Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty cổ phần may 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.66 KB, 90 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CỘNG HOÀ XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
o0o
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
- Khoa thương mại
Tên tôi là: Bùi Tá Hiểu
Lớp : Thương mại quốc tế
Khoá : 47
Hệ : Chính quy
Mã SV : CQ460996
Trong thời gian thực tập theo quy định của Nhà trường, tôi được thực tập
tại Phòng xuất nhập khẩu, công ty cổ phần May 10 (Sài Đồng – Long Biên – Hà
Nội). Tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may
mặc tại công ty Cổ phần May 10” cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Tôi xin cam đoan bài báo cáo này hoàn toàn do tôi tìm hiểu, nghiên cứu
và viết trong quá trình thực tập tại công ty, không sao chép chuyên đề, luận văn
của các khoá trước. Nếu vi phạm tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Người viết
Bùi Tá Hiểu
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
1
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Dệt may là một ngành công nghiệp có đóng góp đáng kể vào tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, là một trong những mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu cao nhưng phần lớn các
sản phẩm dệt may đều được sản xuất dưới hình thức gia công. Tuy gia công
không phải là hoạt động chủ lực mà Việt Nam hướng tới trong bước phát triển
ngành dệt may nhưng hiện nay, gia công hàng may mặc xuất khẩu đang đóng


vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của ngành. Công ty cổ
phần May 10 là một trong những công ty được thành lập đầu tiên trong ngành
dệt may, chuyên sản xuất và kinh doanh hàng may mặc trên thị trường nội địa
và thị trường quốc tế. Trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước chưa phát triển, các
doanh nghiệp may mặc Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế,
cũng như rất nhiều các doanh nghiệp dệt may khác, công ty cổ phần May 10
cũng tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế bằng hình thức gia công sản phẩm
cho các đối tác nước ngoài.
Sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần May 10, tôi đã chọn đề tài
“Mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty Cổ phần
May 10” làm báo cáo thực tập tốt nghiệp.
Mục đích của đề tài nghiên cứu là tìm hiểu hoạt động gia công và công
tác mở rộng thị trường gia công hàng may mặc xuất khẩu tại công ty nhằm đưa
ra một số giải pháp khả thi cho hoạt động gia công tại công ty cổ phần May 10.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả gia công hàng xuất khẩu may mặc tại công ty cổ phần May
10
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những lí luận cơ bản của gia công hàng
may mặc xuất khẩu và công tác mở rộng thị trường, những nhân tố ảnh hưởng
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
2
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
tới hoạt động gia công hàng may mặc xuất khẩu và thực trạng hoạt động này tại
công ty cổ phần May 10.
Báo cáo gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề về mở rộng thị trường gia công xuất khẩu và vài nét
về hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng thị trường gia công xuất khẩu và công tác mở rộng thị
trường gia công xuất khẩu của công ty CP May 10
Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng

may mặc tại công ty CP May 10.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
3
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG GIA
CÔNG XUẤT KHẨU VÀ VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG XUẤT
KHẨU Ở VIỆT NAM
1. Một số vấn đề về mở rộng thị trường gia công xuất khẩu
1.1 Thị trường và mở rộng thị trường
1.1.1 Khái niệm thị trường
Thị trường là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa, được biểu hiện bằng
các hoạt động mua bán, trao đổi, diễn ra trong một phạm vi không gian và thời
gian nhất định. Như vậy theo nghĩa rộng, thị trường chính là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, nơi gặp gỡ của cung và cầu. Nội dung,
bản chất của thị trường là hoạt động trao đổi thông qua các hoạt động trao đổi
lợi ích mà người mua và người bán thỏa mãn nhu cầu của mình
Các tổ chức kinh doanh không chỉ bán mà họ còn mua khối lượng lớn các
nguyên liệu, các bộ phận thành phẩm, dịch vụ lắp đặt, thiết bị phụ trợ, vật tư,…
Các tổ chức mua hàng hoá và dịch vụ là để thoả mãn nhiều mục đích khác nhau:
Kiếm lời, giảm bớt chi phí, đáp ứng những nhu cầu của công nhân viên và thoả
mãn những nghĩa vụ pháp lý. Như vậy “thị trường các doanh nghiệp bao gồm
tất cả các cá nhân và tổ chức mua hàng hoá và dịch vụ để sử dụng vào việc sản
xuất ra các sản phẩm khác hay những dịch vụ khác để bán, cho thuê hay cung
ứng cho những người khác để kiếm lời.”
1.1.2 Chức năng của thị trường
Thị trường là môi trường chủ yếu cho các hoạt động kinh doanh, gắn liền
với các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, do đó nó thực hiện các chức năng
cơ bản sau:
+ Chức năng thừa nhận và thực hiện
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của thị trường. Khi quá trình

