TIỂU LUẬN
Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, thực trạng tại
địa phương và giải pháp khắc phục
I. KHÁI NIỆM
Luật hơn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con,
giữa những thành viên thân thuộc khác trong gia đình.
Kết hơn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật Hơn nhân và gia đình về điều kiện kết hơn và đăng ký kết hôn”
(khoản 5, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Chế định kết hơn trong Luật HN&GĐ là hệ thống các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh việc xác lập quan hệ vợ chồng, bao gồm
các quy phạm pháp luật về điều kiện kết hơn, đăng ký kết hơn, hình thức xử lý
đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về kết hơn.
II. SỰ CẦN THIẾT CĨ CHẾ ĐỊNH KẾT HƠN TRONG LUẬT
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Kết hơn là quyền tự nhiên của con người được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Với ý nghĩa đó pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều
chú trọng bảo đảm quyền tự do kết hôn của cá nhân. Trong bối cảnh hiện nay,
việc bảo đảm thực thi pháp luật về quyền con người ngày càng được cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm, nhất là các quyền mang giá trị hết sức nhân văn như
quyền kết hôn. Đảm bảo quyền tự do kết hôn của mỗi cá nhân khơng chỉ là bảo
đảm lợi ích cho người kết hơn mà còn đảm bảo để thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Bởi lẽ, kết hôn là nền tảng quan trọng để tạo dựng gia đình mà gia đình ln
được xác định là “tế bào” của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Gia đình
giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng văn hóa và phát triển mọi
mặt của đất nước. Điều này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa
trong nhiều văn bản pháp luật khác, đặc biệt là trong Luật hơn nhân và gia đình
(Luật HN&GĐ). Chế định kết hôn điều chỉnh việc xác lập quan hệ vợ chồng,
quan hệ nền tảng của gia đình. Vì vậy, chế định kết hôn không chỉ đảm bảo
quyền tự do kết hôn của cá nhân mà cịn có vai trị quan trọng đối với việc xây
dựng gia đình hịa thuận, hạnh phúc tạo tiền để tốt để xây dựng một xã hội văn
minh, phồn thịnh.
Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 được quy định
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định về kết hơn trong các văn bản pháp
luật HN&GĐ trước đó, đồng thời tiếp tục phát triển cho phù hợp với việc điều
chỉnh quan hệ HN&GĐ trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện
pháp luật cũng đã bộc lộ khá nhiều bất cập, tác động không nhỏ đến hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật về vấn đề kết hôn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người kết hơn, của gia đình và xã hội. Việc nam nữ chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hơn ngày càng có những diễn biến phức tạp, tình trạng tảo
hơn và “hơn nhân cận huyết” ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây
nguyên đã gióng lên những hồi chng báo động cần phải ngăn chặn kịp thời.
Điều này khiến dư luận hết sức lo ngại về việc suy giảm giống nòi, ảnh hưởng
đến chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của đất nước. Đặc biệt gần đây
nhiều đám cưới của những người đồng tính được tổ chức cơng khai bất chấp sự
phản đối của gia đình đã trở thành tâm điểm chú ý của dư luận xã hội với nhiều
ý kiến trái chiều về việc thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân đồng giới.
Mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tới lối sống của một bộ phận không
nhỏ nam nữ thanh niên tạo ra những thay đổi đáng kể trong quan niệm về tình
u và hơn nhân. Vì vậy, tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng có chiều
hướng gia tăng. Việc nam nữ chung sống như vợ chồng thể hiện ở nhiều dạng
thức khác nhau đã tạo ra những hiệu ứng không tốt ảnh hưởng tới đời sống
HN&GĐ. Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn bất hợp pháp của một số tổ
chức, cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức không lành mạnh, trái
với thuần phong mỹ tục của dân tộc, xúc phạm danh dự nhân phẩm của phụ nữ
Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận
Luật HN&GĐ năm 2014 có giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề
tồn tại phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật điều chỉnh việc xác lập quan
hệ vợ chồng hay không? cần có giải pháp nào để ổn định quan hệ HN&GĐ, góp
phần thúc đẩy sự phát triển chung của tồn xã hội. Đây là những vấn đề cần
được nghiên cứu một cách cơng phu và tồn diện làm cơ sở nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật về kết hôn. Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn
đề tài: “Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình – thực trạng tại địa
phương và giải pháp khắc phục” nhằm góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về thực trạng kết hôn trong giai đoạn hiện nay
tại huyện Ba Chẽ.
