Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và sự vận dụng vào xây dựng đạo đức ở sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.87 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI
TẬP
NHĨM
Mơn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh

CHỦ ĐỀ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và sự vận dụng vào xây
dựng đạo đức ở sinh viên hiện nay
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Nguyễn Hải Yến
Lớp
: 222PLT06A31
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 8
Lê Thị Quỳnh Nga (nhóm

24A402216 9.4

trưởng)

1

Lê Thu Trang

24A402050 9.3
5

Vũ Thu Trang

24A402280 8.8


0

Nguyễn Hồng Linh

24A402191 8.8
9

Đỗ Hương Ly

24A402193 9.3
9

Lê Thị Phương Thảo

24A406196 8.8
0

Bùi Thị Phương Thảo

24A406023 9.1
3

Dương Thị Lan

24A406220 8.8
2


Trần Minh Ngọc


24A405005 8.7
0

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2023

Mục lục
Mở Đầu.................................................................................................................1
Nội Dung...............................................................................................................2
I. Phần lý luận................................................................................................2
1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng.......................2
2. Quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.................................5
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.................8
II.

Giá trị vận dụng....................................................................................10

1. Giá trị lý luận............................................................................................10
2. Giá trị thực tiễn.........................................................................................11
III. Liên hệ thực tiễn...................................................................................13
1. Bối cảnh hiện nay...................................................................................13
2. Thực trạng về đạo đức của sinh viên hiện nay........................................15
3. Bài học về xây dựng đạo đức của sinh viên hiện nay.............................19
Kết luận..............................................................................................................23
Câu hỏi................................................................................................................24
Tài liệu tham khảo.............................................................................................30



Mở Đầu
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một vị lãnh tụ cách mạng, đặc biệt là

hơn ai hết, Người rất chú trọng đến vấn đề đạo đức. Mặc dù Người không để lại
bất kỳ tác phẩm đạo đức nào nhưng những tư tưởng lớn của Người đã đi sâu vào
trong tiềm thức của người dân Việt Nam, đồng thời nó cũng được thể hiện qua
các bài viết với cách diễn đạt hết sức cô đọng và hàm súc. Tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh đã trở thành cơ sở tư tưởng của cách mạng Việt Nam, làm nền tảng
vững chắc cho việc xây dựng đất nước Việt Nam thống nhất, độc lập và phát
triển.
Hồ Chí Minh từng nói: “Đạo đức là gốc của người cách mạng”, là nền
tảng cốt lõi của cuộc sống, là một phẩm chất tốt đẹp để xây dựng một xã hội văn
minh, công bằng và tự do. Người cho rằng đạo đức phải đặt lên trên hết, thậm
chí cịn quan trọng hơn cả các thành tựu về kinh tế, khoa học và cơng nghệ.
Chính vì thế, việc xây dựng đạo đức ở mỗi sinh viên là một vấn đề thiết
yếu trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Sinh viên là những mầm non
tương lai của đất nước, những việc làm của họ sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của quốc gia trong tương lai. Vì vậy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng đạo đức cho sinh viên là việc cần thiết để giúp mỗi người trẻ hiểu
rõ hơn về giá trị của đạo đức và vận dụng nó trong cuộc sống. Nắm bắt được
tính thời sự của vấn đề, nhóm 8 chọn đã chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và sự vận dụng vào xây dựng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay” để
nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này.

1


Nội Dung
I.

Phần lý luận

Khái niệm đạo đức: Đạo đức là một từ Hán-Việt, được dùng từ xa xưa để

chỉ một yếu tố trong tính cách và giá trị của mỗi con người. Là hệ thống các quy
tắc về chuẩn mực của cộng đồng và xã hội. Đạo là con đường, đức là tính tốt
hoặc những cơng trạng tạo nên.
Hồ Chí minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và được Người gọi là
đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng
a, Đạo đức là gốc của người cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn ni dưỡng và phát triển con
người, cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sơng, suối. Người từng nói:
“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Bác, đạo đức là nền tảng tinh thần giúp con người vững vàng trước những
khó khăn, thử thách. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng, bởi khi có đạo
đức cách mạng mới có quyết tâm làm cách mạng và có thể biến quyết tâm thành
hành động thực tiễn để hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Bác: “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại,
không rụt rè, lùi bước”, “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” đó cũng
chính là biểu hiện của đạo đức cách mạng. Bác cho rằng: khi con người có sức
mạnh sẽ gánh được nặng và đi được xa, người cán bộ cách mạng phải có đạo
đức cách mạng mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng, dù làm cách mạng là
2


