Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài trong thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.78 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
---------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Giáo Viên Hướng Dẫn:

Sinh Viên Thực Hiện:

TS. DƯ NGỌC BÍCH

BÙI THỊ NGỌC HÂN
MSSV: 5043964
LỚP: LUẬT THƯƠNG MẠI – K30

Cần Thơ 05-2008


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN


trang: 3


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

Ngày

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

tháng năm 2008

trang: 4


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

MỤC LỤC
------------------

Trang phụ bìa........................................................................................................... 02.
MỤC LỤC ............................................................................................................... 04.

Lời nói đầu: ............................................................................................................ 06.
1. Giới thiệu chung về đề tài.............................................................................. 06.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài ............................................................................. 06.
3. Cấu trúc đề tài ................................................................................................ 07.
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ....................................................................... 08.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp trong thương mại quốc tế ............. 08.
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp trong thương mại quốc tế........................... 08.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp trong thương mại quốc tế .......................... 09.
1.2. Giải quyết tranh chấp và các phương thức giải quyết tranh chấp .............. 10.
1.2.1. Thế nào là giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế ?............ 10.
1.2.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc
tế ....................................................................................................... 11.
1.2.2.1. Thương lượng............................................................................ 12.
1.2.2.2. Hòa giải ..................................................................................... 13.
1.2.2.3. Trọng tài .................................................................................... 14.
a) Trọng tài theo vụ việc (trọng tài Ad-hoc) .................................... 15.
b) Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) .................................... 15.
1.2.2.4. Tòa án ........................................................................................ 16.
Chương II: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ .............................. 19.
2.1. Khái quát chung về trọng tài trong thương mại quốc tế ............................. 19.
2.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế ............................................ 19.
2.1.2. Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế....................................... 20.
2.1.2.1. Trọng tài quy chế ( hay còn gọi là trọng tài thường trực)......... 20.
2.1.2.2. Giải quyết tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài do các bên
thành lập (trọng tài Ad-hoc) ............................................................. 25.
2.1.2.3. Thẩm quyền của trọng tài thương mại quốc tế ......................... 29.
2.1.2.4. Vấn đề chọn luật áp dung trong việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài trong thương mại quốc tế.................................. 32.

2.1.2.5. Thi hành quyết định của trọng tài thương mại quốc tế ............. 39.
2.2. Vấn đề công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài thương mại
quốc tế .................................................................................................... 40.
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 5


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

2.2.1. Sự cần thiết của việc công nhận và thi hành các quyết định của
trọng tài thương mại quốc tế............................................................. 40.
2.2.1.1. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước
ngoài ở các quốc gia ......................................................................... 41.
2.2.1.2. Công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của
trọng tài nước ngoài.......................................................................... 43.
2.2.2. Các điều kiện công nhận và thi hành các quyết định của trọng
tài thương mại................................................................................... 46.
2.2.2.1. Vấn đề xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài .......... 47.
2.2.2.2. Xác định thẩm quyền của trọng tài ........................................... 47.
2.2.2.3. Vấn đề liên quan thành phần trọng tài và tố tụng trọng tài....... 50.
2.2.2.4. Vấn đề liên quan tới trật tự công cộng ...................................... 52.
2.2.2.5. Vấn đề liên quan tới thời hạn .................................................... 55.
2.2.2.6. Vấn đề liên quan tới quyền miễn trừ các quốc gia.................... 56.
Chương III: THỰC TIỂN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ ĐỀ
XUẤT HOÀN THIỆN ........................................................................... 59.
3.1. Thực tiển giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thương mại

quốc tế .................................................................................................... 59.
3.1.1. Những thuận lợi cho việc áp dụng cơ chế giải quyết bằng trọng
tài trong thương mại hiện nay........................................................... 61.
3.1.2. Những khó khăn trong việc áp dụng cơ chế giải quyết bằng
trọng tài............................................................................................. 65.
3.1.2.1. Sự hiểu biết pháp luật cũng như kiến thức về trọng tài
của doanh nghiệp còn hạn chế.......................................................... 68.
3.1.2.2. Các quyết định của trọng tài được công nhận nhưng lại
không cho thi hành ở một số quốc gia.............................................. 69.
3.1.2.3. Các quyết định của trọng tài bị đưa ra Tòa án xin hủy
ngày càng nhiều ................................................................................ 71.
3.2. Một số đề xuất hoàn thiện cho quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài của trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC)........................................................................................... 72.
3.2.1. Pháp lệnh trọng tài cần tiếp tục được hoàn thiện............................... 72.
3.2.2. Vài ý kiến đề xuất hoàn thiện ............................................................ 75.
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 79.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 82.

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 6


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

LỜI NĨI ĐẦU
  

1. Giới thiệu chung về đề tài:
Ngày nay cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội, nhu cầu hợp tác giữa các
quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường. Đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại
quốc tế. Do hoạt động thương mại quốc tế vơ cùng phong phú và đa dạng bởi tính chất
đặc thù của hoạt động này, nó khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
mà còn liên quan đến nhiều quốc gia khác. Đồng thời, với mơi trường kinh tế tồn cầu
hóa, đa dạng về chủ thể kinh doanh mà lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nhà
kinh doanh luôn hướng tới. Ngay cả Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tại Điều 57 cũng đã quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo qui định
của pháp luật”. Và tất nhiên không phải lúc nào các quan hệ kinh tế cũng được các bên
tham gia thực hiện chính xác và đầy đủ mà tất yếu phải có xảy ra tranh chấp, đặc biệt là
trong hoạt động thương mại quốc tế khi các chủ thể giao dịch thuộc các hệ thống pháp
luật và văn hóa kinh doanh khác nhau. Mà tranh chấp nào cũng vậy, chúng cần phải
được giải quyết thỏa đáng, nhanh chóng và kịp thời. Có như vậy mới có thể bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh và tạo ra môi trường kinh doanh
lành mạnh, tạo thuận lợi về mặt pháp lý và kinh tế trong việc thực hiện chính sách chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế thương mại với
nước ngoài.
Hơn nữa ta thấy rằng trong hoạt động thương mại quốc tế các chủ thể có quyền tự
do kinh doanh. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ có quyền tự do lựa chọn cơ quan tài
phán mà mình thích trong việc giải quyết tranh chấp. Ngày nay, cùng với sự hợp tác và
phát triển giữa các quốc gia, nên nhu cầu đặt ra địi hỏi phải có những phương thức giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh không những phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi
quốc gia mà cịn phù hợp với thơng lệ quốc tế. Do đó, so với các phương thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh thì phương thức giải quyết bằng “Trọng tài” được giới kinh
doanh ưa chuộng, sử dụng rộng rãi và phổ biến trên thế giới bởi những ưu điểm đặc
trưng của nó mà các phương thức giải quyết tranh chấp khác khơng có được. Đó cũng
chính là lý do người viết chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng
tài trong thương mại quốc tế” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài:

Cùng với sự tác động của các quan hệ kinh tế và dưới sự tác động của quy luật
cạnh tranh, tranh chấp trong thương mại quốc tế cũng trở nên phong phú hơn về chủng
loại, gay gắt và phức tạp hơn về tính chất và quy mơ. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 7


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

trong thương mại quốc tế cũng có nhiều phương thức khác nhau như: Thương lượng trực
tiếp, trung gian hòa giải, đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc tòa án. Tuy nhiên trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh vấn đề “Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
trong thương mại quốc tế”. Và trong khn khổ luận văn của mình do thời gian và trình
độ nghiên cứu có giới hạn nên người viết khơng trình bày một cách chi tiết từng vấn đề
mà chỉ trình bày những quy định cơ bản về phương thức “Giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh bằng trọng tài trong thương mại quốc tế”.
3. Cấu trúc đề tài:
Cơ cấu đề tài gồm có:
- Mục lục.
- Lời nói đầu.
- Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp trong thương mại quốc tế.
- Chương II: Pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thương mại
quốc tế.
- Chương III: Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thương mại
quốc tế và một số đề xuất hoàn thiện.
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, với sự nổ lực rất lớn của bản thân nhưng do
năng lực và nguồn tài liệu còn hạn chế nên bài viết khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong được sự góp ý kiến cho bài viết được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cám ơn TS. Dư Ngọc Bích đã hướng dẫn và tạo điều kiện tốt
nhất để tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài trong thương mại quốc tế”.
Xin chân thành cảm ơn!