III. NỘI DUNG
1. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật
Hơn nhân và gia đình
Đối tượng điều chỉnh của luật Hơn nhân và gia đình là quan hệ về nhân
thân và về tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình.
2
- Quan hệ nhân thân là những lợi ích tinh thần, là yếu tố tình cảm phát sinh
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và giữa những người thân thích ruột thịt
khác. Quan hệ nhân thân tự nó khơng mang nội dung kinh tế. Ví dụ: Tình u
thương, sự quan tâm chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau...
- Quan hệ tài sản là những lợi ích về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và con và giữa những người thân thích ruột thịt khác. Quan hệ tài
sản luôn mang nội dung kinh tế, là tiền bạc, tài sản... Đó là quan hệ cấp dưỡng
giữa cha mẹ và con, các quan hệ về sở hữu tài sản giữa vợ và chồng...
Xuất phát từ đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật Hơn nhân và gia đình là quan hệ giữa các chủ thể gắn bó với nhau bởi
yếu tố tình cảm, huyết thống hoặc nuôi con nuôi nên luật Hôn nhân và gia đình
có phương pháp điều chỉnh linh hoạt và mềm dẻo. Hầu hết các quy phạm pháp
luật hôn nhân và gia đình khơng quy định biện pháp chế tài kèm theo.
2. Nguồn của ngành luật Hôn nhân và gia đình
Nguồn của ngành Luật Hơn nhân và gia đình bao gồm:
- Hiến pháp;
- Bộ luật Dân sự;
- Luật Hôn nhân và gia đình;
- Các luật và bộ luật có liên quan;
- Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật và bộ luật liên quan...
Trong đó Luật Hơn nhân và gia đình là nguồn cơ bản nhất. Luật Hơn nhân
và gia đình được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày 19/6/2014; có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2015.
3. Một số chế định cơ bản của kết hơn trong ngành luật Hơn nhân và
gia đình Việt Nam
3.1. Điều kiện kết hôn: Khoản 1, Điều 8 quy định : Nam, nữ kết hôn với
nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
3.1.1. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên
Quy định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước về thể lực, trí lực, khả
năng xây dựng gia đình bền vững của những người kết hôn và bảo đảm sức khỏe
cho con cái. Pháp luật nước ta không quy định giới hạn tuổi kết hôn.
3.1.2.Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định
3
Quy định này là một trong những điều kiện kết hôn quan trọng. Sự tự
nguyện của hai bên nam nữ khi kết hơn là điều kiện để hơn nhân có giá trị pháp
lý. Sự tự nguyện ở đây thể hiện mong muốn của hai bên nam nữ xây dựng cuộc
sống vợ chồng trăm năm, nó đảm bảo cho hơn nhân được bền vững lâu dài. Tự
nguyện hoàn toàn trong việc kết hơn là hai bên nam nữ có quyền tự mình quyết
định việc kết hơn của mình, tỏ rõ sự ưng thuận lấy nhau và trở thành vợ chồng.
3.1.3. Không bị mất năng lực hành vi dân sự
Những người kết hơn phải có năng lực hành vi dân sự, tức là phải có khả
năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự;
3.1.4. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, bao gồm:
- Kết hơn giả tạo.
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hơn.
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dịng máu
về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với
con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng.
3.2. Đăng ký kết hôn
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì khơng có giá trị pháp
lý. Vợ chồng đã ly hơn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết
hôn.
3.3. Hủy hôn nhân trái pháp luật
* Nguyên tắc chung: Hôn nhân vi phạm một hoặc một số điều kiện kết hơn
theo quy định thì khơng có giá trị pháp lý, hay cịn gọi là hơn nhân vơ hiệu.
* Biện pháp xử lý: Tịa án nhân dân có quyền hủy hơn nhân trái pháp luật.
* Căn cứ xử lý hôn nhân trái pháp luật:
- Chưa đủ tuổi kêt hôn theo quy định mà kết hôn.
4
- Những người kết hơn khơng có năng lực hành vi dân sự.
- Một trong hai người đang có vợ hoặc chồng lại kết hôn với người khác.
- Những người có quan hệ thân gần luật cấm mà kết hơn với nhau.