trao đổi được diễn ra, điều đó cũng đồng nghĩa với việc thị trường thực hiện
chức năng thừa nhận và chức năng trao đổi. Thị trường thừa nhận tính hai mặt
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
4
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
của hàng hóa đem trao đổi là giá trị và giá trị sử dụng. Về giá trị, thị trường
chấp nhận về giá cả nghĩa thị trường chấp nhận chi phí sản xuất. Thừa nhận giá
trị của hàng hóa bao hàm cả sự thừa nhận của người tiêu dùng, đó là sự phù hợp
giữa chất lượng sản phẩm, giá bán và khả năng thanh toán của khách hàng. Về
mặt giá trị sử dụng, thị trường thừa nhận những lợi ích do sản phẩm mang lại,
lợi ích này được phản ánh ở thị hiếu tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, và tâm lý
tiêu dùng.
+ Chức năng điều tiết
Thông qua các quy luật kinh tế, thị trường thực hiện chức năng điều tiết
của mình. Đó là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu. Quá
trình điều tiết này diễn ra ở cả hai thái cực, điều tiết sản xuất và điều tiết tiêu
dùng. Thị trường có thể khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của một ngành
sản xuất nào đó, từ đó tạo ra sự cân đối cung – cầu về một loại hàng, thay đổi cơ
cấu sản xuất của các ngành, các vùng lãnh thổ. Thị trường còn điều tiết việc tiêu
dùng các sản phẩm xã hội, có thể làm thay đổi mặt hàng tiêu dùng, cơ cấu tiêu
dùng của dân cư. Với sự tác động của thị trường, người tiêu dùng sẽ cân nhắc,
tính toán để gia tăng lợi ích của mình, cũng như sử dụng tiết kiệm và có hiệu
quả các nguồn lực của xã hội.
+ Chức năng thông tin
Thị trường luôn phản ánh đời sống kinh tế, chính trị và xã hội trong từng
thời kỳ, thị trường là nơi chứa đựng các thông tin cho các nhà kinh doanh và
người tiêu dùng. Đối với các nhà kinh doanh, quá trình nghiên cứu thị trường
giúp họ có được những thông tin cần thiết như: Số lượng và cơ cấu cung –cầu
hàng hóa, đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng, khả năng thanh toán, tình hình cạnh
tranh…Từ đó giúp các nhà kinh doanh có chính sách Marketing cần thiết, ứng

xử hợp lý với thị trường. Đối với người tiêu dùng, thị trường sẽ cung cấp các
thông tin về hàng hóa, dịch vụ, giá cả, về các dịch vụ của nhà kinh doanh …
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
5
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là môi trường truyền tin
giữa hai chủ thể. Nhà kinh doanh, thông qua thị trường giới thiệu, quảng cáo về
sản phẩm của mình. Người tiêu dùng, thông qua thị trường phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng của họ, những đòi hỏi mà các nhà kinh doanh phải đáp ứng.
Việc thực hiện các chức năng của thị trường không tách rời nhau mà đan
xen vào nhau. Cùng một hoạt động, thị trường có thể đồng thời thực hiện nhiều
chức năng.
1.1.3 Vai trò của thị trường
Thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô, cũng
như đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế quốc dân, sự hoạt động của thị trường giúp cho quá
trình trao đổi hàng hóa được diễn ra suôn sẻ, nhờ đó mà quá trình tái sản xuất
được tiếp diễn bình thường.
Đối với các doanh nghiệp, thị trường là bộ phận chủ yếu nhất trong môi
trường kinh doanh. Thị trường là nơi hình thành và thực hiện các mối quan hệ
kinh tế giữa các doanh nghiệp với môi trường xung quanh, giữa doanh nghiệp
với cộng động dân cư cũng như hệ thống kinh tế quốc dân. Thị trường là nơi
cung cấp các yếu tố “Đầu vào” và tiêu thụ “Đầu ra” cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy nghiên cứu nắm bắt được nhu cầu thị trường, từ đó xây dựng hệ
thống các giải pháp nhằm thỏa mãn và định hướng cho sự phát triển nhu cầu thị
thị trường là nhiệm vụ quan trọng của hoạt động Marketing
1.1.4 Một số vấn đề về mở rộng thị trường
1.1.4.1 Sự cần thiết của mở rộng thị trường
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế,

