Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo đúng đắn của đảng, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.34 KB, 23 trang )

1
Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo đúng đắn
của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn là bài học xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam, là kinh nghiệm lịch sử quý báu trong quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng. Nên Đảng ta luôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành
thắng lợi vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử mang tính chất thời đại sâu sắc. Qua thắng
lợi của cách mạng Việt Nam đã tơn vinh vị trí, vai trò của Đảng lên một tàm cao
mới đối với nhân dân thế giới và các đảng chân chính trên thế giới. Chúng ta lại
càng tự hào và biết ơn công lao to lớn, vĩ đại đó của Đảng. Thắng lợi của sự lãnh
đạo đó có nhiều nguyên nhân xong nguyên nhân như: tư duy về chính trị, độc
lập về chính trị của Đảng là hết sức độc đáo đối với cách mạng ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến… nhất là quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng
tạo của Đảng nó đã được kết tinh từ truyền thống của Đảng và làm cho Đảng lớn
mạnh; các yếu tố độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với
nhau hỗ trợ và là cơ sở, tiền đề của nhau. Nếu khơng có độc lập tự chủ thì khơng
có tự lực tự cường sáng tạo và khi nào chúng ta nêu cao độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, sáng tạo thì Đảng lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, uy tín được
nâng cao và ngược lại khi nào hạ thấp và xem nhẹ thì cách mạng gặp khó khăn
và thậm chí thất bại. Đại hội X đưa ra 5 bài học về sự lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng Việt Nam đã thể hiện rất rõ quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, sáng tạo của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng việt nam trong
giai đoạn mới. Ngày nay quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong cơng cuộc
đổi mới đất nước ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, cần được tiếp tục nghiên cứu,
quán triệt sâu sắc, vận dụng có hiệu quả, góp phần đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp
đổi mới vì chủ nghĩa xã hội.


2
1. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong thời
kỳ mới là một tất yếu khách quan.


Từ tính chất, quy mơ của cơng cuộc đổi mới đất nước ta đòi hỏi nêu cao
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo.
Sự nghiệp đổi mới của chung ta là mới mẻ vừa làm vừa rút kinh nghiệm
nên phải nêu cao độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo
Chống các quan điểm cho rằng đổi mới là do sức ép của bên ngoài, hoặc
là do bắt trước nước ngoài, dập khuân Trung Quốc. Chúng ta nhất quán và luôn
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đại hội IX là “ Trong quá trình đổi mới phải
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo; đổi mới phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”1.
Thực tế cho thấy đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo
xong chúng ta vừa tìm tịi, thử nghiệm và rất cận thận, về nơng nghiệp chúng ta
phải khốn thí điểm từ khốn 100 năm 1981, đến khốn 10 năm 1982 và đến
khốn gọn hay về cơng nghiệp chúng ta cũng có chủ trương khốn sản phẩm đến
người cơng nhân …
2. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong thời kỳ mới
Đảng ta phải làm.
Đảng ta luôn nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh
vận dụng sáng tạo vào các mạng việt nam để đề ra đường lối đúng đắn đại hội XI
của đảng xác định “ Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.
2001, tr. 81,82.
1


3
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”2.

