Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đất Nước _ Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.15 KB, 31 trang )

ĐẤT NƯỚC
-Trích trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa ĐiềmA. MỞ BÀI CHUNG
Nhà phê bình văn học Hồi Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Những kiệt tác văn học ra đời khơng chỉ mang trong mình ý
nghĩa văn chương mà cịn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũng khẳng định: “Nếu mỗi
người không thuộc về một đất nước, một q hương thì giống như con chim khơng có
tổ, cái cây khơng có rễ...”. Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lịng: “Có mối tình
nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Tình yêu quê hương đất nước, yêu lịch sử, lẽ
cống hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dân đã khiến biết bao hồn thơ cất
cánh. Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971, trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu
biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ.
Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm
xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam, đặc
biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh hùng. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu
chương V của bản trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm được xem là
một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ
Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay
kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...


(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1


1. Khái qt
1.1. Hồn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
khơng khí sục sơi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sơng đất nước,
giúp họ thấy được vai trị, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hồnh tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hồng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sơng Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sơng Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ,
sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như
lối trị chuyện thân mật; hình ảnh và ngơn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về
đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính tồn vẹn ở các phương diện nhiều
mặt: địa lý, lịch sử, văn hố, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất
nước và để trả lời cho các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? và quá
trình lớn lên của đất nước như thế nào?
2.2. Hai câu thơ đầu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
2


Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay
kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất
nước để trả lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà
thơ khẳng định đất nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về
thế giới quanh mình thì đất nước “đã có rồi”. Khơng thể trả lời chính xác rằng đất nước có
tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của truyện cổ tích "ngày xửa, ngày

xưa" để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà
thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu
đời mà cịn gợi ra một khơng gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên
thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với
biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và
những bài hát ru thuở ta cịn nằm nơi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để
lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con
người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự
hào góp phần khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
2.3. Bảy câu thơ:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
... Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?"
và "Đất nước tồn tại ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu
tượng khó định nghĩa và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho
chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng khơng ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân
thiết đến bất ngờ.
* Đất nước là những người thân yêu nhất: Đất nước không ở đâu xa mà là những
người thân yêu nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là
hình ảnh người mẹ với "câu chuyện mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ

trong câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi
viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và
nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người
mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho
3


rằng mình đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà mẹ tổ quốc: "Cho con về gặp lại
Mẹ yêu thương". Nhà thơ Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống như hình ảnh bà mẹ gánh
gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng".
(Chào xuân 67 - Tố Hữu)
* Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi
con người: Đất nước khơng cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể,
miếng trầu bà ăn, có trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có
trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo...
- Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như
tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu:
+ Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế
hệ người Việt Nam. Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu
không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay... mà còn được dùng
mời khách đến nhà để tỏ lịng hiếu khách. Hình ảnh “miếng trầu” cũng là một hình tượng
nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao,
thơ ca...
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)

Miếng trầu trở thành hiện thân của tình u thương, lịng thủy chung, son sắc trong
tâm hồn dân tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu
của người Việt, gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất
trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn
hóa, văn hiến của đất nước. Từ phong tục ăn trầu, người Việt còn có tục nhuộm răng đen:
Những cơ hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hồng Cầm)
+ Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" khơng chỉ gợi tả một nét
đẹp thuần phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà cịn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với
búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
- Đất nước cịn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn
đời của dân tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn". Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao
đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà
thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già
4


càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa
càng son sắc, mặn nồng.
2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
- Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ cịn nỗ lực hình
dung q trình lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn
lên của Đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người

Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình
ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam:
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"
(Cây tre Việt Nam - Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre
đánh giặc. Hai chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn
vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế
đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và
giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt
Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đơn hậu thuỷ chung, u chuộng hồ bình... Bởi
vì:
Nịi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
=> Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã
thể hiện quá trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và
bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt
mấy ngàn năm lịch sử.
- Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả
để làm ra hạt lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu
thơ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai
sương" đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay - giã - giần
- sàng” là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn
hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần
sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân.
Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay mn phần.
(Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy

gian lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
5


Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xn nho nhỏ-Thanh Hải)
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định
luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải
vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa khơng ngừng tìm tòi khám
phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Một nhà thơ nước
ngồi đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở
nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những
rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca
chân chính. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng rung cảm mãnh liệt, sự tâm huyết và tài
năng nghệ thuật đặc biệt đã sử dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân
gian như: sử dụng cách mở đầu của chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu
chuyện cổ tích, truyền thuyết, hình ảnh ca dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm
đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người. Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như
"Đất nước có từ...", "Đất nước có trong...", "Đất nước bắt đầu...", "Đất nước lớn lên..." góp
phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của đất nước, trải qua thời gian và
trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn khơng

đều; ngơn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình kết hợp với chất
chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn, cảm động...
Những đặc sắc nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thể
hiện sâu sắc hơn những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ơng về đất nước. Đoạn
trích "Đất nước" giúp chúng ta thấy yêu và gắn bó hơn với q hương, đất nước mình. Từ
đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình với đất nước.
Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
6


Khơng gian mênh mơng
Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118, 119)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
II. THÂN BÀI
1. Khái qt
1.1. Hồn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
khơng khí sục sơi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước,
giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hồ nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hồnh tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hồng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
7



Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sơng Đuống - Hồng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ,
sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như
lối trị chuyện thân mật; hình ảnh và ngơn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về
đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính tồn vẹn ở các phương diện nhiều
mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về
đất nước, để trả lời cho các câu hỏi: "Đất nước có từ bao giờ?", " Đất nước tồn tại ở đâu?"
và "Quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?" thì đến đoạn thơ này nhà thơ muốn đi tìm
định nghĩa về đất nước và cảm nhận đất nước ở các phương diện địa lí, lịch sử và chiều sâu
văn hóa, phong tục
2.2. Đất nước được cảm nhận theo chiều rộng về địa lí (chiều khơng gian)
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã rất táo bạo khi định nghĩa đất nước bằng cách chiết
tự và tách đất nước thành hai thành tố Đất và Nước. Nhà thơ định nghĩa Đất trong 3 câu
thơ, định nghĩa Nước trong 3 câu thơ và hợp thành Đất Nước để định nghĩa cũng trong 3
câu thơ. Cách thức định nghĩa có vẻ rất phi khoa học nhưng lại rất có hiệu quả khi thể hiện
được những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước.
*Hai câu thơ:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là không gian riêng tư, quen thuộc với mỗi người
Ban đầu nhà thơ tách đất nước thành hai thành tố, định nghĩa. Đất và nước gắn liền
với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh và em. Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức,
nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Đất là con đường hàng ngày anh tới trường
để học tập, trang bị kiến thức và hành trang tri thức giúp anh tự tin bước vào đời, làm chủ
cuộc đời. Nước là dịng sơng em tắm mát, là dịng sơng của q hương chở nặng phù sa
làm bãi mía, nương dâu, ngơ khoai biêng biếc, có bên lở bên bồi, có khi vơi khi đầy làm
đẹp thêm làng quê yêu dấu. Quê hương ai cũng có một dịng sơng với những con thuyền
giấy chở bao kỉ niệm tuổi thơ nên phải xa q hương thì dịng sơng q hương thường trở
thành nỗi nhớ da diết. Để lòng ta chợt vui trong ngày trở về:
Q hương tơi cũng có một dịng sơng bên nhà
Con sơng q gắn bó với tuổi thơ đời tơi
Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy
8