do vậy sự cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước là không
thể tránh khỏi. Doanh nghiệp muốn phát triển thì phải củng cố được các thị
trường đã chiếm lĩnh được và ngày càng mở rộng những thị trường mới.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
6
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Trước hết, mở rộng thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp củng cố được vị
trí của mình trên thị trường do gia tăng được thị phần so với các doanh nghiệp
khác. Mặt khác, khi xâm nhập được vào một thị trường nào thì thương hiệu
công ty và thương hiệu sản phẩm của công ty sẽ được phổ biến rộng rãi trong
thị trường. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có những bước phát triển bền
vững hơn.
Thứ hai, khi thị trường được mở rộng sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng nhanh
được doanh số bán, từ đó gia tăng được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
Thứ ba, việc mở rộng ra các thị trường mới sẽ giúp cho doanh nghiệp
không bị phụ thuộc vào một hoặc một số ít thị trường chính, từ đó tránh được
những ảnh hưởng tiêu cực khi thị trường truyền thống có những thay đổi theo
chiều hướng xấu.
1.1.4.2 Nội dung của mở rộng thị trường
Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó cho phép đánh
giá quy mô và tiềm năng của thị trường và là cơ sở để lựa chọn thị trường và
đoạn thị trường cần xâm nhập. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng để xác lập
các chính sách marketing thích ứng với từng thị trường và môi trường của nó.
Mỗi môi trường kinh doanh có sự khác biệt và thay đổi theo thời gian, do vậy
công tác nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng khi muốn mở rộng thị
trường.
Việc nghiên cứu thị trường bao gồm những nội dung sau đây:
- Hàng hoá trên thị trường: Việc nghiên cứu hàng hoá phải được tiến hành
trên cả mặt định tính và định lượng. Về mặt định tính, phải nghiên cứu hàng hoá

trên cơ sở nghiên cứu về nhu cầu của thị trường, chu kì sống của sản phẩm, tính
chất thời vụ của tiêu dùng để rút ra được kết luận là sản phẩm đó có thể xâm
nhập vào thị trường đó được không. Về mặt định lượng, cần nghiên cứu nếu
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
7
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
hàng hoá đó xâm nhập vào thị trường đó thì có hiệu quả không thông qua các
chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí,…
- Dung lượng thị trường: Việc thâm nhập vào thị trường có hiệu quả không
phải xem xét trên sức mua của thị trường đó, tức dung lượng sản phẩm mà thị
trường cần cung cấp. Việc nghiên cứu này thực chất là nghiên cứu về lượng cầu
mà thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, sức cung của nhà cung cấp, nhà phân
phối hiện tại trên thị trường để xác định xem dung lượng thị trường lớn hay
nhỏ.
- Giá cả hàng hoá: Doanh nghiệp cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
tới giá của sản phẩm, từ đó có cơ sở để xác định giá thâm nhập thị trường.
- Nghiên cứu bạn hàng và các đối thủ cạnh tranh: về các thông tin như tư
cách pháp lý, năng lực tài chính, uy tín và mức độ ảnh hưởng trên thị trường,
quan điểm kinh doanh…
b. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Thị trường tổng thể luôn bao gồm một số lượng lớn khách hàng với những
nhu cầu, đặc tính và sức mua rất khác nhau. Sẽ không thể có một doanh nghiệp
cá biệt nào có đủ khả năng cung ứng nhu cầu và ước muốn của mọi khách hàng
tiềm năng. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp chỉ có một hoặc một vài thế mạnh xét
trên một phương diện nào đó trong việc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu và ước
muốn của thị trường. Do đó, việc lựa chọn đoạn thị trường mục tiêu là rất cần
thiết.
Sau khi đã có những thông tin cần thiết về thị trường mà doanh nghiệp
muốn thâm nhập thì bước tiếp theo doanh nghiệp cần chọn phân đoạn thị trường
nào thích hợp nhất để tiến hành thâm nhập. Thông thường, khi lựa chọn thị