một cơng việc khó khăn, gian khổ, lâu dài, thậm chí phải hy sinh tính mạng bản
thân mình. Nếu khơng lấy đạo đức làm nền tảng, người cán bộ có thể mềm lịng,
nản chí, bỏ cuộc.
b, Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người lãnh đạo trong điều kiện

Đảng cầm quyền
Với Bác, đạo đức cách mạng của cán bộ được coi là những chuẩn mực,
làm căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách của người đảng viên, để xem
người đó có xứng đáng là thành viên trong đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp
công nhân, xứng đáng đảm nhận trọng trách to lớn trên vai với sự nghiệp cách
mạng mà Đảng và nhân dân giao phó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì
khơng phải cứ “viết lên trán chữ “cộng sản” là được họ yêu mến. Quần chúng
chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”. Do đó, Bác yêu cầu người cán
bộ phải có đạo đức cách mạng. Mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm
nhuần đạo đức cách mạng hay khơng. Ngồi những yêu cầu trong các chuẩn
mực, hành vi đạo đức thông thường, mà đòi hỏi cao hơn, trách nhiệm hơn đối
với cái chung và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh thường nhắc lại tinh thần của V.I.Lê Nin. Đảng cộng sản
phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và cho thời đại. Trong
di chúc người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
c, Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý
tưởng cao xa, mức sống vật chất dồi dào, mà trước hết là ở giá trị, phẩm chất
đạo đức của người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của
mình, chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện thực. Củng cố hay làm
3


suy giảm niềm tin của quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không
phải là những sai lầm, thất bại tạm thời mà là ở sự giảm sút đạo đức ở người
được mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” của cách mạng.

Hồ Chí Minh quan niệm phong trào cộng sản quốc tế trở thành lực lượng
quyết định vận mệnh loài người chẳng những là do chiến lược và sách lược thiên
tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho
chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
Muốn biết Đảng đó như nào thì chỉ cần nhìn vào đạo đức của đội ngũ
đảng viên có sáng có tốt khơng, khi đảng viên tốt thì Đảng sẽ mạnh. Bản thân
Người với tấm gương đạo đức và nhân cách cao đẹp của Người có sức hấp dẫn
mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Hồ Chí Minh là tấm
gương sáng, là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với các cán bộ
cách mạng ln tiến bộ đồn kết đấu tranh vì mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ xã hội.
d, Đạo đức cách mạng còn là mẫu số chung, là thước đo lịng cao
thượng của mỗi con người
Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là
người cao thượng”. Lời dạy trên của Bác mang một ý nghĩa sâu sắc, vừa nêu lên
vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng xã hội cũ,
cải tạo xã hội mới nhưng vẫn phải giữ được thuần phong, mỹ tục, đây chính là
tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng đạo đức mới.
Nói chuyện với thanh niên, Người nói: “... thanh niên phải có đức, có tài.
Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại
đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có
hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại
gì nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người”

4


Bác luôn coi đạo đức là “gốc”, là “nền tảng” nhưng khơng tuyệt đối hóa
đạo đức mà ln đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với tài năng. Đức với tài,

hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, hai mặt phải
luôn song hành. Đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài phát triển; tài là
nhân tố góp phần tạo nên đức, hồn thiện đức. Vì vậy, người cán bộ cách mạng
phải có đủ hai phẩm chất này.
2. Quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a, Trung với nước, hiếu với dân
Theo quan niệm truyền thống: “Trung” và “Hiếu” chứa đựng nội dung
hạn hẹp “ Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Nhận xét quan niệm truyền thống
xưa, Bác nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên
trời”. Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “ Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua,
hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với
nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh đã vượt qua
những hạn chế của truyền thống cũ. (Ví dụ trong Luận Ngữ, chương Vi Tử, Tử
Lộ đã gọi sự liên hệ giữa vua tôi là “Quân thần chi nghĩa”. Trước đây, nhà cầm
quyền phong kiến lại dựa vào “tam cương, ngũ thường” của Nho giáo để ép
buộc người dân phải tuyệt đối “trung” với vua, đến mức “Quân xử thần tử, thần
bất tử bất trung”, vua ra lệnh tôi phải chết, tơi khơng chết khơng trung!) Khi Hồ
Chí Minh đặt vấn đề “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân… Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, thì quan niệm
về nước về dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước; rất ít lãnh tụ cách mạng đã
nói về dân như vậy, điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt
xa lên phía trước.
Trung với nước là: trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc; đặt
lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; quyết tâm phấn đấu
5