Hơm nay tơi trở về, lịng chợt vui thấy sơng khơng già
(Trở về dịng sơng - Hồng Hiệp)
=> Với cách thức tách thành hai thành tố để định nghĩa từng thành tố như vậy, hai
câu thơ đã biểu đạt đất nước gắn bó với mỗi cá thể, là nơi mỗi người chúng ta sinh sống và
học tập, là không gian riêng tư, quen thuộc với mỗi con người.
* Hai câu thơ:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước là nơi hị hẹn của tình u
- Tiếp đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ghép hai thành tố ấy lại thành Đất Nước
để định nghĩa. Khi đất nước không bị tách rời mà hòa hợp với nhau làm một thì đất nước
thành "nơi ta hị hẹn", "nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm". Đất nước còn là

nơi tình u lứa đơi nảy nở thiết tha, say đắm. Trong hai câu thơ này, đất nước bỗng trở
thành khơng gian của tình u, gợi ra cả một khơng gian làng quê yên ả, thanh bình với cây
đa, bến nước, sân đình, gợi ra những đêm trăng hị hẹn bên nhịp cầu tre lắt lẻo hay trong
những đêm hội làng có gánh chèo hát thâu đêm:
Thơn Ðồi vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
(Mưa xn - Nguyễn Bính)
Đất nước cịn là khơng gian đầy nhớ thương của tình yêu thể hiện qua hình ảnh chiếc
khăn. Câu thơ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” đậm đà chất
dân ca ca dao và gợi nhắc đến bài ca dao về chiếc khăn gợi thương, gợi nhớ:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị trở thành vật chứng cho tình u đơi lứa làm biết bao
người phải xúc động, bồi hồi:
Gói một chùm hoa
Trong chiếc khăn tay
Cơ gái ngập ngừng
Sang nhà hàng xóm”
(Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn)
* Hai câu thơ: Đất là nơi con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ơng móng nước biển khơi
Đất nước là không gian lãnh thổ
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sau đó lại tiếp tục tách đất nước thành hai thành tố và
sử dụng các hình ảnh ca dao, dân ca để làm nổi bật vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.

+ Với hình ảnh ca dao "con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc", đất chính là
núi rừng, bờ cõi, là rừng vàng, đồng xanh, bờ dâu, bãi mía...
9


+ Với hình ảnh ca dao "con cá ngư ơng móng nước biển khơi", nước là sơng, là bể,
gợi hình ảnh những dịng sơng đổ ra biển cả với sóng nước mênh mang và "Biển cho ta cá
như lòng mẹ - Ni lớn hồn ta tự thuở nào"
=> Hai hình ảnh ca dao này mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng
yêu quê hương cả tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đơi khi cũng lớn rộng,
tráng lệ, kì vĩ và giàu đẹp vơ cùng. Đất nước chính là núi rừng, sơng bể, là khơng gian lãnh
thổ thiêng liêng. Không gian lãnh thổ ấy đã từng được Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình
Ngơ đại cáo:
Núi sông bờ cõi đã chia
Lý Thường Kiệt cũng khẳng định đầy chắc chắn trong "Nam quốc sơn hà":
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
* Ba câu thơ:
Đất nước là nơi dân mình đồn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Đất nước là nơi dân mình sinh sống, đồn tụ
Đất nước cịn khơng gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã
khuất…những ai bây giờ…”, là nơi Chim về, là nơi Rồng ở.
+ Câu thơ "Đất là nơi Chim về” gợi hình ảnh con chim Lạc trong văn hóa của đất
nước các vua Hùng, cho thấy đất nước chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50
người con trên rừng.
+ Câu thơ" Nước là nơi Rồng ở" lại cho thấy đất nước là biển khơi, nơi Lạc Long
Quân sinh sống cùng 50 người con.
=> Ba câu thơ không chỉ khẳng định đất nước là nơi đồng bào ta sinh sống, đoàn tụ