- Kết hơn giả tạo
Ngồi ra, hơn nhân vi phạm pháp luật cịn bị xử lý về mặt hình sự theo Điều
146, 147, 148, 149 - Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2009).
3.4. Quan hệ giữa vợ và chồng
* Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng:
- Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các cơng việc trong gia đình (Điều
18).
- Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, cơng tác, học tập, tham gia
hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác (Điều 19).
- Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị
ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính (Điều 20).
- Vợ, chồng có nghĩa vụ tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm,
uy tín cho nhau (Điều 21).
- Vợ, chồng có nghĩa vụ tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của
nhau (Điều 22).
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề
nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn, nghiệp vụ; tham gia
hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 23).
5
* Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng
- Quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng: Vợ chồng có quyền lựa chọn áp
dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.
+ Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận
thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có
cơng chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được
xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
+ Trong trường hợp áp dụng chế độ tài sản theo luật định:
Điều 34 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác
mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở
hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Điều 35 quy định: Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ
chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn
bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
. Bất động sản.
. Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu.
. Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Điều 43 quy định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hơn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của Luật Hơn
nhân và gia đình (Điều 38, 39 và 40); tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ,
chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản
riêng của vợ, chồng.
Điều 44 quy định: vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng
đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự
đồng ý của chồng, vợ.
* Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ, chồng:
6
Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về
thừa kế (khoản 2 Điều 66 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014)
* Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ, chồng:
- Theo Điều 107: nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa vợ và chồng
theo quy định của Luật.
- Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh kể từ khi kết hôn và có thể tồn tại
ngay trong trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn. Theo Điều 115: “Khi ly hôn nếu
bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên
kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” (nếu người được cấp
dưỡng kết hơn với người khác thì khơng được cấp dưỡng nữa).
3.5. Quan hệ giữa cha mẹ và con
* Việc xác định cha, mẹ cho con và việc nuôi con nuôi
- Sự kiện sinh đẻ và nhận nuôi con nuôi là sự kiện pháp lý xác lập quan hệ
pháp luật giữa cha mẹ và con.
+ Theo Điều 88: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có
thai trong thời kỳ hơn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong
thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người
vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. Nếu cha, mẹ khơng thừa
nhận con thì phải có chứng cứ và phải được tịa án xác định.
+ Việc xác định cha, mẹ, con được thực hiện tại cơ quan hộ tịch có thẩm
quyền xác định cha, mẹ con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường
hợp khơng có tranh chấp. Tịa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là
cha, mẹ, con đã chết và trường hợp người có yêu cầu chết (Điều 101, khoản 2).
+ Việc nhận con nuôi làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con với điều kiện quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
* Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con
Nghĩa vụ và và quyền của cha, mẹ:
Điều 69 quy định: cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền sau:
+ Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo
dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con
hiếu thảo của gia đình, cơng dân có ích cho xã hội.
7
+ Trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng
có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
+ Giám hợ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
+ Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng
hơn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động;
khơng được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Quyền và nghĩa vụ của con:
Điều 70 quy định quyền và nghĩa vụ của con:
+ Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp
pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo
dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
+ Có bổn phận u q, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha
mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
+ Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình thì có qùn
sớng chung với cha mẹ, được cha mẹ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia cơng việc gia đình phù hợp với lứa t̉i và
khơng trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
+ Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học
tập, nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi
sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia cơng việc gia đình, lao đợng,
sản x́t, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu
nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.
+ Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với cơng sức đóng góp vào tài
sản của gia đình.
4. Một số đổi mới quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi
năm 2014 so với Luật hơn nhân và gia đình năm 2000
Kế thừa và phát huy thành tựu của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 và
năm 1986 của nhà nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã góp
phần đề cao vai trị của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hóa đạo đức tốt đẹp của gia định Việt Nam, qua đó có những
8
đóng góp đáng kể vào việc phát triển nguồn nhân lực, ổn định và phát triển kinh
tế – xã hội của từng địa phương nói riêng và đất nước nói chung.