trường mục tiêu, doanh nghiệp dựa vào các yếu tố sau đây:
- Quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường
Một đoạn thị trường được coi là hiệu quả nếu doanh thu từ thị trường ấy bù
đắp được những chi phí bỏ ra và có lợi nhuận không chỉ hiện tại mà cả tương lai
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
8
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
của doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định đúng đắn quy mô và sức tăng trưởng
của thị trường luôn là vấn đề đầu tiên khi lựa chọn thị trường mục tiêu. Để đánh
giá quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường, doanh nghiệp cần thu thập
và phân tích các chỉ tiêu cần thiết như doanh số bán, sự thay đổi của doanh số
bán, mức lãi và tỷ lệ thay đổi mức lãi,…
- Mức độ hấp dẫn về cơ cấu thị trường
Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì họ không phải là người
bán duy nhất và các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp không chỉ đáp ứng cho
một nhóm khách hàng. Doanh nghiệp thường xuyên phải đối phó với áp lực
cạnh tranh và những đòi hỏi của khách hàng. Do vậy, mức độ hấp dẫn về cơ cấu
thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Theo mô hình năm lực lượng
cạnh tranh của Michael Porter thì doanh nghiệp sẽ phải chịu các tác động từ đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sức ép từ các nhà cung cấp, cạnh tranh giữa các hãng
trong ngành, sức ép từ phía khách hàng và sự đe doạ của hàng thay thế. Như
vậy, để phân tích được áp lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá
ảnh hưởng của năm nhóm nhân tố đó tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Sơ đồ 1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter
- Các mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp
Một đoạn thị trường rất hấp dẫn vẫn có thể bị loại bỏ nếu chúng không ăn
khớp với các chiến lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
cứ cố gắng theo đuổi sức hấp dẫn của thị trường vượt quá khả năng và mục tiêu
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
9

Sức ép từ phía
nhà cung cấp
Đe doạ từ sự gia nhập của đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đe doạ của hàng thay thế
Sức ép từ phía
khách hàng
Cạnh tranh giữa các
hàng trong ngành
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
của họ thì nguồn lực doanh nghiệp sẽ bị phân tán, khó tập trung cho các mục
tiêu chiến lược. Vì vậy, khi lựa chọn thị trường mục tiêu, doanh nghiệp cần có
những đánh giá xác đáng về các đoạn thị trường đó, đồng thời kết hợp với khả
năng sẵn có của doanh nghiệp, trong tương quan với các đối thủ cạnh tranh để
lựa chọn cho mình một hay vài đoạn thị trường để tập trung nguồn lực của mình
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
c. Nghiên cứu và lựa chọn bạn hàng
Nghiên cứu bạn hàng là hoạt động nghiên cứu tìm hiểu về các doanh
nghiệp có thể hợp tác làm ăn với mình. Các đối tác phải đảm bảo độ tin cậy cao
thì mới có thể tiến tới hợp tác làm ăn kinh doanh. Đối tác càng có uy tín và
thiện chí thì khả năng thực hiện hợp đồng càng cao và có thể thiết lập các quan
hệ làm ăn lâu dài. Khi lựa chọn đối tác cần căn cứ vào các tiêu chí sau:
Khả năng thanh toán: Đây là tiêu chí quan trọng khi lựa chọn bạn hàng.
Đối tác có tiềm lực về tài chính và khả năng thanh toán nhanh chóng thì càng
thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm các chi phí và thu hồi vốn nhanh.
Chức năng, quyền hạn của đối tác: đối tác có quyền hạn và chức năng cao
hơn của doanh nghiệp thì khả năng đàm phán và các ưu thế sẽ nghiêng về phía
đối tác hơn. Trong kinh doanh, yếu tố giao dịch và đàm phán rất quan trọng.
Doanh nghiệp cần xác định các lợi thế của mình trong các cuộc đàm phán để
giành phần thắng lợi.

Uy tín của đối tác trên thị trường: đây là tiêu chí quan trọng để quyết định
hợp tác làm ăn. Đối tác có uy tín trên thị trường chứng tỏ họ được nhiều nhà sản
xuất tin tưởng và hợp tác. Doanh nghiệp có thể lựa chọn những đối tác đã có uy
tín và kinh nghiệm trên thị trường để thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài.
Tinh thần thiện chí: doanh nghiệp phải xem xét thái độ của đối tác có sẵn
sàng liên kết, hợp tác hay không. Vì như vậy hai bên sẽ dễ dàng trao đổi và thảo
luận các vấn đề mà cả hai cùng có lợi, giảm bớt các tranh chấp, tiết kiệm thời
gian và chi phí.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
10
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
1.1.4.3 Biện pháp mở rộng thị trường
Doanh nghiệp có thể quyết định thâm nhập một hay nhiều khúc của thị
trường cụ thể tuỳ theo chiến lược phát triển và chiếm lĩnh thị trường của doanh
nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tập trung vào một khúc duy nhất của thị
trường tức là chọn phục vụ một mức nhu cầu nào đó ứng với một nhóm người
tiêu dùng nhất định.
Thứ hai, doanh nghiệp chỉ hướng vào nhu cầu của người mua hay doanh
nghiệp chỉ tập trung vào việc thoả mãn một mức nhu cầu nào đó của khách
hàng.
Thứ ba, doanh nghiệp cũng có thể chỉ hướng vào một nhóm người tiêu
dùng cụ thể nào đó.
Thứ tư, doanh nghiệp chọn một vài khúc thị trường không liên quan đến
nhau để phục vụ.
Cuối cùng doanh nghiệp cũng có thể chọn cách chiếm lĩnh toàn bộ thị
trường
1.2 Gia công xuất khẩu
1.2.1 Khái niệm về gia công xuất khẩu
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa thì gia công quốc tế