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 8


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP
TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp trong thương mại quốc tế:
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp trong thương mại quốc tế:
Hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc phát
triển kinh tế của một đất nước. Nó bao gồm các hành vi thương mại có yếu tố nước
ngồi, làm phát sinh quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau trong
hoạt động thương mại quốc tế. Hành vi thương mại ở đây được hiểu là các giao dịch
như: Mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ và các hoạt động liên quan một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa, cung cấp những hàng hóa và dịch
vụ đó. Yếu tố nước ngoài là các yếu tố liên quan đến quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của
các chủ thể, liên quan đến nơi xác lập hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài

sản là đối tượng của hợp đồng.
Như ta đã biết thì hoạt động thương mại quốc tế có tính chất đặc trưng của nó là
nó khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia mà còn liên quan đến
nhiều quốc gia. Do vậy, việc xảy ra xung đột về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
hoạt động kinh doanh là điều không thể tránh khỏi.
Theo luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Luật Thương mại quốc
tế (UNCITRAL) đưa ra khái niệm “thương mại” với nội hàm rộng liên quan đến tất cả
các quan hệ mang bản chất thương mại. Xuất phát từ đó mà tranh chấp thương mại cũng
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch
thương mại 1. Ở Việt Nam giới khoa học pháp lý đã nêu lên nhiều quan hệ khác nhau về
tranh chấp thương mại, có quan điểm cho rằng tranh chấp thương mại được hiểu là “sự
bất đồng chính kiến vì một sự kiện pháp lý, là sự mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích,
về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ
khác nhau”2
Từ những phân tích nêu trên ta thấy rằng tất cả các tranh chấp trong nước hay
quốc tế đều có thể là đối tượng của tranh chấp trong thương mại quốc tế nếu nó có yếu tố
nước ngồi tham gia vào các quan hệ đó. Tuy nhiên, đối với thương nhân Viêt Nam khi
tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế thì bắt buộc phải có đầy đủ các điều kiện do
luật định. Theo Điều 33 Luật Thương mại Việt Nam “thương nhân chỉ được hoạt động
thương mại với nước ngoài nếu có đủ điều kiện do chính phủ quy định, sau khi đã đăng
1;2

Dương Nguyệt Nga- Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo pháp luật Viêt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế- Tạp chí Toà án nhân dân- số 16/2007.

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 9



GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền”3. Chính sự tự do kinh doanh trong điều kiện hội
nhập của nền kinh tế quốc tế của các chủ thể trong nước và quốc tế đã làm cho các tranh
chấp trong thương mại quốc tế diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng bao gồm:
- Tranh chấp trong kinh doanh diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ
thể đó là những tranh chấp phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực hiện
một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn trong q trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy tranh chấp
trong kinh doanh có thể phát sinh cả trong quá trình sản xuất và tái sản xuất. Tuy nhiên
dù có thể tồn tại dưới dạng nào và có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan
và chủ quan hết sức khác nhau, nhưng đặc trưng chung của các tranh chấp trong kinh
doanh là luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư;
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện Điều ước quốc tế song
phương và đa phương.4
Mặc dù có nhiều loại tranh chấp diễn ra trong hoạt động thương mại quốc tế
nhưng nhìn chung tranh chấp mà chúng ta thường thấy và phổ biến nhất trong đời sống
thương mại quốc tế đó là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Do vậy khác với tranh
chấp trong nước, các tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế không chỉ chịu sự
điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà còn chịu sự điều chỉnh bởi các
nguyên tắc; các quy phạm trong luật pháp của nhiều quốc gia khác nhau; các nguyên tắc,
các quy phạm trong điều ước quốc tế và trong tập quán quốc tế về thương mại mà chủ
yếu là Incoterms, là một bộ quy tắc để giải thích những điều kiện thương mại thông
thường nhất trong thương mại quốc tế, giúp cho các thương gia có cách hiểu thống nhất
khi áp dụng trong giao dịch thương mại quốc tế, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những
tranh chấp có thể xảy ra.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp trong thương mại quốc tế:

Từ những khái niệm về tranh chấp trong thương mại nói trên ta có thể khái quát
được những đặc điểm của tranh chấp trong thương mại như sau:
Đặc điểm đầu tiên cơ bản nhất của tranh chấp trong thương mại quốc tế chủ yếu
là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Các chủ thể của tranh chấp trong thương mại
quốc tế có thể là cá nhân, pháp nhân thậm chí là quốc gia khi tham gia kí kết hợp đồng
mua bán hàng hóa. Nhưng quốc gia là chủ thể duy nhất được hưởng quyền miễn trừ mà
các chủ thể khác khơng có được. Do vậy để một tranh chấp là tranh chấp thương mại thì

3
4

Luật thương mại Việt Nam 2005
Dương Kim Thế Nguyên- Giáo trình luật thương mại (phần ba)-Đại học Cần Thơ 2004

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 10


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

nó phải ln gắn liền với hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong lĩnh vực thương
mại quốc tế.
Thứ 2: Các chủ thể tranh chấp trong thương mại quốc tế thường là các doanh
nghiệp có trụ sở ở các quốc gia khác nhau.
Thứ 3: Bản chất của tranh chấp thương mại quốc tế nó là sự biểu hiện ra bên
ngồi, là sự phản ánh những xung đột về mặt lợi ích của các bên.
Điều đó có nghĩa: Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì

sự phát triển kinh tế luôn là vấn đề được các quốc gia chú trọng hàng đầu, mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận ln làm các nhà kinh doanh phải hướng tới. Do vậy việc hợp tác theo
hướng đa phương, đa dạng hóa ngày càng được phát triển, nhất là trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, do luật pháp ở các quốc gia quy định rất khác nhau,
đồng thời các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quốc tịch khác nhau, nên sự xảy ra
tranh chấp là điều tất yếu. Ngoài ra kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bắt nguồn từ
nguyên tắc “các chủ thể được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm”. Cịn các
quốc gia có nền kinh tế thị trường đều xây dựng một hệ thống “pháp luât tự hành” đối
với lĩnh vực kinh doanh thương mại. Bản chất của quan hệ kinh tế là sự tự do thỏa thuận
của các chủ thể kinh doanh, các thỏa thuận này phù hợp với quy định của nhà nước về
“luật chơi chung” chứ không phải theo sư sắp đặt ý chí của nhà nước. Tuy nhiên như là
một quan hệ hữu cơ có sự thỏa thuận thì tất yếu có sự vi phạm thỏa thuận. Chính vì lý
do này mà tranh chấp giữa các nhà kinh doanh là tất yếu có thể xãy ra. Tuy nhiên pháp
luật luôn hướng tới mục tiêu hạn chế nó, khắc phục hậu quả của nó có thể xãy ra. Chính
vì vậy pháp luật cho phép các bên tranh chấp có quyền lựa chọn những giải pháp khác
nhau để giải quyết tranh chấp.
1.2. Giải quyết tranh chấp và các phương thức giải quyết tranh chấp:
1.2.1. Thế nào là giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế ?
Tranh chấp là điều tất yếu xãy ra trong hoạt động kinh doanh đặc biệt là trong môi
trường quốc tế, khi các chủ thể kinh doanh mang quốc tịch khác nhau, thì sự tranh chấp
ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Vì vậy việc giải quyết các tranh chấp trong
thương mại quốc tế phát sinh được coi như làm một địi hỏi tự thân của q trình phát
triển kinh tế.
Theo cách hiểu thơng thường thì giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là cách
thức cũng như phương pháp hoạt động, để khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát
sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự,
kỉ cương của xã hội.5
5