Thông qua những quy định cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã
góp phần xây dựng, hồn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ,
ấm no hạnh phúc ở Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân,
đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình, tạo
ra hành lang pháp lý góp phần thiết lập và bảo đảm sự an toàn cho các quan hệ
tài sản phát sinh trong nội bộ các thành viên gia đình cũng như các giao dịch
giữa các thành viên gia đình với các chủ thể khác trong xã hội; ghi nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi. Tuy nhiên sau 13 năm đi vào cuộc sống, trong bối cảnh đất nước
bước sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, các quan hệ hơn nhân và gia đình đã có những
thay đổi đáng kể cần có sự điều chỉnh phù hợp hơn của pháp luật. Trong bối
cảnh như vậy, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã bộc lộ một số điểm bất
cập, hạn chế. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật này là yêu cầu cấp thiết nhằm
đáp ứng đòi hỏi của thực tế các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình.
Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các địa phương và bộ
ngành có liên quan và thơng qua q trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan soạn
thảo, ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII Luật Hơn nhân và gia
đình sửa đổi chính thức được thơng qua, với 79,52% số phiếu tán thành, Luật
Hơn nhân và gia đình sửa đổi có hiệu lực từ 01/01/2015, với 10 chương, 133
điều quan hệ hơn nhân gia đình sẽ có những quy định pháp lý điều chỉnh về chế
độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành
viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc
xây dựng, củng cố chế độ hơn nhân và gia đình. Cụ thể, Luật quy định những
vấn đề như: Kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm dứt hôn nhân; quan hệ
giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình; cấp dưỡng;
quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi…
4.1. Áp dụng tập qn trong hơn nhân và gia đình
Luật Hơn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 quy định cụ thể việc áp dụng
tập qn trong hơn nhân gia đình so với Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000,
theo đó, Điều 7 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các
bên khơng có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc,
không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của
Luật này được áp dụng”. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với nhiều tập quán tốt
đẹp, đa dạng, phong phú, nội dung quy định tại Điều 7 thể hiện việc tôn trọng
9
những tập quán tốt đẹp, đồng thời cũng làm rõ điều kiện để tập quán được áp
dụng, nhấn mạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và
gia đình, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Chính phủ sẽ có Nghị định
nhằm đảm bảo tính khả thi của quy định này
Pháp luật hiện hành chỉ quy định “vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập
qn lạc hậu về hơn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán
tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hơn nhân và gia đình
tiến bộ”. Việc quy định chung chung tạo nhiều kẽ hở, bất cập, gây khó khăn cho
tòa án khi xét xử các vụ án về hơn nhân gia đình, mà phải áp dụng các phong tục
tập quán.
4.2. Nâng độ tuổi kết hôn
Nâng độ tuổi kết hơn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18
như quy định tại Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật mới quy định
tuổi kết hơn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi
trở lên. Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa
bước qua tuổi 18 thì quy định này là khơng thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ
luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật Dân sự năm 2005 người chưa đủ 18 tuổi
là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý… Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004, thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi
tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không
hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các
giao dịch như quyền u cầu ly hơn thì phải có người đại diện.
4.3. Khơng cấm kết hơn đồng giới
Về hơn nhân đồng giới, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm
kết hơn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt. Luật Hơn nhân
và gia đình sửa đổi năm 2014 bỏ quy định “cấm kết hơn giữa những người cùng
giới tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Như vậy, những người đồng giới tính vẫn có
thể kết hơn, tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.
Đây là sự nhìn nhận hơn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta
trong tình hình xã hội hiện nay.
4.4. Cho phép mang thai hộ
Như vậy, Luật Hơn nhân và gia đình đã chính thức thừa nhận và cho phép
mang thai hộ với mục đích nhân đạo (cụ thể từ Điều 93 đến Điều 98), song phải
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
Theo đó, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó khơng thể tự sinh con có quyền nhờ
10
người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của tổ chức y
tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi
áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang khơng có con chung; đã được
tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc “người
mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để ngăn ngừa tình trạng thương
mại hóa việc mang thai hộ”. Theo đó, người được nhờ mang thai hộ phải có đủ 5
điều kiện: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang
thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp
và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn
bản của người chồng và đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Ngồi ra, Luật Hơn nhân và gia đình sửa đổi cũng có các điều khoản để giải
quyết những rắc rối phát sinh. Đáng chú ý là việc sinh con do mang thai hộ
khơng tính vào số con (của người mang thai hộ) theo chính sách dân số kế hoạch
hóa gia đình. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên
mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ
có quyền u cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên
nhờ mang thai hộ chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của bên nhờ mang thai hộ…
4.5. Công việc nội trợ được coi như lao động có thu nhập
Điểm mới đáng lưu ý trong luật sửa đổi lần này là những quy định về giải
quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.
