sẽ khơng hiệu quả, khi đó Chính phủ buộc phải cung cấp miễn phí
HHCC và thu hồi, trang trải bằng nguồn thu từ việc đánh thuế.
- Cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Hạnh (2012) "Bàn về phí đối với

dịch vụ thư viện"-Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia[34] cho
rằng, việc thu phí dịch vụ thư viện là cần thiết để hạn chế việc sử dụng lãng phí, tạo
cơ hội cho những người có nhu cầu thực sự tiếp cận nguồn tài liệu khan hiếm và sử
dụng nguồn tài chính từ thu phí nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu người tiêu dùng. Các luận chứng giải thích việc thu tiền với tư cách điều
kiện cần để nâng cao chất lượng dịch vụ là: i) Bản thân đòi hỏi của dịch vụ thư viện
hiện nay; ii) Thu tiền để nâng cao ý thức trách nhiệm của người đọc đối với thư viện
và tài liệu của thư viện; iii) thu tiền để khích lệ người phục vụ. Nghiên cứu này có
phạm vi hẹp về dịch vụ thư viện, song cũng có thể cung cấp cơ sở lý luận cho thu
phí dịch vụ cảng biển.
Có nhiều nghiên cứu sâu hơn về chính sách thu phí. Một số nghiên cứu điển
hình về chính sách thu phí tại Việt Nam là:
- Đề án Hồn thiện chính sách thu phí và lệ phí hàng hải tại các cảng biển
Việt Nam, Cục HHVN (2014), đã trình bày cụ thể sự cần thiết của việc chuyển đổi
cơ chế quản lý của Nhà nước từ cơ chế phí sang cơ chế giá đối với các loại PLPHH
tại cảng biển[40]. Đề án đề xuất việc chuyển đổi một số loại phí hàng hải sang cơ
chế giá nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, đồng thời bổ sung một số danh mục
phí đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật quản lý ngành hàng hải
nhưng hiện tại cịn chưa được quy định trong danh mục phí, lệ phí, trình bày một số
giải pháp hồn thiện cơ chế, chính sách QLNN về thu PLPHH tại các cảng biển
Việt Nam thông qua các kiến nghị, đề xuất sửa đổi hoặc ban hành mới các văn bản
quản lý thu và sử dụng PLPHH hiện nay.


- Cơng trình nghiên cứu của Uỷ ban KT-XH Châu Á-Thái Bình Dương và
Viện Hàng hải Hàn Quốc (2002) về “Báo cáo so sánh biểu cước phí cảng biển
trong khu vực ESCAP”[57]. Nội dung Báo cáo có đề cập, phân tích một số loại
PLPHH của một số nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và Việt Nam,
đồng thời trình bày một số công thức để xác định các mức thu phí, lệ phí. Trong
cơng trình nghiên cứu này các tác giả cũng đưa ra một số mơ hình biểu cước phí

gồm: phương pháp xác định chi phí, tác động của tỷ giá, khả năng điều chỉnh mức
cước và phương pháp xây dựng giá các cảng thuộc Chính phủ quản lý của một số
nước.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Lê Văn Dũng (2011) về “Nghiên cứu các
nguồn thu từ người sử dụng đường bộ ở Việt Nam”, Đại học GTVT[26]. Trong luận
án này đã trình bày nguyên tắc xác định các mức thu từ người sử dụng đường bộ,
cách xác định các nguồn thu trực tiếp, gián tiếp, mơ hình thị trường cạnh tranh
và các hiệu quả, phân tích cơ cấu chi phí xã hội biên. Theo nghiên cứu này, nguồn
thu trực tiếp được tiếp cận bằng phương pháp phân chia số người sử dụng mạng
lưới đường bộ thành từng nhóm, mỗi nhóm có một mức yêu cầu khác nhau về mạng
lưới đường bộ giành cho một đơn vị đi lại mà họ sử dụng, từ đó tính toán mức thu
thành phần, mức thu cho một đơn vị sử dụng của mỗi nhóm. Nguồn thu gián tiếp
được xác định trên đơn giá bảo trì hàng năm chia theo cấp đường, ước tính chi phí
bảo trì tồn bộ mạng lưới đường của cả nước và phân bổ lại cho người sử dụng
đường bộ. Đây là nghiên cứu có thể tham khảo để xác định cơ cấu, mức thu PLPHH
tại cảng biển của luận án. Điểm hạn chế của công trình là chưa nghiên cứu về lĩnh
vực QLNN về thu phí, trong đó có khoảng trống về chính sách, pháp luật thu phí,
bộ máy tổ chức thu.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Đào Việt Phương (2006) về“ oàn thiện các
phương pháp định giá sử dụng đường bộ và các giải pháp nhằm tăng nguồn thu từ
người sử dụng đường bộ”, Đại học GTVT[56]. Trong cơng trình này có nghiên cứu
về cơ sở lý luận định giá đường bộ, nguyên tắc định giá sử dụng đường bộ, trình
bày các phương pháp định giá sử dụng đường bộ gián tiếp, trực tiếp và theo chi phí
ùn tắc giao thơng. Nghiên cứu chứng minh bằng các phương trình tham số để đưa ra
kết luận mức thuế, phí tối ưu sẽ thay đổi lớn tại các thời điểm khác nhau trong ngày,
tại các địa điểm khác nhau và ở năng lực khác nhau của từng tuyến đường, vì vậy




×