Nguyễn Thị Kim Vinh- Pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án tai Việt Nam- Luận án tiến sĩ

luật hoc 2002.

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 11


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

Ngồi ra việc giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế còn được hiểu là
cách thức mà các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế sử dụng để bảo vệ
quyền lợi của mình khi bị thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia gây ra. Việc
giải quyết tranh chấp bao gồm: thương lương, hòa giải, trọng tài và tòa án.
1.2.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế:
Tùy thuộc vào trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và do ảnh hưởng
của những đặc điểm về phong tục tập quán của các quốc gia. Do vậy cơ chế giải quyết
tranh chấp trong thương mại quốc tế không những được điều chỉnh bởi pháp luật của mỗi
quốc gia mà còn được điều chỉnh bởi các nguyên tắc, các điều ước quốc tế, đặc biệt là
tập quán thương mại quốc tế…Tuy nhiên xuất phát từ đặc điểm chung của hợp đồng
thương mại và nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, cho đến thời điểm hiện nay các hình
thức giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế vẫn còn tồn tại các hình thức sau:
thương lương, hịa giải, trọng tài và tòa án.
1.2.2.1. Thương lượng:
Sau khi ký kết hợp đồng các bên phải thi hành nghĩa vụ của mình ghi trong hợp
đồng. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều hợp đồng đã bị một trong các bên không thực hiện
và hậu quả của nó là làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. Để bảo vệ quyền lợi của
mình, bên bị vi phạm phải tiến hành thủ tục pháp lý đầu tiên đối với người vi phạm hợp
đồng. Có thể nói thương lương là cách thức đầu tiên mà các bên có thể áp dụng để giải

quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế.
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp thường khơng cần đến vai trị tác
động của bên thứ ba. Đặc điểm cơ bản của hình thức này là các bên cùng bàn bạc, thỏa
thuận để tự giải quyết những bất đồng. Trong hoạt động thương mại quốc tế trong một số
trường hợp khi một bên vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại cho bên kia thì bên bị vi
phạm chủ động gặp bên vi phạm để thương lượng. Trong quá trình thương lượng bên bị
vi phạm sử dụng các văn bản pháp lý và các chứng từ cụ thể để chứng minh sự vi phạm
hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm hợp đồng phải có trách nhiệm bồi thường cho mình
những thiệt hại đó.
Trong trường hợp khơng thể gặp mặt để thương lượng tìm cách giải quyết thì bên
bị vi phạm có thể dùng các phương tiện thông tin như: Thư từ, điện tin, điện báo,
fax…để đề xuất ý kiến khiếu nại của mình với bên vi phạm hợp đồng. Đồng thời bên bị
khiếu nại cũng dùng các phương tiện thông tin tương tự để bày tỏ quan điểm của mình
về việc giải quyết tranh chấp. Thật ra đây là hình thức giải quyết rất phổ biến, từ lâu
được giới thương gia rất ưa chuộng vì khá đơn giản, khơng tốn kém và nói chung ít gây
phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên. Q trình thương lượng thành cơng
hay thất bại phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp, kết quả thương lượng
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 12


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

thường là giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bế tắt hoặc những bất đồng phát sinh mà
trước đó các bên khơng ý thức trước được.
Ngồi những ưu điểm trên, hình thức giải quyết thơng qua thương lượng cũng có
những hạn chế nhất định: Trước hết kết quả thương lượng phụ thuộc chủ yếu vào thiện

chí của các bên, nếu một trong các bên thiếu thiện chí thì q trình thường kéo dài, thậm
chí bế tắt, buột các bên phải tìm kiếm hình thức khác và trong trường hợp đó sẽ cịn mất
nhiều thời gian hơn. Mặt khác, kết quả thương lượng chỉ được bảo đảm bằng sự tự giác
thực hiện của các bên, nên trong nhiều trường hợp tính khả thi thấp.
1.2.2.2. Hòa giải:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên đương sự thỏa thuận
thông qua sự tham gia của người thứ ba gọi là hòa giải viên. Hịa giải viên đóng vai trị
trung gian tổ chức họp riêng hoặc tổ chức họp chung giữa các bên để đưa ra lý lẻ thật
thuyết phục các bên đi tới giải quyết tranh chấp. Như vậy, khác với thương lượng việc
tiến hành hịa giải khơng phải do các bên tự mình giải quyết mà nó được tiến hành thực
hiện thơng qua vai trị của người thứ ba.
Hịa giải khơng phải là quá trình phán xét đúng hay sai của các bên, do vậy hịa
giải viên khơng phải là người đứng ra xét xử. Nhiệm vụ của hòa giải viên là làm người
trung gian sử dụng những kỷ năng của mình giúp các bên tìm được tiếng nói chung để
giải quyết tranh chấp đạt được giải pháp dung hòa. Trong quá trình hịa giải hịa giải
viên khơng có quyền đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực hiện.
Trong thương mại quốc tế, việc tiến hành hịa giải có thể được tiến hành theo hai
cách trên nguyên tắc thỏa thuận:
Thứ nhất: các bên có thể tự thỏa thuận xây dựng nên cách thức hòa giải. Trong
trường hợp này các bên có thể thỏa thuận tất cả các vấn đề liên quan đến hịa giải. Ví dụ:
bên cạnh việc thống nhất về thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải, các bên còn thỏa
thuận đưa ra nguyên tắc chọn hòa giải viên, các ngun tắc về trình tự hịa giải.
Thứ hai: Các bên có thể thỏa thuận chọn cách thức hịa giải đã được quy định
trong quy chế hòa giải của một tổ chức chuyên nghiệp về hòa giải hoặc một tổ chức
trọng tài nào đó.Trên thực tế có rất nhiều các tổ chức chun mơn làm cơng tác hịa giải
hay xét xử. Trong quy chế hoạt động của các tổ chức này thường có các quy định rất cụ
thể về cách thức tiến hành hịa giải. Ví dụ: Quy tắc hòa giải của tổ chức (International
Chamber of Commerce- ICC), quy tắc hòa giải của UNCITRAL, quy tắc hòa giải thương
mại của Hiệp hội trọng tài Mỹ (American Arbitration Association-AAA)…) Việc chọn


SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 13


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

quy chế hịa giải này giúp các bên tiết kiệm được thời gian cho việc soạn thảo cách thức
tiến hành hòa giải.6
Những ưu điểm và nhược điểm của hình thức “hịa giải” cũng giống như hình
thức “thương lượng”. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất có hiệu quả được giới
kinh doanh ưa chuộng, giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại ở các quốc gia.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào cụ thể điều chỉnh vấn
đề này. Chính vì thiếu những cơ sở pháp lý của hình thức này nên trung gian hòa giải
trong giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế vẫn cịn phụ thuộc nhiều vào thiện
chí của các bên tham gia tranh chấp, nhằm mềm hóa các xung đột với mong muốn tiếp
tục duy trì quan hệ hợp tác, làm ăn lâu dài và uy tín, kinh nghiệm kỷ năng của người
đứng ra làm trung gian hòa giải phải là người thật sự am hiểu, có kiến thức sâu rộng, kĩ
năng giao tiếp trong lĩnh vực mà mình đứng ra hịa giải. Có như vậy thì q trình hòa
giải mới thật sự mang lại hiệu quả.
1.2.2.3. Trọng tài:
Tranh chấp trong thương mại quốc tế không chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc
gia mà còn liên quan đến nhiều quốc gia. Do vậy trong trường hợp các bên có sự bất
đồng với nhau trong kinh doanh mà những tranh chấp này khơng thỏa thuận được thì
việc giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế có thể sẽ do tòa án thương mại hoặc
trọng tài thương mại giải quyết. Mà trong đó các bên thường lựa chọn cơ chế trọng tài
thương mại để giải quyết những tranh chấp quốc tế bởi nó có tính ưu việt mà những cơ

chế giải quyết tranh chấp khác khơng có được.
Trọng tài thương mại là có chế giải quyết tranh chấp mà trong đó các bên tranh
chấp thỏa thuận để lập ra, hoặc chỉ định ra một bên thứ ba và giao cho bên thứ ba đó
quyền được phán xét tranh chấp của họ, phán xét này buộc các bên tranh chấp phải thực
hiện.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết
thơng qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập, nhằm
chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh
chấp phải thực hiện.
Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến được áp dụng rộng rãi bởi
những nguyên nhân sau:
Điểm nổi bậc đầu tiên của cơ chế giải quyết bằng trọng tài trong thương mại quốc
tế đó là sự nhanh chóng. Đối với các nhà kinh doanh “thời gian là vàng” do vậy việc xét
xử tranh chấp tiến hành càng nhanh càng tốt. Nếu so sánh thời gian xét xử trọng tài và
6

Tập bài giảng Luật Thương Mại quốc tế- Trường Đại học Cần Thơ- Khoa Luât 2002 (trang 75)

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 14


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

thời gian xét xử tại tịa án, thì xét xử tại trọng tài sẽ nhanh chóng hơn. Trong trường hợp
xét xử tại tịa án, các bên có thể chủ động kéo dài thời gian xét xử tranh chấp bằng cách
thực hiện quyền kháng cáo theo luật định. Nhưng trong trường hợp xét xử tại trọng tài

thì các bên khơng thể làm được điều đó bởi quyết định của trọng tài là chung thẩm có giá
trị ràng buộc các bên không thể kháng cáo, kháng nghị.
Ưu điểm thứ hai mà cũng là ưu điểm đặc trưng nhất của phương thức trọng tài mà
giới kinh doanh rất ưa chuộng đó là tính bí mật. Trong xét xử tại tịa án ngun tắc cơng
khai phải được bảo đảm (trừ những trường hợp pháp luật yêu cầu xét xử kín). Điều này
đơi khi bất lợi cho các bên tranh chấp bởi vì thực tế nếu sự thật vụ việc được nhiều người
biết đến sẽ ảnh hưởng đến uy tín của các bên tranh chấp trong cơng việc kinh doanh sau
này của ho. Ngược lại trong xét xử trọng tài, vụ việc xét xử sẽ được giữ kín. Điều này
hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của các bên tranh chấp.
Ưu điểm thứ ba là tính thỏa đáng và hợp lý. Khác với các vị thẩm phán, trọng tài
viên không chỉ là người hiểu biết pháp luật một cách tường tận mà họ cịn là các chun
gia giỏi có nhiều kinh nghiệm thực tế trong từng lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến
tranh chấp. Ví dụ các lĩnh vực chuyên ngành rất phức tạp như: Hàng hải quốc tế, tài
chính quốc tế, bảo hiểm quốc tế… mà lĩnh vực này khơng phải bất cứ vị thẩm phán nào
cũng có thể hiểu biết một cách thấu đáo. Do vậy thông thường một phán quyết của trọng
tài thường chính xác hơn, cho nên nó thỏa đáng và hợp lý hơn so với phán quyết của Tòa
án.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp hai
yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và khơng
thể có những phán quyết thốt ly những yếu tố đã thỏa thuận. Do vậy vì bất kì lý do gì
nếu một tổ chức trọng tài đưa ra một phán quyết nào đó mà khơng dựa trên cơ sở thỏa
thuận giữa các bên thì đó hồn tồn khơng phải là một phán quyết trọng tài theo đúng
nghĩa của nó và rất có thể sẽ bị tun bố vơ hiệu.
Tùy thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế xã hội, tập quán pháp luật của mỗi quốc
gia mà quy mô và mơ hình tổ chức trọng tài trên thế giới cũng khá đa dạng với những tên
gọi không giống nhau nhưng tựu trung lại trọng tài được tồn tại dưới hai hình thức là
trọng tài vụ việc (trọng tài Ad-hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế).
a. Trọng tài theo vụ việc (trọng tài Ad-hoc):
Trọng tài Ad-hoc là loại trọng tài do các bên thỏa thuận lập ra để giải quyết tranh
chấp của mình, sau khi tranh chấp được giải quyết thì trọng tài này được giải tán.

Đặc điểm cơ bản của trọng tài ad-hoc không chỉ ở chổ là khơng có trụ sở và
khơng hình thành bộ máy ổn định mà cịn khơng thống nhất lệ thuộc một cách ổn định

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 15


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

vào bất kỳ một quy tắc xét xử nào. Về nguyên tắc các bên tham gia không bị ràng buộc
bởi các quy định pháp lý về tố tụng, chừng nào nguyên tắc khách quan được bảo đảm.7
Trọng tài theo vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản khá linh hoạt và mềm dẻo về
phương thức hoạt động. Nói chung nó phù hợp với những tranh chấp ít tình tiếc phức
tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và các bên tranh chấp có kiến thức và hiểu biết
về pháp luật cũng như có kinh nghiệm tranh tụng. Tuy vậy trên thực tế các vụ việc được
giải quyết thơng qua hình thức trọng tài này không nhiều.
b. Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế):
Trọng tài thường trực là loại trọng tài được lập ra để thường xuyên xét xử các
tranh chấp trong thương mại quốc tế. Trọng tài loại này tồn tại và hoạt động dựa trên
quy chế riêng của nó, nếu trọng tài ad-hoc là loại trọng tài khơng có trụ sở, khơng có hội
đồng trọng tài tồn tại một cách thường xuyên thì ngược lại trọng tài thường trực là một tổ
chức xét xử có trụ sở và hội đồng thường trực làm công tác xét xử một cách thường
xuyên.
Trọng tài thương mại quốc tế là trọng tài xét xử các tranh chấp trong thương mại
quốc tế, theo Đ1-K3 Luật mẫu của trọng tài thương mại quốc tế do UNCITRAL (Ủy ban
luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc) thông qua ngày 21/06/1985, thì một tổ
chức trọng tài mang tính chất quốc tế khi nó thể hiện một trong ba dấu hiệu sau:

Thứ nhất: Các bên tham gia thỏa thuận trọng tài là các bên có trụ sở ở các quốc
gia khác nhau vào thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài.
Thứ hai: Một trong những địa điểm sau đây nằm ngồi lảnh thổ mà ở đó các bên
có trụ sở:
+ Nơi tiến hành tố tụng trọng tài, nếu nơi này quy định trong thỏa thuận trọng tài
hoặc được xác định căn cứ vào thỏa thuận đó.
+ Mọi địa điểm mà ở đó một phần chủ yếu của các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ
thương mại được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có mối quan hệ chặt chẽ
nhất.
Thứ ba: Các bên đã thỏa thuận dứt khoát với nhau là nội dung của thỏa thuận
trọng tài có liên quan đến hơn một nước.
Ngồi ra trong trường hợp nếu một bên đương sự có hơn một trụ sở thì trụ sở có
liên quan chặt chẽ với thỏa thuận trọng tài sẽ phải được xem xét. Trong trường hợp nếu
một bên đương sự khơng có trụ sở thì nơi thường trú của họ sẽ được xem như là một dấu
hiệu để xác định tính quốc tế của trọng tài.
Đặc điểm của trọng tài thường trực là quy chế tố tụng chặt chẽ. Bởi vì mỗi tổ
chức trọng tài thường trực đều có điều lệ riêng nên có điều kiện thay đổi, sửa đổi, bổ
7

Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam- NXB Đại học quốc gia 1997 (trang 472)

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 16


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp


sung, hồn thiện để ngày càng thích ứng với những điều kiện và địi hỏi của thực tiễn.
Hơn nữa, để tăng cường khả năng cạnh tranh, ngồi việc hạ thấp biểu phí, các tổ chức
trọng tài trên thế giới đều cố gắng cải thiện để rút ngắn thời gian tố tụng và dựa vào danh
sách trọng tài viên những người có uy tín, hiểu biết rộng và giàu kinh nghiệm trong lĩnh
vực giải quyết tranh chấp. Đây chính là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức trọng tài, làm cho hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài ngày càng chiếm ưu thế hấp dẫn giới kinh doanh nhiều hơn.8
Tại phần lớn các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài thương mại là hình thức
được xác lập trong điều khoản hợp đồng được đơi bên ký kết, theo đó thỏa thuận giải
quyết các tranh chấp của họ bằng trọng tài và thống nhất chọn lựa trọng tài hoặc thống
nhất về thủ tục lựa chọn trọng tài, địa điểm thực hiện trọng tài và các thủ tục cần tuân
thủ. Nếu các bên trong hợp đồng chỉ thỏa thuận hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài nhưng không ghi nhận các vấn đề khác như: Thủ tục, địa điểm, trọng tài
viên…thì khi đó pháp luật về trọng tài sẽ quy định sự lựa chọn này.
Thỏa thuận trọng tài mang tính hình thức và tồn tại độc lập với hợp đồng đã đăng
ký khi phát sinh tranh chấp. Một hợp đồng vơ hiệu tồn bộ khơng làm điều khoản trọng
tài trong hợp đồng đó vơ hiệu.
1.2.2.4. Tòa án:
Khi áp dụng phương thức thương lượng, hòa giải để giải quyết tranh chấp nhưng
không đạt hiệu quả và các bên tranh chấp không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết tại trọng tài thì việc giải quyết sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên trong
thương mại quốc tế việc xác định thẩm quyền của tòa án cũng khá phức tạp, bởi lẻ một
tranh chấp trong thương mại quốc tế có thể liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Do
vậy có thể xác định dựa vào sự thỏa thuận lựa chọn của các bên. Trong q trình xác lập
hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, bên cạnh đưa ra các điều khoản để thực hiện
việc mua bán hàng hóa, các bên cịn thỏa thuận liên quan đến việc xét xử tranh chấp.
Nếu các bên muốn đưa tranh chấp của mình tới một tịa án thương mại nào đó thì các
bên phải ghi rõ trong hợp đồng, trong trường hợp các bên chỉ thỏa thuận chọn tịa án của
một nước nào đó để giải quyết tranh chấp thì tịa án có thẩm quyền xét xử tranh chấp là
tòa án theo quy định của pháp luật nước có tịa án.

Ngồi ra nếu các bên có thỏa thuận cụ thể một tòa án nhất định sẽ xét xử tranh
chấp thì tịa án được các bên thỏa thuận chọn sẽ có thẩm quyền xét xử.
Bên cạnh đó việc xác định thẩm quyền của tòa án thương mại quốc tế khơng thể
khơng nói tới Điều ước quốc tế có liên quan. Điều ước quốc tế là một trong những nguồn
luật cơ bản quan trọng nhất trong thương mại quốc tế. Trong Điều ước quốc tế về thương
8

Giáo trình luật kinh tế Việt Nam- NXB Đại hoc quốc gia 1997 (trang 473)

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 17


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

mại có quy định nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề xác định thẩm quyền xét xử của tòa án
đối với các tranh chấp thương mại. Trong trường hợp Điều ước quốc tế có quy định việc
tranh chấp phải được giải quyết bằng Tịa án thì phải tn theo Điều ước quốc tế đó.
Ngồi ra trong trường hợp xác lập hợp đồng mua bán ngoại thương, các bên đã
không thỏa thuận về việc xác định cơ quan xét xử tranh chấp, đồng thời khơng có điều
ước quốc tế nào liên quan tới các bên điều chỉnh vấn đề này, thì bên bị vi phạm có thể
lựa chọn tịa án để đưa đơn xét xử tranh chấp. Tuy nhiên trên thực tế trường hợp này rất
ít xảy ra bởi vì tính khả thi của nó khơng cao. Cụ thể là: Nếu ngun đơn (người bị vi
phạm) chọn tòa án của nước nguyên đơn để xét xử tranh chấp, thì khả năng gọi bị đơn ra
tòa để xét xử và đặc biệt là khả năng thi hành án sau này gặp rất nhiều khó khăn. Nếu
nguyên đơn chọn tòa án của nước bị đơn để xét xử tranh chấp thì việc tịa án của nước bị
đơn có thụ lý đơn kiện hay khơng là vấn đề hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của nguyên

đơn.
Như vậy, ta thấy rằng nếu việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang tính tơn
trọng quyền thỏa thuận và ý chí của các bên để đưa ra phán quyết thì thủ tục giải quyết
tranh chấp bằng tòa án trong thương mại quốc tế cũng có thể do các bên lựa chọn giải
quyết nhưng mang tính quyền lực Nhà nước, có nghĩa là trong quá trình xét xử các tranh
chấp trong thương mại quốc tế, tịa án phải ln ln tn thủ pháp luật của nước mình
về trình tự, thủ tục tố tụng. Do vậy việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức này có trình
tự, thủ tục chặt chẽ, hiệu lực phán quyết của tịa án được tơn trọng, góp phần nâng cao ý
thức và tôn trọng pháp luật của ở các quốc gia của các chủ thể kinh doanh.
Tuy nhiên theo khái niệm của một số nước cho thấy giải quyết tranh chấp bằng
tịa án cũng có những bất lợi: Nếu tranh chấp kinh tế giữa các quốc gia với nhau thì tính
trung lập của tịa án khơng tuyệt đối nếu tòa án xét xử là tòa án quốc gia của một trong
các bên; Bản án xét xử xong chưa có giá trị chung thẩm mà các bên có quyền kháng cáo,
khiếu nại nên thời gian kéo dài, trình tự thủ tục rườm rà; thơng thường Tịa án xét xử
cơng khai nên làm giảm sút uy tín của các bên trên thương trường, lộ bí mật kinh doanh.
Điều này cũng làm cho các bên tranh chấp e ngại khi lựa chọn phương thức này. Ngoài
ra trong một số trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã tuyên ở một số quốc gia chỉ
được công nhận nhưng không được thi hành thì cũng khơng có giá trị ràng buộc các bên
tranh chấp. Về nguyên tắc việc công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án chỉ
được thực hiện nếu đơi bên có ký kết Điều ước quốc tế có liên quan và trên nguyên tắc
có đi có lại. Do vậy suy cho cùng tính khả thi của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa
án mang lại cũng khơng cao.
Nhìn chung, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh mang những
đặc điểm riêng với những ưu điểm vượt bậc nhưng đồng thời cũng có những hạn chế
nhất định. Sự đa dạng về các hình thức giải quyết tranh chấp cho thấy sự phát triển
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 18



GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

phong phú của các quan hệ kinh tế, các hình thức kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế
thị trường, hội nhập kinh tế thế giới của các quốc gia.

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 19


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

Chương 2:
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TRONG
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1. Khái quát chung về trọng tài trong thương mại quốc tế:
2.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế:
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các mối quan hệ kinh tế quốc tế
trong đó có sự tham gia của các tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau vào quan hệ
thương mại quốc tế. Từ đó dẫn đến việc yêu cầu cần có các điều kiện bảo đảm để giải
quyết khách quan và hiệu quả các tranh chấp, xung đột giữa các bên tham gia trong quan
hệ pháp luật dân sự quốc tế nói chung và lĩnh vực thương mại quốc tế (mua bán hàng
hóa) nói riêng. Để đảm bảo giải quyết các vấn đề xung đột trong các mối quan hệ dân sự
một cách khách quan, đúng đắn và cơng bằng, ngồi việc áp dụng các bản án của tòa án,
cần áp dụng các phán quyết của trọng tài trong một số trường hợp mà pháp luật quy định
và cho phép.

Vấn đề giải quyết tranh chấp theo trình tự trọng tài là quan trọng và cần thiết để
đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của thực tiễn, đó là việc hồn thiện về mặt pháp lý các
hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Trong thực tiễn pháp lý hiện nay, nhóm các quan
hệ chịu sự điều chỉnh của trọng tài ngày càng tăng.
Ở các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển, hệ thống pháp luật AnhMỹ và hệ thống pháp luật của các nước Châu Âu- Lục Địa xu hướng chung từ 1970 đến
nay là dành cho các bên đương sự quyền lựa chọn hình thức trọng tài, đưa các vụ tranh
chấp ra xét xử tại các tổ chức trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập, đi đôi với việc
thu hẹp thẩm quyền xét xử các tranh chấp kinh tế, nhất là tranh chấp quốc tế của các tòa
án trong nước thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp nhà nước .
Như vậy ta thấy rằng trọng tài thương mại quốc tế được thành lập để giải quyết
các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngồi (giải quyết các hoạt động kinh tế quốc
tế, kể cả khi một trong các bên là một quốc gia hay một doanh nghiệp nhà nước). Đồng
thời nó cịn được thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các quốc gia trên cơ sở điều ước
quốc tế mà các bên đã kí kết hoặc gia nhập. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản so với
trọng tài thương mại quốc tế được thành lập trên cơ sở pháp luật của quốc gia mình ( nơi
trọng tài có trụ sở chính- đối với trọng tài thường trực, nơi trọng tài giải quyết tranh
chấp- đối với trọng tài vụ việc). Tuy nhiên yếu tố nước ngoài ở đây thường được hiểu
khi có một trong ba trường hợp sau:
Thứ nhất: Một trong các bên có quốc tịch hoặc nơi cư trú ở nước ngoài;
Thứ hai: Khách thể là tài sản ở nước ngoài;

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 20


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp


Thứ ba: Sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt mối quan hệ xảy ra ở nước
ngồi.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa một cách khái quát về trọng tài
thương mại quốc tế như sau: “Trọng tài thương mại quốc tế là trọng tài được thành lập
để giải quyết các tranh chấp có ít nhất một trong hai tiêu chí sau đây: Sự khác nhau về
quốc tịch và tính chất quốc tế của giao dịch”9
Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài thương mại quốc tế không chỉ giải quyết các
tranh chấp giữa các bên có quốc tịch khác nhau mà còn cả các tranh chấp khi quốc tịch
của các bên giống nhau nếu việc thực hiện hợp đồng ở nước khác với nước mà họ có
quốc tịch. Như vậy sự khác nhau về quốc tịch của các bên không phải là yếu tố quan
trọng quyết định sự hình thành trọng tài thương mại quốc tế mà yếu tố quốc tế được hiểu
là nơi kinh doanh của một trong các bên, nơi đặt trọng tài, nơi có hành vi thương mại chủ
yếu liên quan thỏa thuận. Đồng thời đặc điểm cơ bản của trọng tài thương mại quốc tế
của các tổ chức quốc tế là không chịu sự quản lý của bất kỳ quốc gia nào kể cả quốc gia
nơi mà nó có trụ sở. Ví dụ: trung tâm trọng tài quốc tế ICC (International Chamber of
Commerce), trung tâm trọng tài quốc tế khu vực KuaLaLamPur (Regional Centre
International Commercial Arbitration in Kuala Lampur)...
2.1.2. Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế:
Trên thực tế hình thức trọng tài rất đa dạng, nếu căn cứ về mặt tổ chức thì có thể
chia trọng tài thành hai loại: Trọng tài quy chế và trọng tài ad-hoc.
2.1.2.1. Trọng tài quy chế ( hay còn gọi là trọng tài thường trực):
Trọng tài thường trực là thể loại trọng tài có tổ chức hoạt động một cách thường
xuyên trên cơ sở điều lệ và quy tắc tố tụng riêng của mình. Phần lớn các tổ chức trọng
tài này được thành lập bên cạnh phòng thương mại của các nước. Phương thức hoạt động
của trọng tài thường trực là tiến hành xét xử theo quy tắc tố tụng của họ đối với những
tranh chấp thuộc thẩm quyền xét xử của tổ chức này.
Các trung tâm trọng tài thương mại quốc tế có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, khơng nằm trong hệ
thống cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ mang sắc thái riêng trong
pháp luật trọng tài ở một số nước Châu Á như: Trung Quốc, Thái lan. Nhưng nhìn chung

các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được thành lập bởi Nhà
nước. Và hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà khơng được
cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước, phán quyết của trọng tài viên duy nhất
9

Tập bài giảng Luật thương mại quốc tế- Trường Đại học Cần thơ- Khoa luât 2002.