Điểm khác biệt so Luật Hơn nhân và gia đình hiện hành là luật mới đã quy định
rõ công việc nội trợ và các cơng việc khác có liên quan để duy trì đời sống
chung được xem như lao động có thu nhập.
4.6. Tài sản của vợ chồng
Khi kết hôn: Quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật
Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ
chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Luật
hiện hành chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, cịn các tài sản khác như chứng
khốn, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong
q trình giải quyết tranh chấp. Luật Hơn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014
quy định cụ thể: Việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có cơng chứng
hoặc chứng thực trước khi kết hơn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau
khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của
các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.
11
Được thỏa thuận về tài sản khi ly hôn: Cụ thể, về tài sản chung của vợ
chồng, theo luật thì đó là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất – kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
những thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung và những tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng
có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ, chồng
được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng
tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được
dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ
chồng. Luật cũng quy định rõ, trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh
tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản
đó được coi là tài sản chung.
Bên cạnh đó, Luật mới cũng quy định cụ thể cách giải quyết về con, tài sản,
nghĩa vụ và hợp đồng các bên khi nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn là căn cứ vào thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp khơng
có thỏa thuận, thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định
khác của pháp luật có liên quan. Khơng tính thời gian chung sống như vợ chồng
trước khi đăng ký kết hôn vào thời kỳ hôn nhân.
4.7. Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn
Luật Hôn nhân và gia đình mới cũng bổ sung thêm các đối tượng được u
cầu giải quyết ly hơn. Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới
có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hơn như trước đây thì từ ngày 1-1-2015,
cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể u cầu giải quyết ly hôn khi một
bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia
đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của họ. Chồng khơng có quyền ly hơn khi vợ đang có thai, sinh con
hoặc ni con dưới 12 tháng.
4.8. Nghĩa vụ đối với con khi ly hôn
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi
bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp khơng thỏa thuận được thì Tịa án
quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên (Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 là
từ đủ 9 tuổi trở lên), thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Quy định “về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp ni,
nếu các bên khơng có thoả thuận khác” được sửa thành “con dưới 36 tháng tuổi
12
được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để
trực tiếp trông nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa
thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Ngồi ra, Luật mới cũng có một số điểm mới như: Bổ sung nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; quy định về con do người vợ
mang thai trong thời kỳ hôn nhân cũng được luật hóa. Con được sinh ra trong
thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người
vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân. Nếu cha, mẹ khơng thừa nhận con thì phải
có chứng cứ và phải được tòa án xác định…
IV. THỰC TRẠNG KẾT HƠN TẠI HUYỆN……………, TỈNH
…………………
1. Thực trạng kết hơn tại huyện AB
- ………….là huyện miền núi, gồm 10 dân tộc anh em (Dao, Tày, Kinh,
Hoa, Sán Dìu, Sán Chỉ, Nùng, Cao Lan, Mường, Thái) cùng sinh sống tại 74
thôn, khu phố. Dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn với trên 80,3%, Tổng diện tích
tự nhiên là 60.651,25 ha (chiếm 10% diện tích tồn tỉnh ………..). Từ năm 2003
đến năm 2021 tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên trong đồng bào dân tộc đã giảm, tuy
nhiên việc gia tăng lựa chọn giới tính Nam trở nên phổ biến dẫn tới tỉ lệ sinh
cao, việc các hộ gia đình đồng bào dân tộc sinh con là nữ từ 4 – 5 con cịn nhiều
và cho con ni cũng tăng trong vịng 5 năm trở lại đây.
- Kết hơn cận huyết thống tại huyện AB khơng cịn, cơng tác truyền thông,
thay đổi nhận thức cho người dân, quan tâm hơn nữa đến cơng tác bình đẳng
giới và khơng sinh con thứ 3 của các cơ quan chức năng được đẩy mạnh. Nhiều
Đề án của Trung tâm DSKHHGĐ huyện AB được xây dựng; lễ phát động chiến
dịch giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, hưởng ứng ngày Quốc tế trẻ em
gái (11/10) với chủ đề: “Không phân biệt giới, khơng lự chọn giới tính thai nhi”
của Ban chi đạo công tác DSKHHGĐ huyện AB được tổ chức ngày 10/10 hàng
năm nhằm hướng tới mục tiêu quyền con người để xóa bỏ bất bình đẳng giới,
đảm bảo nhân phẩm và các quyền con người của mỗi cá nhân, phụ nữ, trẻ em.