Chúng ta nghiên cứu vận dụng linh hoạt kinh nghiệm nước ngoài để định
ra đường lối
Từ bài học kinh nghiệm không thành công của Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đơng Âu q trình cải tổ sớm hơn ta, như ở Liên Xô cải tổ tăng
tốcvề kinh tế để trở thành cường quốc về kinh tế từ năm 1985 đến 1988 thất bại
chuyển sang cải cách về chính trị dẫn đến xụp đổ hồn tồn. từ đó Đang ta rút ra
bài học là đổi mới toàn diện trước hết là đổi mới về kinh tế, từng bước đổi mới
về chính trị vì chính trị là vấn đề hết sức nhạy cảm phải có hình thức, bước đi
phù hợp. Đồng thời chúng ta học tập cả kinh nghiệm quan lý kinh tế của các
nước tư bản chủ nghĩa, tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến trên thể
giới
4. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong thời
kỳ mới chúng ta phải giữ vững độc lập dân tộc, dân chủ xong không ngừng
mở rộng quan hệ quốc tế.
Trong mở rộng quan hệ quốc tế Đảng ta đưa ra điều kiện và quá trình
thực hiện vận dụng đúng đắn điều kiện đó là luôn nắm vững lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện
Việt Nam; xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn và sáng tạo trên cơ sở xuất
phát tư thực tế, tôn trong quy luật khác quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng
của nhân dân; xây dựng đất nước có tiềm lực một cách tồn diện cả về kinh tế,
chính trị, văn hố - xã hội, quốc phòng, an ninh vững mạnh; giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, sáng tạo với chủ động hợp tác
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.
2001, tr.83.
2


4
quốc tế trong điều kiện ngày nay. Vì khi mở rộng quan hệ quốc tế chúng ta phải
tiếp cận với nhiều nước, chịu sự tác động của nhiều nước nên rễ bị lệ thuộc nước

ngoài
1. Quán triệt những vấn đề có tính ngun tắc nhằm phát huy quan
điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong thời kỳ mới.
1.1. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên nền tảng
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cơ bản, nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người ln hy
sinh phấn đấu cho mục tiêu ĐLDT và CNXH. Ham muốn tột bậc của Người là
đất nước hoàn toàn độc lập, dân tộc hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành.
ĐLDT gắn liền với CNXH là mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam
từ khi có Đảng. Trong Cương lĩnh đầu tiên (Chính cương, Sách lược vắn tắt)
được thơng qua tại Hội nghị thành lập Đảng (3/2/1930) đã xác định con đường
phát triển của cách mạng Việt Nam: Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng tiến tới xã hội cộng sản. Đến Hội nghị Trung ương tháng 10/1930,
Đảng ta xác định rõ hơn: Làm cách mạng tư sản dân quyền (kiểu mới), tiến lên
CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đến Đại hội II của Đảng
(1951), tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam đi từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa; Đại hội IV của Đảng (1976) tổng kết cách mạng Việt Nam đã nêu thành
bài học kinh nghiệm lớn: giương cao ngọn cờ ĐLDT và CNXH, đó là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt, nền tảng của mọi chiến lược, sách lược, nguồn gốc của mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.


5
Công cuộc đổi mới trên đất nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay luôn luôn kiên định mục tiêu ĐLDT gắn
liền với CNXH. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình đổi mới.
Đại hội VI (1986), Đảng ta khẳng định: đổi mới để có CNXH nhiều hơn,

tốt hơn, đổi mới vì ĐLDT, vì CNXH. Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) tháng
3/1989 tổng kết 2 năm đổi mới đã nêu thành nguyên tắc: “Đi lên CNXH là con
đường tất yếu của cách mạng nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và
của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam XHCN là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta
và nhân dân ta”. Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định: ĐLDT là điều kiện tiên
quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VII nêu thành bài học kinh nghiệm “giữ vững
mục tiêu ĐLDT và CNXH trong quá trình đổi mới”. Tại Đại hội IX (2001),
Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu
ĐLDT và CNXH, trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
ĐLDT gắn liền với CNXH là mục tiêu cơ bản, nhất quán, tư tưởng xuyên
suốt, một trong những nguyên tắc chiến lược chỉ đạo công cuộc đổi mới, bảo
đảm cho công cuộc đổi mới giành được thắng lợi theo mục tiêu đã định.
Kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, của xã
hội chúng ta.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi nào nắm vững, vận dụng sáng tạo lý luận
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cách mạng Việt nam giành thắng lợi; ngược
lại nắm khơng vững, vận dụng sai, máy móc, cách mạng gặp khó khăn, dậm chân
tại chỗ, thậm chí thất bại. Do đó, yêu cầu phải nắm vững, hiểu rõ, bảo vệ, phát


6
triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của cách
mạng. Có phát triển mới giải quyết được những vấn đề mới nảy sinh, làm cho lý
luận trở nên sinh động, như thế mới nói đến kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Đảng luôn quan tâm tổng kết thực
tiễn, bổ xung, phát triển lý luận, chăm lo xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi
mới.