trải qua bao nhiêu thế hệ mà còn gợi nhắc cả nguồn gốc cha Rồng, mẹ Tiên gắn với lòng
biết ơn tổ tiên, nguồn cội.
2.3. Đất nước được cảm nhận ở chiều dài lịch sử (chiều thời gian)
- Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn
cảm nhận đất nước ở phương diện thời gian lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Khơng gian mênh mơng
Trong đó các từ láy "đằng đẵng", "mênh mông" đã nhấn mạnh chiều dài của thời
gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, gợi hình ảnh một đất nước có lịch sử lâu đời
và một vùng lãnh thổ rộng lớn.
- Nếu như chiều rộng của đất nước bao la rộng lớn gắn với không gian riêng tư, quen
thuộc của mỗi người, là khơng gian hị hẹn của tình u, là khơng gian lãnh thổ với rừng
vàng biển bạc, là không gian sinh tồn của đồng bào ta thì chiều dài lịch sử đằng đẵng, lâu
đời của đất nước được bắt đầu từ truyền thuyết xa xưa, từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ
gặp nhau, yêu nhau rồi đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Tất cả các dân tộc anh em sinh
sống trên mảnh đất Việt Nam như vậy đều là ruột thịt với nhau, đều từ một cha, một mẹ
sinh ra. Nguồn gốc đất nước vì thế trở nên thiêng liêng trong hai chữ "đồng bào":
Lạc Long Quân và Âu Cơ
10


Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
- Từ khi cha Rồng mẹ Tiên sinh ra nòi giống tiên rồng đến nay có biết bao thế hệ
người Việt Nam sinh ra, lớn lên, yêu nhau, sinh con, đẻ cái rồi từ giã cõi đời. Hình ảnh đất
nước vì thế ln tiềm tàng trong mối quan hệ giữa các thế hệ; giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Đất nước là sự tiếp nối của biết bao nhiêu thế hệ, 4000 năm đất nước là sự tiếp nối

của 4000 lớp người giống nhau lứa tuổi. Họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm và họ
chính là người làm ra đất nước.
- Nhưng các thế hệ người Việt Nam không tồn tại riêng lẻ mà gắn kết với nhau, thế
hệ sau kế thừa, tiếp nối thế hệ trước. Mỗi thế hệ người Việt Nam đều ý thức được vai trị,
sứ mệnh của mình:
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
"Những ai đã khuất" là chỉ cha ông trong quá khứ, đã cống hiến hết đời mình và đã
nằm xuống. "Những ai bây giờ" là chỉ những con người của thời hiện tại biết gánh vác
phần việc mà cha ông để lại, kế thừa gìn giữ truyền thống từ cha ơng và sau này sẽ dặn dò,
giao lại trách nhiệm ấy cho con cháu. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng
liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc của đất nước, giống nòi. Cúi đầu để hướng về lịch sử,
về cơng lao của các vua Hùng đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước
Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu.
Tất cả các thế hệ người Việt Nam đều ý thức được trách nhiệm, sứ mệnh của mình là
yêu nhau, sinh con đẻ cái để bảo tồn nòi giống. Nhưng trách nhiệm, sứ mệnh thiêng liêng
hơn là phải gìn giữ, nhắc nhở, dặn dị nhau ln ý thức sâu sắc về nguồn cội, tổ tiên, không
bao giờ được quên cội nguồn dân tộc. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong
tâm linh của họ ln có một nơi để quay về, đó chính là q cha đất Tổ vua Hùng. Là con
cháu vua Hùng thì đều phải biết:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
(Ca dao)
2.4. Đất nước cịn được cảm nhận ít nhiều ở phương diện văn hóa
- Khi viết về chiều dài lịch sử của đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến
tín ngưỡng vua Hùng, một tín ngưỡng phổ biến tạo nên bản sắc văn hóa đặc sắc của dân
tộc Việt Nam. Ngồi ra, đoạn thơ cịn sử dụng nhiều chất liệu văn hóa, văn học dân gian
như truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, hình ảnh chim Lạc, nhắc đến nguồn gốc rồng

tiên và các hình ảnh ca dao như chim phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ơng
móng nước biển khơi... Việc nhắc đến tín ngưỡng vua Hùng và sử dụng các chất liệu văn
11


hóa, văn học dân gian ấy đã thể hiện những cảm nhận về đất nước ở chiều sâu văn hóa,
phong tục.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn khơng đều, nhịp thơ linh hoạt
khơng bó buộc, chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với
các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc... Đoạn thơ đã thể hiện những cảm nhận, cách thể hiện
mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều phương diện khiến hình ảnh đất nước hiện lên
trong tâm trí người đọc sinh động mà hấp dẫn lạ thường. Đoạn thơ là tình yêu quê hương,
đất nước sâu sắc, đánh động trong lòng ta những xúc động sâu xa về đất nước, về ý thức
nguồn cội. Từ đó mỗi người nâng cao ý thức trách nhiệm với đất nước.
Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.119, 120)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
1. Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
khơng khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước,
giúp họ thấy được vai trị, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của tồn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
12


Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mơng biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cị bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam q hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hồng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sơng Đuống - Hồng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ,
sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như
lối trị chuyện thân mật; hình ảnh và ngơn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về
đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính tồn vẹn ở các phương diện nhiều
mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích đoạn thơ: Đất nước rất thân thiết, quan trọng và trách nhiệm của mỗi người
với đất nước
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
- Đoạn thơ vẫn nằm trong mạch cảm xúc về đất nước, nhân dân và để thể hiện tư
tưởng đất nước của nhân dân. Nếu ở các đoạn thơ trước nhà thơ đi tìm câu trả lời cho các
câu hỏi Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? Đất nước lớn lên như thế nào? và
cảm nhận đất nước một cách đa chiều trong chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí, chiều
sâu về văn hóa phong tục thì đoạn thơ này lại cho chúng ta thấy đất nước có trong mỗi con
người, hài hịa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể, là sự nối tiếp của các
thế hệ. Từ đó nhà thơ đã nêu rõ trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- Trong suốt đoạn trích và đoạn thơ này nhà thơ viết hoa hai chữ Đất Nước khiến nó
trở thành một mĩ từ gợi sự thiêng liêng, cao cả, bộc lộ sự tự hào, yêu mến về đất nước.
Hình thức đoạn thơ là lời tâm tình của anh và em và với 13 câu thơ sử dụng cấu trúc tổng
phân hợp, chất trữ tình hịa quyện với chính luận khiến đoạn thơ viết về đất nước mà như
lời thổ lộ, tâm tình của đơi lứa u nhau.
13



2.2. Hai câu thơ: Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
Đất nước khơng chỉ gần gũi thân thiết với mỗi con người, như những người thân yêu
nhất là bà, là cha và mẹ; là những gì bình thường, bình dị, quen thuộc nhất xung quanh mỗi
chúng ta như miếng trầu bà ăn, câu chuyện mẹ kể, cái kèo, cái cột, là những phong tục tập
quán, là tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ... mà gần gũi thân thiết hơn nữa khi nó cịn có ở
bên trong mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận một cách rất tự nhiên rằng đất
nước đã thấm vào bên trong, đã hòa vào trong mỗi cá thể nên trong anh, trong em, trong
mỗi chúng ta đều có một phần là đất nước. Sự sống của mỗi cá nhân không phải là của
riêng người đó mà cịn có phần thuộc về đất nước, bởi vì mỗi con người từ khi sinh ra đều
đã thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ "một phần"
đất nước nhỏ bé bên trong mỗi con người ấy thôi nhưng đủ làm ta xúc động, tự hào vì nhận
ra mình đã góp phần làm nên đất nước.
2.3. Bốn câu thơ:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.
Đất nước là ở sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể.
- Nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của con người với đất nước
bằng những dòng thơ giàu chất trữ tình chính luận. Trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay”
thì "hai đứa" ở đây là anh và em. Cầm tay là một hành động thể hiện tình cảm thắm thiết,
yêu thương và tin cậy, là giao duyên, là tình u đơi lứa. Trong anh và em đều có một phần
là đất nước nên khi hai đứa cầm tay nhau thì phần đất nước trong cả hai hịa nhập làm một,
tạo nên sự hài hòa, nồng thắm. Trong cái cầm tay ấy hóa ra khơng chỉ có tình u đơi lứa
mà cịn có tình u q hương đất nước. Sự hài hịa của tình u đơi lứa với tình u quê
hương đất nước cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong những câu thơ rất hay
về tình yêu:
Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần...
Nhà thơ Giang Nam đã nhận thức ra rằng tình u đơi lứa đã làm cho tình yêu quê
hương, đất nước càng thêm sâu đậm:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị địn roi
Nay u q hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tơi.
(Q hương - Giang Nam)
- Đất nước là sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, cái cá nhân và cái tập thể nên
khi anh và em nắm tay mọi người, phần đất nước trong mỗi con người nhập vào làm một,
sẽ tạo nên một đất nước to lớn, tạo nên sức mạnh đồn kết có thể nhấn chìm tất cả và giúp
đất nước vươn mình đứng dậy. Sức mạnh to lớn của tinh thần đồn kết đã được ơng cha ta
đúc kết trong câu ca:
Một cây làm chẳng nên non
14