thực hiện mục tiêu của cách mạng; thực hiện tốt chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước.
Hiếu với dân là: phải gần dân, gắn bó với dân, lấy dân làm gốc; khẳng
định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân; tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ
chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước; chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Theo Bác, mỗi người cần phải có đủ bốn đức tính cần, kiệm, liêm, chính
giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Khi có cần, kiệm, liêm, chính
nhất định sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Người có đủ những đức tính trên sẽ vững
vàng trước mọi thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng khơng bao giờ làm mà bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực
hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. “ Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống
dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào
những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Phải tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn,
“khơng xa xỉ, khơng hoang phí, không bừa bãi”. Theo Bác, cần phải đi đôi với
kiệm, cần mà khơng kiệm như cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không
đáy, một dân tộc biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần,
một dân tộc văn minh tiến bộ.
6



Liêm là “ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của nhân dân; không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch,
khơng tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng, khơng tâng bốc mình.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng đứng đắn, thắng
thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “ Đối với mình Chớ tự kiêu, tự đại”, “ Đối với người…Chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh
người dưới, “Đối với việc: phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc
nhà”, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Chí cơng vơ tư là cơng bằng cơng tâm, khơng thiên vị; làm việc gì cũng
nghĩ đến mọi người trước, mình sau, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân,
vì lợi ích của cách mạng. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân.
Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố, cần,
kiệm, liêm chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản
của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất” “Thiếu một
đức, thì khơng thành người”.
c, Thương u con người, sống có tình nghĩa
u thương con người là phẩm chất cao đẹp nhất. Bác ln dành tình u
thương cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột.
Trong mỗi người đều có thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt
trong mỗi con người nở ra như hoa mùa xuân, phần xấu bị mờ dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ người phản
Tổ quốc và nhân dân, ta phải làm cho phần thiện trỗi dạy, làm nảy nở để lấp đầy
phần ác, chứ khơng phải dập cho tơi bời.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư
tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, đã được thể hiện ở sự ham
muốn tột bậc của Người là “ làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
7



được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn
của Người.
Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên
lập trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với
bạn bè, đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực.
d, Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Đó là
tinh thần đồn kết quốc tế vô sản, mà Bác đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn
phương vơ sản đều là anh em”. Đó cịn là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt
Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ
xã hội, là sự tơn trọng, hiểu biết, u thương và đồn kết nhân dân các nước, với
những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hận thù, bất bình
đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ
nghĩa bành trướng bá quyền,
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây
đắp tinh thần đồn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới,
đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến
tạo một nền văn hóa hịa bình cho nhân loại; đó là di sản thời đại vơ giá của
Người về hịa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển giữa các dân tộc.
Ví dụ: Tình hữu nghị vĩ đại đồn kết đặc biệt Việt Nam- Lào là tài sản
chung vô giá của 2 Đảng, 2 nhà nước và nhân dân 2 nước sau nhiều cuộc chiến
đấu chung chống Mỹ, Việt và Lào đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào 5/9/1962.
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a, Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
8