Để giữ vững mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, địi hỏi Đảng ta phải kiên trì, đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, làm cho quá trình thực hiện mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH
hiệu quả hơn, bằng những quan niệm mới, hình thức, bước đi, cách làm thích
hợp. Q trình đổi mới ln ln nắm vững những vấn đề có tính nguyên tắc,
giữ vững định hướng XHCN. Đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong lựa chọn những
giải pháp mới hữu hiệu, chủ động nắm bắt và giải quyết đúng những vấn đề mới
nảy sinh, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, phê phán, sửa chữa những
sai lầm đã mắc phải, khắc phục trì trệ, làm chuyển biến tình hình. Đứng trước
những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và
khu vực, Đảng ta luôn luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách đổi mới, đúng đắn, biết phát huy truyền thống quý báu của dân tộc, kế
thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, giữ vững ĐLDT, vững bước đi
lên CNXH.
1.2. Đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn luôn sáng tạo.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Mọi sức mạnh, mọi
sáng tạo đều bắt nguồn từ nhân dân. Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi
Đảng phải dựa vào dân, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự giác tham gia của


7
quần chúng. Trong công cuộc đổi mới, ý kiến nguyện vọng, sáng kiến của quần
chúng là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới. Đảng từng bước tổng kết
những cách nghĩ cách làm hay để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và đời sống
của nhân dân, hình thành nên quan điểm, đường lối đổi mới và những hình thức,
bước đi phù hợp. Đường lối của Đảng là sự hoà quyện giữa ý Đảng, lịng dân, đó
là chìa khố của mọi thành công.
Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu vượt
qua khó khăn thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được thắng lợi. Quá trình hình

thành và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng
lấy dân làm gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Đổi
mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Đảng ln động viên mọi tầng lớp
nhân dân lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh để phấn đấu hướng tới tương lai.
Đổi mới là một cuộc cách mạng phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, kết
hợp tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, nhưng không sao chép bất cứ mơ
hình có sẵn nào. Cũng trong q trình tồn dân tích cực thực hiện đổi mới trên
các lĩnh vực mà tạo nên những điển hình tiên tiến, những kinh nghiệm hay,
những nhân tố mới từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn, bổ xung, phát triển
đường lối, làm cho mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ln phù
hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng và khả năng của quần chúng. Động viên
tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối. Đó là vấn đề có tính ngun
tắc để phát huy tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, trong quá trình đổi mới đất nước
theo định hướng XHCN.
1.3. kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc đổi
mới.


8
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là bài học kinh nghiệm
là vấn đề có tính nguyên tắc, tính quy luật, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách
mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học kinh
nghiệm quý báu này nhằm chủ động kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, luôn tạo thế và lực mới của cách mạng nước ta trong giai đoạn cách mạng
mới. Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những thời
cơ, thuận lợi lớn, đồng thời đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ. Cách
mạng khoa học- công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, tồn cầu hố kinh
tế đang là xu thế khách quan thu hút nhiều nước tham gia. Cuộc đấu tranh của

nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra
rất sơi nổi. Vì vậy, chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ, và cơ hội một cách tối đa
do xu thế mới tạo ra; hạn chế thấp nhất nguy cơ để phát huy nội lực, chủ động
hội nhập, đẩy mạnh hợp tác quốc tế tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất
nước nhanh và bền vững.
1.4. Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự
thành công của công cuộc đổi mới.
Đảng ta, người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc đổi mới. Để đưa công
cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên giành thắng lợi vững chắc hơn, yêu cầu khách quan
phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đó là nguyên tắc và là kinh
nghiệm lớn bảo đảm cho đổi mới phát triển đúng hướng.
Vấn đề hàng đầu để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công cuộc đổi mới phải luôn chăm lo phát triển, hoàn chỉnh đường lối, đồng thời
từng bước cụ thể hoá đường lối trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông


9
Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do sai lầm về đường
lối, quan điểm, lựa chọn hình thức, bước đi khơng phù hợp trong cải tổ.
Để có đường lối đúng, Đảng ln vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam; quan tâm tổng kết
thực tiễn, từng bước bổ xung, phát triển đường lối; Đảng luôn chú trọng đổi mới
phương thức lãnh đạo, mở rộng dân chủ trong Đảng, trong tồn xã hội, qua đó
phát huy trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân tham gia xây dựng đường lối; đồng thời
ln có dự báo khoa học, đúng đắn về sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công cuộc đổi mới, Đảng thường
xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tạo sự thống nhất về
tư tưởng và hành động trong tồn Đảng, tồn dân, tồn qn. Đó là cơ sở vững

chắc, tạo lập lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và
tương lai tươi sáng của đất nước.
2. Chủ trương, biện pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò độc lập, tự
chủ, sáng tạo trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội trong thời kỳ mới.
2.1. Về chính trị:
- Kiên định về mục tiêu XHCN và con đường tiến lên CNXH ở nước ta.
Đi lên CNXH là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam,
phù hợp với quy luật và xu thế chung của thời đại. Kiên trì con đường đi lên
CNXH, Đảng đã từng bước phát triển nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) xác định 6 đặc
trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và 7 phương hướng cơ
bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Sau 10 năm


10
thực hiện cương lĩnh, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) tiếp tục bổ xung
phát triển về con đường đi lên CNXH ở nước ta bao gồm:
Một là, mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng, là quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động là bước phát triển quan
trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của đảng về CNXH.
Ba là, con đường đi lên CNXH của nước ta là sự phát triển quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng phải tiếp
thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc
biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua

một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất q độ.
Bốn là, về đấu tranh giai cấp và động lực phát triển đất nước. Đảng ta
khẳng định trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn còn đấu tranh giai cấp, với nội
dung, hình thức mới. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta là “Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định
hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành


11
động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước
ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Năm là, về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Chúng ta áp dụng
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đảng và Nhà nước chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN.
Sáu là, Mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cải cách tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế là yêu cầu
khách quan, cấp thiết của cách mạng nước ta.
Đổi mới, xây dựng Nhà nước là yêu cầu trực tiếp của công cuộc đổi mới,
của sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện

mục tiêu XHCN đòi hỏi chúng ta phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền lực xã hội cao nhất thuộc về
nhân dân. Thông qua Nhà nước, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, Đảng xác định: cải cách hành
chính, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh là trọng tâm của đổi
mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đó là một trong ba
lĩnh vực then chốt nhất cần tập trung đột phá trong giai đoạn hiện nay.


12
Do yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện đa phương hố, đa dạng
hố, vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; yêu cầu của việc chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của Nhà nước cho phù hợp với tình hình mới.
Nội dung cơ bản đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay là: Xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính dân tộc, tính nhân dân sâu
sắc; Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước; Phát huy dân
chủ, giữ vững kỷ luật kỷ cương, tăng cường pháp chế; Xây dựng đội ngũ cán bộ
cơng chức trong sạch, có năng lực. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong
bộ máy, tổ chức Nhà nước. Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
Để đưa công cuộc đổi mới đến thắng lợi, giữ vững định hướng XHCN,
phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bởi vì Đảng ta là người khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm với đòi hỏi của đất nước, thời đại,

là yêu cầu khách quan, vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối với vận mệnh của cách
mạng, của dân tộc và của Đảng ta. Đó khơng những là nhiệm vụ then chốt, mà
còn là vấn đề cấp bách hiện nay.
Phải tăng cường cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; Xây