Hai cây chụm lại nên hòn núi cao
Bác Hồ cũng đã khẳng định:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng
Từ “hài hịa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là đi từ cái riêng đến cái chung, cái
cá nhân đến cái tập thể; là cả một quá trình lớn lên của lịch sử dân tộc. Chỉ khi nào ba cây
biết chụm lại thì mới nên hòn núi cao, khi nào các cá nhân biết nắm tay nhau để đất nước
hài hịa làm một thì đất nước mới thực sự vẹn tròn, to lớn.
=> Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ; cách sử dụng các tính từ đi liền nhau “hài
hịa, nồng thắm”, “vẹn trịn, to lớn”; đặc biệt là biện pháp lặp cấu trúc “Khi...Đất Nước..."
tạo sự cân xứng, liền mạch, làm cho ngôn từ trở nên uyển chuyển, linh hoạt và có ý nghĩa
thẩm mĩ sâu sắc. Từ đó, đoạn thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thơng điệp: Tình u
q hương, đất nước và tinh thần đoàn kết dân tộc là những yếu tố quan trọng tạo nên sức

mạnh Việt Nam.
2.4. Ba câu thơ:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Cảm nhận về đất nước trong mối quan hệ giữa các thế hệ và niềm tin vào tương lai đất
nước
- Trước hết, ba câu thơ thể hiện những cảm nhận về đất nước trong mối hệ giữa các
thế hệ. Ở đoạn thơ trước, khi nhắc về chiều dài lịch sử của đất nước nhà thơ đã nhắc đến
bao nhiêu thế hệ đi trước trong quá khứ (những ai đã khuất), nhắc đến những thế hệ của
hôm nay (những ai bây giờ), thế hệ tương lai (con cháu mai sau) và đến đoạn thơ này nhà
thơ lại nhắc đến ta của hôm nay và "mai này" của "con ta", tức là nhắc đến một tương lai
gần. Nhà thơ tin rằng, sẽ không phải đợi lâu mà chỉ cần đến thế hệ "con ta", khi chúng lớn
lên chúng sẽ đưa đất nước đi xa, đến những ngày tháng tươi đẹp và "mơ mộng" nhất. Từ
"mơ mộng" chỉ cái đẹp trong trí tưởng tượng, sản phẩm của cảm xúc lãng mạn, được đặt
trong ba câu thơ gợi liên tưởng thế hệ con cháu sẽ tiếp bước ông cha để xây dựng đất nước
“To đẹp hơn, đàng hồng hơn” (Hồ Chí Minh).
- Khi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sáng tác trường ca "Mặt đường khát vọng" vào
năm 1971, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy cam go, thử thách, gian
khổ, hi sinh và chưa biết bao giờ sẽ chiến thắng. Vậy mà ông đã tin rằng trong một tương
lai rất gần, đất nước sẽ đến những tháng ngày tươi đẹp nhất. Điều đó rất đáng q và đó
chính là cảm hứng lãng mạn mà chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học Việt
Nam giai đoạn 1945 - 1975. Chính niềm tin và cảm hứng lãng mạn ấy đã nâng đỡ con
người Việt Nam trong khó khăn, thử thách để chúng ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.
2.5. Bốn câu thơ:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời...
Đất nước là máu, là xương, là huyết lệ nên mỗi con người phải có ý thức trách nhiệm