Theo Bác, nói đi đơi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Lời
nói và việc làm phải đi đơi với nhau thì mới đem lại hiệu quả thiết thực với bản
thân mình và có tác dụng đối với người khác.
Nói đi đơi với làm là ngun tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một
nền đạo đức mới. Bản thân Bác là tấm gương sáng về lời nói đi đơi với việc làm.
Bác đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch thói quan liêu, coi thường quần chúng
của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo
lối “quan chủ”, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp truyền thống văn hóa phương
Đơng. Bác cho rằng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách
mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương” vì, “một trăm năm bài diễn văn
hay khơng bằng một tấm gương sống”.
b, Xây đi đôi với chống
Nguyên tắc xây đi đơi với chống là địi hỏi của nền đạo đức mới, thể hiện
tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Xây tức là xây
dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; Chống là chống các biểu hiện, các
hành vi vô đạo đức, suy thối đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức,
phi đạo đức ln ln đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo
đức mới, vừa phải chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ
Chí Minh căn dặn tồn Đảng: "Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân
nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết,
tính tổ chức và kỷ luật". Việc giáo dục đạo đức mới phải được tiến hành phù hợp
với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, nghề nghiệp, tầng lớp,
trong từng môi trường khác nhau. Vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức tự
giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức ở mỗi người.

9



Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ
nghĩa cá nhân. Trong tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ
nghĩa cá nhân được công bố vào ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn
nêu cao đạo đức cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
c, Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức tốt chỉ có thể xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người. Đạo đức cách mạng địi hỏi mỗi người tự giác rèn luyện
thơng qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình,
phải nhìn thẳng vào mình khơng tự lừa dối; phải thấy cái hay cái tốt của mình để
phát huy, thấy rõ cái xấu, cái ác để khắc phục; kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt
đời như việc rửa mặt hàng ngày. Bác nói: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên
trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc trai càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường cơng tác giáo
dục trong tồn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của
Đảng, nhiệm vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt
lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức
cách mạng, từng bước quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ,
hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
II.

Giá trị vận dụng

1. Giá trị lý luận
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức là sự kết hợp đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đơng với
phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp

rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học mácxít. Những đóng góp đó đã nâng
Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc.
10


Do nhiều nguyên nhân, C. Mác, Ph. ăngghen và V.I. Lênin nói nhiều về
đạo đức, song chưa có điều kiện bàn nhiều về vai trò của đạo đức trong đời sống
xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hồn thiện tư tưởng đạo đức học mácxít về
vai trị và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những
nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam. Nhờ đó mà
tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện đối với
mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là cán bộ, đảng viên. Tấm
gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, lâu dài trong phạm vi
dân tộc và quốc tế.
Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện tấm gương ngời sáng của người
cộng sản mẫu mực, người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và
sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Tư tưởng của Người về đạo đức
đã trở thành tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam và nhân loại.
2. Giá trị thực tiễn
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng bao giờ cũng đặt ra những nhiệm
vụ mới, với những khó khăn, thử thách mới. Vậy nên tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức mang giá trị thực tiễn sâu sắc trong việc giáo dục đạo đức người chiến
sĩ cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp lý luận với thực tiễn,
lời nói đi đơi với việc làm. Theo Người, nói đi đơi với làm, nói ít, làm nhiều,
làm hiệu quả, thống nhất giữa nói và làm là người có đạo đức cách mạng. Có
đạo đức mới có sức mạnh hồn thành nhiệm vụ lãnh đạo, mới nâng cao uy tín
với nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có ý nghĩa hết sức sâu sắc, là
động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hai cuộc kháng

chiến chống đế quốc thực dân và đang tiếp tục tỏa sáng trên con đường xây
dựng đất nước Việt Nam trong giai đoạn mới.

11


Chứng minh trong thực tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh, cách mạng dân tộc đã đạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng
tháng Tám, khai sinh nền độc lập, mở ra thời đại mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng của
Đảng và dân tộc ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn đất
nước và xu hướng phát triển của thời đại.
Bên cạnh đó, trong q trình hoạt động cách mạng của mình, Người luôn
luôn kịp thời phát hiện và chỉnh đốn đạo đức của cán bộ, đảng viên. Ngay từ
trong thời kỳ 1925 - 1927, khi bồi dưỡng những lớp cán bộ cách mạng đầu tiên
theo đường lối cách mạng mới, Người đã nhắc nhở mọi người không được hiếu
danh, kiêu ngạo, phải ít lịng ham muốn về vật chất. Và chỉ hai tháng sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
và làng, Người đã phát hiện thấy nhiều loại lỗi lầm rất nặng nề của nhiều cán bộ,
đảng viên như trái phép, cậy thế, bè phái, tư túng, chia rẽ.
Nhằm mục đích chỉnh đốn lại tác phong đạo đức, Người đã gửi thư cho
các đồng chí Bắc Bộ (3/1947) chỉ ra hàng chục khuyết điểm phải tẩy sạch, cho
ra tác phẩm như “Sửa đổi lối làm việc” (10/1947) - coi những sai lầm, tệ nạn đó
là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân,
phong kiến, là thứ "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng", phá từ trong phá ra; bài
báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (3/2/1969) phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi
dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và kỷ luật.
Những tư tưởng và hành động này của Người đã góp phần xóa tan đi
những lo lắng khơng đáng có trong tầng lớp cán bộ và củng cố niềm tin của
quần chúng về Đảng, Nhà nước ta.