13
dựng củng cố các cơ sở Đảng; Kiện toàn tổ chức, phương thức lãnh đạo của
Đảng. Công tác xây dựng Đảng luôn gắn với công tác bảo vệ Đảng. Không chấp
nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, ở Việt Nam chỉ duy nhất có Đảng
Cộng sản Việt Nam mới đủ điều kiện và tư cách lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi tới mục tiêu đúng đắn là ĐLDT và CNXH, bảo đảm tự do, hạnh phúc thực sự
cho nhân dân.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: Đây là động lực chủ yếu để
phát triển đất nước, một quan điểm cơ bản được quán triệt trong mọi chủ trương,
chính sách của Đảng nhằm phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân trong cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết toàn dân là truyền thống quý báu của dân tộc; là đường lối
chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân hiện nay Đảng ta chủ trương: Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc,
tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi người, mọi lứa tuổi, mọi
vùng đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và
người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù
sống ở trong nước, hay ở nước ngoài. Đoàn kết trên cơ sở điểm tương đồng “giữ
vững độc lập, thống nhất vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
Củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
2.2. Về kinh tế-xã hội.


14
- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để củng cố và duy trì, bảo
đảm độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Khơng hề có độc lập, tự chủ về chính
trị khi bị lệ thuộc về kinh tế. Điều đó đúng cho mọi quốc gia và càng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với đất nước ta trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện
nay.
Độc lập tự chủ về kinh tế luôn được đặt trong mối quan hệ biện chứng với
độc lập tự chủ về các lĩnh vực khác, tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng
hợp của quốc gia, dân tộc.
Độc lập tự chủ về kinh tế trước hết không lệ thuộc, phụ thuộc vào nước
khác, vào một tổ chức kinh tế quốc tế nào về đường lối, chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, vào những điều kiện kinh tế, chính trị mà người khác áp đặt cho
mình trong hợp tác song phương, đa phương, hoặc trong tiếp nhận viện trợ.
Độc lập, tự chủ về kinh tế đòi hỏi trước những diễn biến, chấn động của
nền kinh tế thế giới, khu vực mà nền kinh tế vẫn giữ được ổn định, phát triển
theo định hướng XHCN. Trước sự bao vây cơ lập, chống phá của kẻ thù bên
ngồi nhưng đất nước vẫn trụ vững, không sụp đổ về kinh tế và chính trị. Như
vậy, độc lập tự chủ về kinh tế của nước ta hiện nay, đồng thời cũng là đảm bảo
vững chắc cho mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH theo đường lối, quan điểm
của Đảng, khơng có bất kỳ sự áp đặt nào từ bên ngoài.
Khác với trước đây, khi nói độc lập, tự chủ về kinh tế người ta thường
hình dung đó nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp; ngày nay độc lập tự chủ về
kinh tế phải độc lập tự chủ trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nền
kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập với bên ngồi, tích cực giao lưu, hợp tác,



15
phân công lao động quốc tế, trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so
sánh của quốc gia để hợp tác và cạnh tranh quốc tế có hiệu quả.
Những điều kiện và biện pháp chủ yếu bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế.
Một là, Đảng, Nhà nước ta phải có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về
phát triển kinh tế- xã hội. Phải tự mình lựa chọn, xác định chủ trương chính sách,
thể chế kinh tế và mơ hình kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và bối
cảnh quốc tế, bảo đảm định hướng XHCN. Không bị lệ thuộc vào bên ngồi,
khơng chịu sức ép của bất cứ ai vì mục đích khơng lành mạnh của họ. Đó là vấn
đề có tính ngun tắc, bảo đảm cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Đồng thời tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp nội lực với ngoại lực, trong đó nội lực
giữ vai trị quyết định, tạo thành nguồn lực tổng hợp cho sự phát triển.
Hai là, có tiềm lực kinh tế đủ mạnh để phát triển kinh tế trong nước, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định
hướng XHCN, muốn vậy phải: Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng của xã hội và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế; phải có
thể chế kinh tế bền vững; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng phát triển, tận
dụng khoa học và công nghệ hiện đại tạo sức cạnh tranh kinh tế với bên ngồi;
giữ được sự ổn định kinh tế vĩ mơ với hệ thống tài chính, tiền tệ lành mạnh, bảo
đảm cán cân thương mại, thanh tốn, có dự trữ ngoại tệ cần thiết; có chiến lược
vay và trả nợ hợp lý khơng bị động lệ thuộc vào bên ngồi; muốn có thực lực
kinh tế mạnh phải đẩy mạnh CNH-HĐH; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, tăng cường quản lý, điều hành của Nhà nước, giữ vững sự ổn định
trong phát triển kinh tế- xã hội. Nhà nước phải có hệ thống pháp luật và chính
sách phát triển kinh tế toàn diện, quản lý, điều hành mọi hoạt động nền kinh tế
theo đúng luật pháp, bảo đảm nền kinh tế phát triển đúng định hướng XHCN.