Vận động người trong độ tuổi sinh đẻ sinh 2 con, kiên quyết khơng lựa chọn giới
tính khi sinh; nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, thay đổi nhận thức của
mỗi người dân, quan tâm hơn nữa đến cơng tác bình đẳng giới.
Những năm qua, tỉnh ln quan tâm đến Cơng tác dân số kế hoạch hóa gia
đình, đặc biệt đối với những địa phương miền núi, còn gặp nhiều khó khăn như
huyện Ba Chẽ. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn cao, đồng bào dân tộc
thiểu số vẫn cịn có nạn tảo hơn, không đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới rồi đủ
tuổi mới đăng ký kết hơn, phải có con trai để nối dõi…; Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở
13
lên năm 2020 còn cao, là 11,4% các hộ gia đình nghèo, cận nghèo có tỷ lệ sinh
cao nhất dẫn tới nhiều hệ lụy và các hoạt động trợ cấp của xã hội…
2. Giải pháp khắc phục
- Tiếp tục nâng cao nhận thức của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số
(DTTS) trong thực hiện các quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình,
cuối tháng 2/2021, UBND tỉnh CD ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án "Giảm
thiểu tình trạng tảo hơn và hơn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số
tỉnh CDgiai đoạn 2021- 2025”.
- Phát huy vai trị người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
(đặc biệt là người dân tộc Dao trắng, Dao đen).
(Tuyên truyền chính sách dân số đến người có uy tín tại Ba Chẽ)
- Tập trung tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho bà con, nhất là pháp luật
về hơn nhân và gia đình; đồng thời vận động các hộ phát triển kinh tế, tạo việc
làm cho người lao động. Huyện, xã, thôn luôn chủ động liên hệ với các nhà máy,
xí nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn để giới thiệu việc làm cho bà con.
Cùng với đó, thơn vận động bà con vay vốn phát triển kinh tế gia đình.
14
Cán bộ xã, thôn, bản huyện Ba Chẽ, tỉnh CDtham gia tập huấn tun truyền về phịng, chống tảo hơn, năm 2020.
- Chú trọng vận động các gia đình cho con em đi học, khơng bỏ học giữa
chừng. Nhờ đó 100% trẻ trong độ tuổi ở thôn đều theo học tiểu học, THCS...
Chính trong mơi trường học tập, lao động sản xuất, được tiếp xúc, giao lưu
nhiều nên nhận thức của bà con vùng DTTS ở thôn cũng chuyển biến rõ nét.
Các ngành, địa phương chú trọng công tác tuyên truyền về phịng, chống
tảo hơn. Để tác động mạnh đến bà con, đội ngũ người có uy tín vùng đồng bào
DTTS được huy động triệt để. Bằng uy tín, sự từng trải và thực tiễn địa phương,
trên cơ sở cùng ngôn ngữ và phong tục tập quán với đồng bào DTTS, họ đã chủ
động trong công tác tuyên truyền, giáo dục từ con cháu trong gia đình, dịng họ
đến đồng bào ở thôn, bản, khu phố về việc hôn nhân đúng độ tuổi.
Cán bộ huyện tuyên truyền pháp luật đến các hộ dân.
15
- Chủ động biên soạn, in ấn, cấp phát tờ gấp, sách tuyên truyền; tổ chức
hội nghị tập huấn kỹ năng vận động, tuyên truyền về Luật Hôn nhân và gia đình
đối với cán bộ xã, thơn, về hệ lụy của tảo hôn, vùng đồng bào DTTS. tổ chức
các diễn đàn “Học sinh DTTS nói khơng với tảo hơn và hôn nhân cận huyết
thống” tại các trường học trên địa bàn huyện
- Các địa phương, các cơ quan, ban ngành cũng lồng ghép nội dung tuyên
truyền về phòng, chống tảo hôn trong các cuộc họp của xã, của thôn, bản, khu
phố; tuyên truyền trong các trường học trên địa bàn, hay lồng ghép trong các
buổi tuyên truyền về sức khỏe sinh sản; hay tại các buổi tiêm chủng mở rộng ở
trạm y tế xã; tổ chức các mơ hình can thiệp, câu lạc bộ tiền hôn nhân, câu lạc bộ
không sinh con thứ 3 ….