Có thể nói, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang, tiếp
tục là điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến
lược phát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiếp tục dẫn dắt dân tộc
tiến bước trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.
12


III.

Liên hệ thực tiễn

1. Bối cảnh hiện nay
Bước vào thời đại mới, chúng ta nhìn thấy sự chuyển mình, phát triển của
q hương đất nước, song cũng khơng khó để nhận thấy trong gia đình, xã hội,
văn hố ứng xử, nền nếp gia phong, chuẩn mực đạo đức đang có sự biến đổi
mạnh mẽ trong cuộc sống hiện đại. Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị
trường, sự biến đổi của xã hội đã ảnh hưởng đến lối sống, đạo đức của một bộ
phận thanh, thiếu niên hiện nay. Bên cạnh sự phát triển mang tính dấu mốc lớn,
đạo đức có những biến đổi theo thời gian và những điều kiện nhất định. Việc
nhận thức được các yếu tố tạo này sẽ giúp cho các chủ thể như cơ quan lãnh đạo,
quản lý, cơ quan giáo dục và mỗi gia đình có cách hành xử đúng trong việc giữ
gìn và tiếp nhận các giá trị đạo đức, lối sống trong một thế giới “mở” như hiện
nay. Sự biến đổi về đạo đức do tác động của những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, sự tác động gián tiếp hoặc trực tiếp của kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Kinh tế thị trường luôn tồn tại hai mặt đối lập, vừa có ảnh hưởng tích
cực, vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức, lối sống. Dưới tác động rất lớn
của nền kinh tế thị trường, con người với những biểu hiện mang tính tích cực
như: tính quyết đốn, năng động, sáng tạo. Bên cạnh những tác động tích cực,

kinh tế thị trường có xu hướng vận động tự phát dưới sự tác động của các quy
luật thị trường nên dễ nảy sinh những hiện tượng tiêu cực. Sự phân hóa xã hội
diễn ra một cách nhanh chóng, sâu sắc, cơ chế thị trường đề cao giá trị đồng
tiền, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân… đã và sẽ gây hệ lụy tiêu cực đến
đạo đức của xã hội.
Hai là, sự tác động của cơng nghiệp hố, hiện đại hố định hướng XHCN.
13


Trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xét về mặt vật chất thì
cơng nghiệp, dịch vụ, đơ thị và người làm công ăn lương sẽ chiếm địa vị áp đảo
so với nông nghiệp, nông thôn và nông dân; xét về mặt tinh thần – văn hoá, nhất
là khi Việt Nam gia nhập WTO, q trình đa dạng hố, đa phương hoá liên kết
và hợp tác quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các giá trị nước ngoài tác động mạnh vào
lối sống, đạo đức của một bộ phận thanh niên Việt Nam. Về mặt sinh hoạt và tổ
chức đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, nhiều người sẽ hướng theo lối sống
công nghiệp, lối sống cá nhân, và mối quan hệ sòng phẳng. Về mặt tâm lý, nhiều
thanh thiếu niên sẽ thiên về lối sống bình đẳng, thiết thực, kể cả thực dụng và
ngại sống chung với bố mẹ, ông bà. Tâm lý tự chủ để lập thân, lập nghiệp trong
điều kiện cạnh tranh và hội nhập sẽ làm cho một bộ phận người trẻ có lối sống
tự do và tôn thờ chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, sự hội nhập, giao lưu văn hóa.
Hội nhập, giao lưu về văn hóa là q trình trao đổi, chia sẻ, hợp tác những
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Q trình này có thể làm biến đổi, loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, lỗi thời để thay
thế bằng các giá trị mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác, nó
cũng tạo ra khơng ít sự thách thức đối với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Những giá trị truyền thống văn hóa trong xã hội Việt Nam được hình
thành hàng ngàn năm như: Ý thức tự cường, tinh thần đồn kết dân tộc, lịng
nhân ái, khoan dung, đức tính cần cù, sáng tạo, … vừa là cơ sở vừa là thành tố