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 21


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

hoặc Hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh người thứ
ba độc lập ra quyết định.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng trung tâm trọng tài vẫn ln đặc dưới sự quản lý
và hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước quản lý trong việc cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi
giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài. Nhà nước hỗ trợ
đối với hoạt động: Hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, hỗ thợ trong việc xem xét lại
quyết định của hội đồng trọng tài, hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời; hỗ trợ trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài; cưỡng chế thi hành
quyết định trọng tài…
Thứ hai: Các trung tâm trọng tài là tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Do vậy
nó có tư cách pháp nhân và tồn tại độc lập với các trung tâm trọng tài khác.
Thứ ba: Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ
cấu tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung

tâm trọng tài. Ban điều hành của trung tâm trọng tài gồm có chủ tịch, một hoặc các phó
chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư kí trung tâm trọng tài do Chủ tịch trung
tâm trọng tài cử. Bên cạnh ban điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài viên
trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các thành viên tham gia vào việc
giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc được chỉ định.
Thứ tư: Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc
tố tụng riêng.
Là một tổ chức phi chính phủ, các trung tâm trọng tài tồn tại độc lập vừa hợp tác,
vừa cạnh tranh với nhau. Bên cạnh chất lượng các trọng tài viên, sự đơn giản và linh hoạt
của quy tắc tố tụng cũng là yếu tố tạo ra sự hấp dẫn của mỗi trung tâm trọng tài đối với
khách hàng. Bởi vậy mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố
tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm trọng
tài trên cơ sở không trái pháp luật quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hiện nay bản quy tắc trọng tài UNCITRAL do Ủy ban về luật Thương mại quốc
tế của Liên Hợp Quốc (thông qua năm 1976) hay bản quy tắc trọng tài của phịng thương
mại quốc tế (ICC) có hiệu lực từ năm 1988 và một số công ước quốc tế có liên quan
cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín (London,
Brussell…) thường được coi là cơ sở, khn mẫu cho việc xây dựng quy tắc tố tụng của
các trung tâm trọng tài.
Thứ năm: Hoạt động xét xử của trọng tài thường trực được tiến hành bởi trọng tài
viên của trung tâm.
Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên của trung tâm,
việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy
nhất để giải quyết vụ tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 22


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH


Luận văn tốt nghiệp

trung tâm trọng tài. Vì vậy hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành
bởi các trọng tài viên của chính trung tâm. Đặc điểm này có sự khác biệt so với giải
quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài Ad-hoc.
Nét đặc trưng của trọng tài thường trực có hình thức tổ chức, trụ sở ổn định, có
danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Có thể nói phần lớn các tổ chức
trọng tài lớn có uy tín trên thế giới điều được thành lập theo mơ hình này. Mỗi tổ chức
trọng tài quy chế đều đưa ra một bản quy tắc tố tụng hướng dẫn trình tự tiến hành tố
tụng. Các tổ chức trọng tài này được gọi dưới các tên như Tòa án trọng tài (ví dụ: tịa án
trọng tài quốc tế của phòng thương mại quốc tế ICC). Đây là tổ chức trọng tài quốc tế
hàng đầu thế giới, được thành lập năm 1923 và có trụ sở chính ở Pari. Hàng năm, tố tụng
trọng tài ICC diễn ra ở 35 quốc gia khác nhau, tịa án ICC khơng thực sự là một tòa án.
Các trọng tài viên được các bên chỉ định giải quyết tranh chấp được chuyển cho trọng tài
ICC, vai trò của hơn 80 thành viên của tòa án trọng tài ICC đến từ 70 quốc gia khác nhau
là giám sát tố tụng trọng tài. Đặc trưng quan trọng và duy nhất của tòa án trọng tài ICC
là được quyền xem xét kỹ lưỡng và chấp thuận phán quyết trọng tài do các trọng tài viên
soạn thảo. Cơ chế kiểm soát chất lượng này là một nhân tố quan trọng của hệ thống trọng
tài ICC. Ban thư ký của ICC gồm 40 nhân viên thường trực trong đó có 25 luật sư được
chia thành nhóm giám sát các vụ kiện. Chỉ riêng trong năm 2000 ICC giải quyết khoảng
550 vụ liên quan tới các bên đến từ 100 quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó tịa án trọng tài
thường trực còn được phổ biến ở nhiều quốc gia khác như: Tòa án trọng tài quốc tế
London (London Count of International Arbitration- LCIA) đây là tổ chức trọng tài
thường trực lâu đời nhất, chức năng cơ bản của LCIA là chỉ định ủy ban trọng tài, quyết
định khước từ trọng tài viên và kiểm sốt chi phí. LCIA khơng xem xét kỹ phán quyết
trọng tài, tính đến cuối năm 1999 mỗi năm LCIA giải quyết khoảng 70 vụ.
Tòa án trọng tài thương mại quốc tế bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp
Liên Bang Nga (International Commercial Arbiration Court at the Russian Federation
Chamber of Commerche and Industry- ICAC) đóng trụ sở tại Matxcova, là một tổ chức

trọng tài thường trực nổi tiếng có nhiều năm kinh nghiệm. Năm 1998 ICAC giải quyết
415 vụ liên quan tới các bên từ 59 quốc gia, mơ hình tịa án trọng tài cịn phổ biến ở
nhiều nước trong đó có tịa án tư pháp và trọng tài thường trực OHADA (The OHADA
Permanent of Justice and Arbitration). Vào năm 1993, 16 nước Trung và Tây phi đã phê
chuẩn hiệp ước OHADA quy định một khung pháp lý thống nhất cho luật kinh doanh ở
khu vực một trong số các tổ chức của hiệp ước là tòa án tư pháp và trọng tài thường trực
ở Abidjan, bờ biển Ngà. Năm 1998 đạo luật OHADA và quy tắc tố tụng trọng tài của tịa
án thường trực có hiệu lực trong thẩm quyền hành chính của mình, tịa án giám sát tố
tụng trọng tài tranh chấp do các bên chuyển tới, tòa án cũng xem xét kỷ bản thảo phán
quyết trọng tài. Mặc dù các hoạt động trọng tài của tòa chỉ bắt đầu từ năm 2001, người ta
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 23


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

hy vọng tịa sẽ giữ vai trò hàng đầu trong lĩnh vực và giám sát giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài tại Trung và Tây Phi. Bên cạnh đó, trọng tài thường trực cịn tồn tại dưới hình
thức trọng tài hay hiệp hội trọng tài. Ví dụ: Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế khu
vực Cairo(Cairo Regional Centre for International Commericial Arbitration- CRCICA),
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ AAA…. Ngoài các trọng tài ở các quốc gia cịn có các tổ chức
trọng tài khu vực như trung tâm trọng tài khu vực được thành lập vào năm 1978 dưới sự
bảo trợ của ủy ban tư vấn pháp luật Á-Phi, cùng với sự giúp đỡ của chính phủ Malaysia
trung tâm trọng tài khu vực Kuala lumpur (Kuala Lumpur Regional for ArbitrationKLRCA) tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp thương
mại trong khu vực. Trung tâm áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài của UNCITRAL năm
1976 với sự sửa đổi nhất định, đạo luật trọng tài của Malaysia khơng cho phép các Tịa
án Malaysia giám sát trọng tài quốc tế được tiến hành theo quy tắc của trung tâm. Trung