V. KẾT LUẬN
Kết hôn là một quyền tự nhiên của con người được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ. Pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều coi trọng
việc điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề kết hôn nhằm hướng tới mục đích bảo vệ
lợi ích của người kết hơn cũng như lợi ích của gia đình và xã hội. Với ý nghĩa
đó, điều chỉnh pháp luật về kết hơn mang lại những giá trị tích cực đối với đời
sống HN&GĐ. Việc xác lập những quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ trên cơ
sở tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn là nền tảng vững
chắc để xây dựng gia đình Việt Nam phồn thịnh, góp phần thúc đẩy việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, trong
sự vận động và phát triển của đời sống HN&GĐ, các quy định của pháp luật về
kết hôn cần phải được khơng ngừng hồn thiện để đáp ứng được yêu cầu điều
chỉnh pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể. Trên cơ sở cơ sở lý luận và thực tiễn
của chế định kết hơn có thể rút ra những kết luận sau:
1. Kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa vợ và chồng. Sự
kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa vợ chồng là một sự kiện “phức hợp”
bao gồm nhiều hành vi pháp lý. Trong đó phải có sự thừa nhận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Vì vậy, pháp luật HN&GĐ hiện hành chỉ thừa nhận một
nghi thức kết hôn duy nhất có giá trị pháp lý, đó là nghi thức đăng ký kết hơn tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nhà nước
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kết hôn.
2. Là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành để điều chỉnh việc xác lập quan hệ vợ chồng, chế định kết hơn
có ý nghĩa xã hội sâu sắc, tạo tiền đề để xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc,
góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, nâng cao trách nhiệm của
cá nhân đối với gia đình và xã hội. Chế định kết hơn đảm bảo giữ gìn và phát
16
huy những nét bản sắc văn hóa truyền thống trong gia đình Việt Nam, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa, văn hóa nhân loại.
3. Kết hơn là một chế định trung tâm của Luật HN&GĐ, được xây dựng
trên các nguyên tắc thể hiện tính đặc thù của pháp luật điều chỉnh việc xác lập
quan hệ vợ chồng đó là nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; nguyên tắc
hôn nhân một vợ một chồng; ngun tắc bình đẳng khơng phân biệt đối xử;
nguyên tắc tôn trọng phong tục, tập quán tốt đẹp. Với ý nghĩa đó, chế định kết
hơn có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do kết hôn của mỗi cá
nhân, đảm bảo sự công bằng và văn minh trong việc xác lập quan hệ hơn nhân,
nâng cao trật tự, kỷ cương và an tồn xã hội.
4. Chế định kết hôn chịu sự tác động lớn từ mọi mặt của đời sống xã hội.
Vì thế, pháp luật điều chỉnh việc kết hôn qua mỗi thời kỳ lịch sử đều có những
điểm khác biệt nhất định. Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam về kết hơn,
có thể thấy đạo đức, phong tục tập qn có ảnh hưởng lớn đến pháp luật điều
chỉnh việc kết hôn. Tuy nhiên, nhà làm luật Việt Nam cả trong quá khứ cũng
như hiện tại đều tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lập pháp tiến bộ để làm
giàu nền khoa học pháp lý nước nhà. Đây cũng là những kinh nghiệm quý báu
để chúng ta có những định hướng đúng đắn trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về kết hôn.
5. Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện một bước
phát triển mới trong pháp luật điều chỉnh việc kết hôn, tiếp tục thể hiện quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc đề cao vai trị của gia đình đối với đời
sống xã hội, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Chế định kết
hôn đã được quy định cụ thể và toàn diện hơn khắc phục được những bất cập,
vướng nhất định của Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên, để chế định kết hơn
tiếp tục hồn thiện, đáp ứng được việc điều chỉnh việc kết hôn trong giai đoạn
hiện nay cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ mà trọng tâm là phải xây
dựng các văn bản hướng dẫn thi hành, áp dụng pháp luật đồng thời tổ chức tốt
việc thực hiện pháp luật. Bên cạnh đó cần phải chú trọng việc hoàn thiện các
quy định pháp luật có liên quan, tiếp tục cải cách thể chế để đưa pháp luật
HN&GĐ vào cuộc sống.
**************************
17