cơ bản hình thành nên bản sắc văn hóa của dân tộc và ln phát huy có hiệu quả
trong suốt chiều dài lịch sử người Việt. Tuy nhiên, q trình giao lưu, hội nhập
văn hóa đã và sẽ làm mai một dần đi một số giá trị văn hóa dân tộc và xác lập
một số giá trị mới. Trong sự tiếp biến văn hóa, các chuẩn mực hành vi, những
giá trị xã hội bị xáo trộn và gây nên xung đột giữa các giai tầng xã hội, ảnh
hưởng tới tư tưởng đạo đức của giới trẻ.
Bốn là, sự tác động của nếp sống và giá trị truyền thống dân tộc, truyền thống
cách mạng.
14


Lịng u nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt
nguồn từ tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết với quê hương, xứ sở, từ lịng tự
hào, tự tơn dân tộc. Tình u nước một cách tự nhiên của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng dần phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành động lực tinh thần to
lớn trong mỗi giai đoạn dựng nước và giữ nước. Bên cạnh đó, con người Việt
Nam cịn thơng minh, cần cù, chịu khó, có nếp sống cộng đồng, tình nghĩa.
Ý thức tự hào, tơn vinh quốc gia, dân tộc là cốt cách, là truyền thống của
con người Việt Nam. Lẽ sống “khơng có gì q hơn độc lập tự do” là biểu hiện
cao nhất của ý thức tự hào dân tộc Việt Nam. Truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng tốt đẹp đó đã và đang tác động tích cực, mạnh mẽ đến lối sống,
đạo đức của mọi thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.
2. Thực trạng về đạo đức của sinh viên hiện nay
a, Tích cực
Sinh viên là những nhân tố quan trọng trong việc phát triển đất nước và
hội nhập tồn cầu. Vì thế việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh càng trở nên cần thiết trong thời đại hiện nay, khi đất nước đang tập trung
vào việc phát triển kinh tế thơng qua cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa. Trong xu
hướng phát triển mạnh mẽ của xã hội tác động mọi mặt đến đời sống, phần lớn
sinh viên và tầng lớp thanh niên tri thức vẫn giữ cho mình lối sống lành mạnh,

nghĩa tình, sống có đạo đức, có văn hóa, có ý chí xây dựng q hương đất nước.
Thế hệ trẻ ngày nay năng động, hăng hái hơn trong việc tham gia các hoạt
động tình nguyện, trao đổi thông tin, giao lưu, không ngừng phát huy sức mạnh
nội lực để đạt được những thành tích cao. Đa số sinh viên tin vào sự lãnh đạo
của đảng, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, khơng ngừng
rèn luyện lối sống có trách nhiệm và không ngừng nỗ lực vươn lên để thực hiện
ước mơ hồi bão.
Ví dụ: Ngày 6/1/2023, tại Hội trường A1 - Học viện Ngân hàng đã diễn ra
lễ Kỷ niệm “73 năm ngày truyền thống học sinh - sinh viên và hội sinh viên Việt
15