với đất nước
15


- Theo Eptusencô, thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri
đang ngủ” phải khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca
biến thành vũ khí độc đáo giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và
cái đẹp của cuộc đời. Ý thức được sứ mệnh ấy của thơ ca, với đoạn thơ này nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã thức tỉnh thế hệ trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam, giuớ họ thấy
được trách nhiệm của thế hệ mình trước non sơng đất nước.
- Cách xưng hô “Em ơi em” như một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao
nỗi niềm đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và phát hiện ra nhiều điều mới lạ
về đất nước. Cụm từ này khiến đoạn thơ như một lời thủ thỉ, tâm tình của anh với em, của
đơi lứa u nhau. Nghệ thuật tăng cấp thể hiện trong suốt đoạn trích "Đất nước", từ chỗ
khẳng định đất nước là những gì gần gũi thân thiết xung quanh cuộc sống con người đến
chỗ ở trong mỗi con người, rồi đến đoạn thơ này thì khơng chỉ ở trong mà quan trọng hơn
là máu, là xương, là phần không thể thiếu của cơ thể sống. Đất nước là huyết lệ, là thân thể
ruột thịt của chính mình, là mồ hơi, nước mắt của cha ông qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước
gắn bó, thân thiết và quan trọng với mỗi người như vậy nên mỗi con người đều phải có ý
thức trách nhiệm với đất nước.
- Điệp từ "phải biết" được lặp lại hai lần và được đặt ở đầu các câu thơ như các
mệnh lệnh phát ra từ con tim làm giọng thơ trở nên mạnh mẽ, chân thành thể hiện ý thức
trách nhiệm sâu sắc với non sông, đất nước. Trách nhiệm của mỗi con người là phải biết
gắn bó, san sẻ và hóa thân cho đất nước. Với Nguyễn Khoa Điềm “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa
thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức về nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng.
+ Gắn bó, san sẻ: Là phải biết yêu mến, sẻ chia, cống hiến, thậm chí phải biết hi
sinh vì đất nước như nhà thơ Chế Lan Viên từng nói một cách cảm động:
Ơi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ơi! Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngơi nhà,ngọn núi, con sơng
(Chế Lan Viên)
+ Hóa thân: Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến
thành. Hóa thân như cơ Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" hóa thành chim vàng anh,
cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và
tảng đá, cịn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích "Trầu
cau". Nhưng hóa thân thành đất nước thì phải như anh giải phóng qn trong bài thơ "Dáng
đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Hóa thân thành đất nước chính là sự nhập thân hay biến mình vào đất nước. Tư thế
hi sinh trong thế tấn cơng của anh giải phóng qn ấy đã hóa thành tư thế, dáng hình của
16


đất nước anh hùng, quật khởi. Cũng giống như thế là sự hóa thân của người con gái trong
"Núi đơi" của Vũ Cao:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
Hay cơ gái hóa làn mây trắng trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ:
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong

Đã hoá thành những làn mây trắng
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
- Mỗi con người cần phải biết gắn bó, san sẻ, hóa thân để làm nên đất nước muôn
đời như cha ông ta đã hóa thân thành núi Vọng Phu, hịn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên...
đã gắn bó, san sẻ để làm nên lịch sử mấy ngàn năm của đất nước. Khát vọng đất nước
trường tồn là khát vọng của người Việt Nam từ bao đời nay, đã đi vào những áng văn
chương bất hủ của dân tộc:
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nên thái bình vững chắc.
(Bình Ngơ đại cáo - Nguyễn Trãi)
Hoặc trong "Tụng giá hồn kinh sư" của Trần Quang Khải:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt khơng bó
buộc, chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện
pháp điệp từ, điệp cấu trúc, nghệ thuật tăng tiến, giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt
dào cảm xúc, sáng tạo về ngơn từ, hình ảnh thể hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng
định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tịi ... tác động đến cả nhận thức và gợi
nhiều xúc cảm cho người đọc. Đoạn thơ không phải là lời giáo huấn khơ khan mà như lời
thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ tha thiết dễ đi vào lòng người, thức tỉnh thanh niên các vùng đô
thị tạm chiếm miền Nam giúp họ nhận ra vai trị sứ mệnh của thế hệ mình, trách nhiệm với
non sơng, đất nước. Đoạn thơ đẹp cịn vì sáng ngời niềm tin về tương lai đất nước và tiền
đồ tươi sáng cùa dân tộc, in đậm tính công dân của thời đại mới.