16
Đồng thời tạo những điều kiện thơng thống cho mọi tổ chức, các nhân đem hết
khả năng của mình để phát triển nền kinh tế ích nước, lợi nhà, có những biện
pháp thích hợp để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tệ quan liêu, làm trong sạch,
lành mạnh nền kinh tế, tạo sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Các vấn đề xã hội là vấn đề đa dạng, phong phú và nhạy cảm. Về cơ bản
đó là những vấn đề của từng quốc gia dân tộc. Theo Đảng ta chỉ có độc lập, tự
chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình, xuất phát từ điều kiện, hồn cảnh cụ thể của
mình mới giải quyết tốt vấn đề này. Trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước,
Đảng ta ln xác định đổi mới phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ cơng bằng xã hội. Mọi chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ mục đích vì con người, chăm sóc bồi
dưỡng, phát triển con; đặt con người vào vị trí trung tâm của phát triển kinh tế,
văn hố- xã hội. Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào việc phát triển và
lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh
mẽ phát triển sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong
các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Các chính sách
xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hố, đề cao trách nhiệm của chính
quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các
đoàn thể, các tổ chức kinh tế- xã hội, để nâng cao đời sống và mức sống của từng
người và toàn xã hội.
Trước mắt cần tập trung làm tốt các chính sách dân số và việc làm;chính
sách xố đói giảm nghèo; chính sách tiền lương và thu nhập; chính sách chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ


17
nạn xã hội nhất là tệ nạn mại dâm, ma tuý, HIV, AIDS, xây dựng đời sống văn
minh lành mạnh.

2.3. Về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển kinh tế- xã hội. Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng
con người Việt nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái khoan dung, tơn
trọng tình nghĩa, lối sống có văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng
và xã hội. Những phẩm chất đó vừa là sự nối tiếp các giá trị truyền thống tốt đẹp
và bền vững của dân tộc, vừa là đòi hỏi mới đối với con người Việt Nam trong
thời kỳ CNH,HĐH đất nước.
Con người phát triển toàn diện là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố,
trong đó văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy ý chí tự lực, tự cường xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Độc lập tự chủ trong xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm cho nền văn hoá đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi sự xâm nhập của văn hoá xấu
độc ngoại lai, ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống, nhân cách con người và truyền
thống Việt Nam. Quá trình xây dựng nền văn hố mới cũng là q trình khơng
ngừng giới thiệu, quảng bá phát huy ảnh hưởng nền văn hoá Việt Nam ra các
nước trong khu vực và trên thế giới.
2.4. Về tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy khơng thể có thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng CNXH nếu không kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng CNXH