Nam”. Buổi lễ đã tuyên dương những cá nhân và tập thể có thành tích hoạt động
xuất sắc cấp Học viện trong năm học 2021-2022. Trong đó tập thể Liên chi Hội
Khoa Kế toán Kiểm toán cùng các thành viên đã vinh dự đạt được nhiều thành
tích tiêu biểu tại buổi lễ: Danh hiệu “Tập thể Sinh viên 5 tốt”và Danh hiệu “Sinh
viên 5 tốt”: chị Đào Thu Hương - LCH Trưởng và chị Tơ Lan Hương - Ngun
LCH Phó. Hai chị là tấm gương tiêu biểu của khoa của trường trong việc rèn
luyện ý thức đạo đức và học tập tốt.
Khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, một làn sóng mới đã ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng, đạo
đức của con người Việt Nam. Đó là nền đạo đức đã phát huy được những giá trị
tốt đẹp truyền thống của dân tộc như: yêu nước, yêu thương con người, thủy
chung, nghĩa tình, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, đồn kết,… cùng với
đó là sự hội nhập, học hỏi những điều mới của thời đại. Đa số sinh viên, học
sinh, trí thức vẫn giữ được lối sống lành mạnh, trong sáng, thân thiện, khiêm
tốn, cần cù, chịu khó; dũng cảm, vượt khó khơng ngừng vươn lên trong học tập
và cuộc sống, dám đương đầu với khó khăn; dám thử sức với những điều mới,
và dám chịu trách nhiệm trước những lời nói và hành động của mình; ln cố
gắng đấu tranh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.

Ngồi ra, dưới sự quan tâm sát sao của các bộ ban ngành mà sinh viên
được tiếp xúc nhiều về các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tư
tưởng Hồ Chí Minh qua nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Vd: Điển hình như Cuộc thi “Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2021 được tổ chức từ ngày 10/9/2021 đến
ngày 28/11/2021 theo hình thức trực tuyến. Mặc dù chịu tác động của dịch bệnh
Covid-19, song cuộc thi đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, khơng chỉ thu hút đơng đảo
đồn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia mà còn nhận được sự quan
tâm của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan,
đơn vị trường học trong cả nước và thanh niên Việt Nam đang sinh sống, học
tập và làm việc ở nước ngoài trong đó có gần 2 triệu thí sinh đăng ký dự thi, số
16


lượng này vượt trội so với các lần thi trước. Trong đó có hơn 1,5 triệu học sinh,
hơn 300 nghìn sinh viên, gần 15 nghìn lưu học sinh và gần 100 nghìn cán bộ,
giáo viên trẻ, đồn viên. Điều này cho thấy học sinh, sinh viên ngày nay vẫn
luôn chú trọng trong việc rèn đức luyện tài, noi theo tấm gương của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại.
b, Tiêu cực
Bên cạnh biểu hiện tốt đẹp đó, những vấn đề tiêu cực, suy thối tha hóa về
lối sống, đạo đức vẫn còn tồn tại, nổi cộm trong đời sống hiện nay. Một số biểu
hiện suy thoái đạo đức trong một bộ phận sinh viên là:
Đầu tiên là việc thiếu lý tưởng, khơng có động lực phấn đấu cụ thể và rõ
ràng cho bản thân. Không chuyên tâm vào việc nâng cao năng lực trình độ bản
thân, có tính ỷ lại người khác, không chịu rèn luyện, cống hiến, lao động mà chỉ
muốn sung sướng.
Sinh viên giới trẻ hiện nay thường đi theo chủ nghĩa cá nhân. Tuy nhiên,
xu hướng này lại bị giới trẻ lạm dụng thái quá như chỉ quan tâm tới những lợi
ích cá nhân trước mắt mà quên mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích

của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, một số thanh niên còn bất chấp
tất cả: luật pháp, gia đình, bạn bè… Một số khác sống không động chạm đến ai,
nhưng cũng không quan tâm đến ai, chỉ cần biết đến mình.
Ví dụ: Làm lơ với mọi người khi họ gặp hồn cảnh khó khăn hoặc có nhu cầu
muốn giúp đỡ; xả rác bừa bãi, gây ồn ào ở những nơi công cộng; vu khống, đổ
lỗi cho người khác trong cơng việc,...
Tình trạng sinh viên sống bng thả, khơng coi trọng những giá trị đạo
đức: tình trạng thanh thiếu niên phạm tội ngày càng tăng, lôi kéo bè cánh để
đánh nhau, ẩu đả, hành hung người khác. Tình trạng bạo lực học đường, đặc biệt
hiện tượng nữ sinh đánh nhau cũng có xu hướng gia tăng. Tình trạng sống thử
và quan hệ tình dục trước hơn nhân ngày càng tăng cao, minh chứng là có
khoảng 300.000 ca nạo phá thai mỗi năm ở độ tuổi 15-19; 5% em gái sinh con
17



×