17



Đoạn số 4:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Người học trị nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hố núi sơng ta...”
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.120)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái qt
1.1. Hồn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
khơng khí sục sơi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sơng đất nước,
giúp họ thấy được vai trị, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc kháng chiến chống Mỹ của tồn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có

những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học
thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện
vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hồnh tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
18


Hồng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sơng Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sơng Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ,
sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như
lối trị chuyện thân mật; hình ảnh và ngơn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về
đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính tồn vẹn ở các phương diện nhiều
mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích đoạn thơ: Tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí (Nhân dân đã

làm nên dáng hình đất nước)
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
- Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng
liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên
trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, khơng gian
địa lí mênh mơng và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong
mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm
với đấy nước.
- Ở đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn
trích là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng
tiến bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ "Bình Ngơ đại cáo" của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định "Nước là dân, dân là nước"... Đến giai
đoạn 1945 - 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học. Không chỉ
trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều
có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước. Thanh
Thảo trong trường ca "Những người đi tới biển" đã khắc hoạ chân dung của những con
người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tơi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
- Tuy nhiên, phải đến "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của
nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố
19


thuộc về đất nước. Trong đoạn trích "Đất nước" nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm
nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong

tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều ấy. Chính
nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến
lâu đời của đất nước.
- Đoạn thơ 12 câu này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí, khẳng
định chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước. Tác giả đã viết hoa từ "Đất Nước" mà
để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng.
2.2. Tám câu thơ:
Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
... Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
a. Bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên quê hương, đất nước
- Trước hết, trong đoạn thơ nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt các tên địa danh, các kì
quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn
hóa đất nước. Những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng Phu
Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng cảnh Hạ
Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở Quảng Nam, các tên địa danh Ông Đốc, Ông
Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam... Đây vốn là những danh lam thắng cảnh do tự
nhiên sắp đặt, là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lý từ hàng ngàn, hàng
vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, tên núi tên sơng, tên đất, tên
làng, hình sơng, thế núi ấy đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất nước tươi đẹp mà
nhìn đâu cũng có cảnh đẹp, thấy núi cao, biển rộng, sơng dài, thấy những dịng sơng đỏ
nặng phù sa và nhiều tôm cá, những biển lúa mênh mơng với những cánh cị bay lả bay
la... Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào và
khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê hương đất nước mình.
b. Sự hóa thân của nhân dân
- Nhưng trong đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên nhiên
quê hương, đất nước dưới góc độ khoa học, khơng nhìn thiên nhiên q hương đất nước
tươi đẹp như là tác phẩm của tạo hóa mà với những suy tưởng độc đáo, sâu sắc nhà thơ cho
thấy các danh lam thắng cảnh, hình sơng thế núi, tên đất tên làng... ấy đều do nhân dân hóa
thân mà thành.
- Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa

thân như cơ Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào,
khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, cịn
người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích "Trầu cau". Theo nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm núi Vọng Phu là hóa thân của người vợ nhớ chồng. Tình cảm nhớ
thương, thủy chung, son sắt khiến người vợ chờ chồng đến hóa đá. Hịn Trống Mái là hóa
thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. Núi Bút, non
nghiên là hóa thân của người học trị nghèo vượt khó cần cù, hiếu học. Ngay cả con cóc,
con gà của q hương cũng hóa mình thành thắng cảnh Hạ Long... Mỗi địa danh đều gắn
với một truyền thuyết, sự tích riêng, tạo nên một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng sâu
sắc và tài hoa hơn là Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra không ai khác, chính những người
20



×