18
với bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó chính là sự phát triển của quy luật dựng nước đi
đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Trong giai đoạn mới của cách mạng, nước ta đang đứng trước nhiều thời
cơ thuận lợi lớn, song cũng có nhiều nguy cơ, thách thức lớn. Đòi hỏi Đảng ta,
nhân dân ta phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, nêu cao tinh thần cảnh

giác cách mạng, tư tưởng tiến cơng, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách
đưa đất nước phát triển đi lên theo định hướng XHCN. Cùng với việc phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội, trên lĩnh vực quốc phịng- an ninh càng đòi hỏi Đảng ta, nhân dân ta nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Chỉ có như thế chúng ta mới bảo vệ vững
chắc ĐLDT và CNXH, bảo vệ thành quả cách mạng; đủ sức ngăn chặn và đánh
thắng mọi âm mưu phá hoại, xâm lược của kẻ thù đối với nước ta.
Độc lập tự chủ trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đòi hỏi Đảng ta phải tập
trung giải quyết những vấn đề chủ yếu sau:
Nắm bắt kịp thời, phân tích đúng đắn tình hình đất nước, khu vực và thế
giới trong từng thời kỳ để có chủ trương chiến lược đúng. Nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định quan điểm, nhiệm vụ về tăng cường
quốc phòng, an ninh cho phù hợp.
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn
hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới và lợi ích quốc gia dân tộc.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đồn kết
tồn dân của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc


19
phịng tồn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh
tế; kết hợp quốc phòng an ninh với đối ngoại.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ
là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của toàn dân, trong
đó qn đội nhân dân và cơng an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Nhiệm vụ quốc phòng- an ninh trong giai đoạn mới là: xây dựng quân đội

nhân dân, cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại; lấy xây dựng cơ sở chính trị xã hội, thế trận và lực lượng bảo vệ cơ sở vững
mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; đầu tư thích đáng cho
cơng nghiệp quốc phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội và công an;
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội
và cơng an nhân dân, đối với quốc phịng và an ninh.
Nắm vững quan điểm, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh chủ động phối hợp
giữa các ngành, vùng, miền, các lực lượng xử lý tình huống nhanh nhất, có hiệu
quả nhất bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
3. Quân đội với việc quán triệt, thực hiện đường lối độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng.
Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ,
chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, lợi dụng cơ hội này, Mỹ
muốn thiết lập một trật tự thế giới mới một cực do Mỹ đứng đầu. Mỹ và các thế
lực phản động quốc tế tăng cường chống phá các nước XHCN và cách mạng thế
giới. Chúng rêu rao các luận thuyết: “Chủ quyền hạn chế”, “Coi nhân quyền cao
hơn chủ quyền”, “Can thiệp, nhân đạo”.... Lợi dụng cái gọi là chống khủng bố để


20
can thiệp, chống các nước có chủ quyền, nhưng khơng theo quỹ đạo, hoặc không
chịu lệ thuộc vào Mỹ.
Mỹ và các thế lực phản động luôn coi Việt Nam là một trọng điểm chống
phá. Chính sách cơ bản của chúng chống Việt Nam là thực hiện chiến lược ‘diễn
biến hoà bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ, nhằm xố bỏ sự lãnh đạo của Đảng và
chế độ XHCN ở Việt Nam, lôi kéo ta vào quỹ đạo của chúng.
Trong các nước, các đối tượng chống phá có xu hướng hoạt động gia tăng
và ngày càng phức tạp. Trong khi đó, những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm về
kinh tế, xã hội chưa được khắc phục kịp thời, nhiều vấn đề mới phức tạp lại nảy
sinh, đã làm sâu sắc thêm mức độ và tính chất của bốn nguy cơ mà Đảng đã từng

cảnh báo: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới; chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; diễn biến hồ bình
do các thế lực thù địch gây ra. Trong điều kiện đó, địi hỏi tồn Đảng, toàn quân
phải nêu cao cảnh giác, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng về mọi mặt, sẵn
sàng đập tan mọi âm mưu hành động “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của
kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia
dân tộc.
Để đáp ứng yêu cầu tình hình, nhiệm vụ cách mạng, trong giai đoạn mới,
quân đội phải không ngừng phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo về mọi
mặt, nhất là về chính trị, xây dựng lực lượng, đảm bảo vũ khí trang bị kỹ thuật,
nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật Việt Nam.
Những yêu cầu chủ yếu về nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của
quân đội trong điều kiện mới là:



×