tâm cung cấp phòng xét xử, phòng cho trọng tài viên nghỉ ngơi, thư viện, giúp đở các
nghiệp vụ thư ký và cung cấp dịch vụ ăn uống. Năm 2000 trung tâm giải quyết khoảng
35 vụ đây là một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động nhằm tạo ra một cơ chế giải quyết
tranh chấp vì lợi ích của các bên tham gia thương mại, đầu tư vào khu vực và trong khu
vực.
Tại một số quốc gia, tổ chức trọng tài thương mại quốc tế được tổ chức dưới hình
thức một tổ chức nằm bên cạnh phịng thương mại. Ví dụ: Viện trọng tài thương mại
Stockholm Thụy Điển (Arbitration Institute of the Stockholm Chamber of CommerceSCC), Ủy ban trọng tài thương mại Thái Lan…bản quy tắc tố tụng của Viện trọng tài
thương mại Stoc-khôm (Viện SCC) quy định ủy ban trọng tài gồm ba trọng tài viên trong
đó mỗi bên chỉ định một trọng tài viên, còn một trọng tài viên do cơ quan trọng tài chỉ
định. Viện trọng tài này được thành lập năm 1917 và là một thực thể độc lập trong phịng
thương mại Stoc-khơm. Vào những năm 1970, viện này được Mỹ và Liên Xô công nhận
như một trung tâm trung lập giải quyết tranh chấp thương mại Đơng –Tây. Từ đó trở đi,
viện SCC mở rộng các dịch vụ và giải quyết tranh chấp giữa các bên đến từ 40 quốc gia
khác nhau. Trong năm 1999 viện SCC đã giải quyết được 135 vụ.
Ngoài ra trọng tài quy chế cũng có thể được tổ chức dưới dạng công ty, hiệp hội
như cơ quan trọng tài quy chế Singapo, trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Australia,
tổ chức trọng tài của phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (International
Center for Dispute Resolution of the American Arbitration Association- AAA) là một tổ
chức trọng tài khá nổi tiếng được thành lập năm1926. Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ cung
cấp rất nhiều các dịch vụ kể cả giáo dục và đào tạo. Riêng tại Mỹ năm 1999, AAA giải
quyết hơn 140000 tranh chấp thơng qua các quy tắc cụ thể hóa cho tranh chấp trong từng
lĩnh vực cụ thể như lao động, bảo hiểm, xây dựng, thương mại, chứng khoán…Năm
1966, AAA thành lập trung tâm giải quyết tranh chấp quốc tế ở New York. Trung tâm
SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 24


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH


Luận văn tốt nghiệp

này hiện nay giám sát tất cả các vụ kiện quốc tế được chuyển đến AAA. Quy tắc tố tụng
trọng tàiquốc tế AAA sửa đổi năm 2000 điều chỉnh tố tụng trọng tài của các tranh chấp
được chuyển đến AAA. Năm 1999 trung tâm giải quyết hơn 450 vụ.
Về cơ cấu tổ chức, mỗi tổ chức trọng tài quy chế gồm 1 bộ phận thường trực hoặc
ban thư ký làm nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ hành chính và giám sát việc áp dụng quy
tắc tố tụng. Các trọng tài viên tham gia các tổ chức này là các luật sư, các chuyên gia
giỏi giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tư pháp, thương mại, bảo hiểm, tài chính, đầu
tư…trọng tài thường trực có quy chế tổ chức và hoạt động định sẵn, các bên tranh chấp
khơng có quyền tham gia xây dựng sửa đổi.
Việc xét xử của trọng tài được tiến hành trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên. Do
vậy, địa điểm tiến hành tố tụng có thể là nước bị đơn, nước nguyên đơn hoặc một nước
thứ ba nào đó. Trên thực tế việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng còn phụ thuộc vào
tương quan lực lượng giữa các bên trong các hợp đồng thương mại quốc tế, trong trường
hợp các bên khơng thỏa thuận được thì có thể áp dụng một quy tắc có tính tập quán là
việc xét xử được tiến hành tại tổ chức trọng tài nơi bị đơn. Bản quy tắc tố tụng của Hiệp
hội trọng tài Hoa kỳ quy định thư kí của ủy ban có quyền chỉ định địa điểm tố tụng trong
vòng 60 ngày kể từ ngày thành lập ủy ban trọng tài, nếu các bên không thỏa thuận được
địa điểm này hoặc tổ chức trọng tài sẽ lấy trụ sở chính của nó làm địa điểm xét xử cho vụ
tranh chấp đó. Nói chung về quy tắc tố tụng (trình tự, thủ tục, giải quyết tranh chấp)
trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng của mình. Đối với một số tổ chức trọng tài
thường trực, khi các bên lựa chọn tổ chức trọng tài này thì các bên chọn quy tắc tố tụng
của tổ chức đó, đối với một số tổ chức khác các bên có thể chọn quy tắc tố tụng của
trọng tài thường trực khác.
Ngày nay giới kinh doanh thường lựa chọn hình thức trọng tài quy chế để giải
quyết tranh chấp bởi lẻ nó có những đặc trưng mà hình thức giải quyết tranh chấp khác
khơng có được. Tuy nhiên với mỗi cách thức giải quyết đều có những ưu, nhược điểm
khác nhau nên vẫn có một số tranh chấp vẫn được các thương gia lựa chọn trọng tài Adhoc để giải quyết vụ việc.

2.1.2.2. Giải quyết tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài do các bên thành lập
(trọng tài Ad-hoc):
“Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi
giải quyết xong vụ tranh chấp”10. Điều này có nghĩa là trọng tài không được tiến hành
theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực, bởi các bên không bắt buộc phải tiến
10

Nguyễn Trung Tín- Cơng nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam- NXB Tư pháp
Hà Nội 2005

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 25


GVHD: DƯ NGỌC BÍCH

Luận văn tốt nghiệp

hành tố tụng theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực, họ có thể tự do quy định
quy tắc tố tụng riêng. Nói cách khác trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành.
Đây cũng là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng rãi ở nhiều
nước trên thế giới. Pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều ghi nhận sự tồn
tại của hình thức thức trọng tài này. Tuy nhiên quy định của pháp luật ở các nước về
hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu rộng khác nhau nhưng chúng đều có chung
những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và chấm
dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp:
Tính chất “lâm thời” của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ trọng tài chỉ được

thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ thể giữa
các bên, nó chỉ tồn tại và hoạt động trong khoảng thời gian xảy ra tranh chấp và chấm
dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Thứ hai: Trọng tài ad-hoc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều
hành và khơng có danh sách trọng tài viên riêng:
Trọng tài được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên trong hoặc
ngồi danh sách trọng tài viên hoặc bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba: Trọng tài vụ việc khơng có quy tắc trọng tài dành riêng cho mình được
các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên để tránh lãng phí thời gian các bên tranh chấp có
thể thỏa thuận lựa chọn bất kì một quy tăc tố tụng phổ biến nào hoặc một quy tắc tố tụng
của một trung tâm trọng tài khác.
Với những đặc trưng trên ta thấy rằng trọng tài vụ việc cũng có những ưu điểm mà hình
thức trọng tài thường trực khơng đáp ứng được như:
- Nó có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và ít tốn kém bởi xét cho
cùng trọng tài vụ việc vẫn chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp;
- Các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên có tên trong danh sách hoặc
ngồi danh sách trọng tài viên sẵn có mà khơng bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên
của trung tâm trọng tài. Mà có quyền lựa chọn bất kỳ trọng tài viên nào của bất kỳ trung
tâm trọng tài nào có tên trong hoặc ngồi danh sách.
- Các bên có quyền tự do lựa chọn quy tắc tố tụng của bất kỳ trung tâm trọng tài
nào mà các bên chấp nhận. Trong khi đó hình thức trọng tài thường trực các bên chủ yếu
chịu ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của chính trung tâm trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Tuy nhiên do khơng có trước một quy tắc tố tụng trọng tài riêng nên có những
trường hợp việc thỏa thuận giữa các trọng tài viên để xây dựng những quy tắc trọng tài
cũng có những phiền hà nhất định. Để khắc phục nhược điểm này Ủy ban pháp luật
thương mại của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) đã thông qua một bản quy tắc trọng tài,

SVTH: BÙI THỊ NGỌC HÂN

trang: 26



×