được hiểu như sau:
Gia công xuất khẩu là phương thức hợp tác sản xuất và trao đổi hàng hoá
giữa các nước, theo đó, nước nhận gia công nhận nguyên liệu hoặc nhiên liệu và
có thể cả thiết bị, máy móc của nước gia công để sản xuất ra thành phẩm theo
những định mức, tiêu chuẩn cụ thể; và giao những thành phẩm đó cho nước gia
công với những điều kiện do hai bên thoả thuận. Tiền công được trả bằng tiền
hoặc bằng hàng. Phương thức này được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước dưới
hình thức hợp tác sản xuất, chủ yếu là giữa các nước công nghiệp phát triển với
các nước đang phát triển.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
11
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Tại Việt Nam, phương thức gia công xuất khẩu rất được coi trọng. Phương
thức này được xem là một một biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn lao động
dồi dào, có tay nghề khá và khai thác cơ sở công nghiệp đã xây dựng trong buổi
đầu thời kì công nghiệp hoá nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu nguyên liệu, vật tư
(như sản xuất sợi, dệt vải, sản xuất hàng may mặc, dệt thảm, ). Mặt khác, đó
cũng là biện pháp để tiến dần tới trình độ sản xuất hoàn chỉnh, như trong việc
lắp ráp xe hơi.
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động gia công xuất khẩu
a. Đặc điểm của hoạt động gia công
Phương thức gia công xuất khẩu rất phổ biến trong buôn bán ngoại thương
của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do có sự khác nhau về điều
kiện tự nhiên, kinh tế và quy định của pháp luật của các nước nên phương thức
này phát triển ở mỗi nước rất khác nhau nhưng nhìn chung gia công xuất khẩu
vẫn mang các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Sản xuất gắn liền với thương mại: Trong hoạt động gia công
xuất khẩu bên đặt hàng vừa là nhà cung cấp trang thiết bị cho sản xuất, trong
nhiều trường hợp còn cung cấp cả nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất và là
người mua hàng nên đặc điểm này là đặc điểm cơ bản nhất của gia công xuất

khẩu. Bên nhận gia công tiến hành sản xuất và nhận tiền công gia công. Phần
lớn các hoạt động gia công sẽ cung cấp cả nguyên vật liệu cho quá trình sản
xuất, nhưng hiện nay có những trường hợp chỉ cung cấp máy móc thiết bị còn
nguyên vật liệu do bên nhận gia công đảm nhận theo những yêu cầu của bên đặt
gia công. Điều này đã thể hiện sự phát triển ngày càng cao của hoạt động gia
công, phản ánh đúng sự vận động và phát triển của xã hội.
Thứ hai: Gia công là phương thức sản xuất hàng hoá theo đơn đặt hàng:
Bên đặt gia công sẽ đặt hàng cho bên gia công để sản xuất sản phẩm nhằm phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Văn bản để chứng tỏ tính pháp lý
của đơn đặt hàng đó là hợp đồng gia công.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
12
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Thứ ba: Nội dung của gia công bao gồm: sản xuất, chế biến, chế tác, sửa
chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt
gia công. Sau khi ký hợp đồng gia công và đi vào sản xuất, bên nhận gia công
sẽ phải tiến hành toàn bộ các công đoạn để sản xuất ra các sản phẩm hoàn chỉnh
theo đúng yêu cầu của bên đặt gia công với nguyên vật liệu do bên đặt gia công
cung cấp hoặc yêu cầu. Toàn bộ các công đoạn từ khâu đưa nguyên vật liệu vào
sản xuất đến khi sản phẩm hoàn thành và tiến hành đóng gói đều do bên gia
công đảm nhận.
Thứ tư: Khi tiến hành gia công có thể tiến hành chuyển giao công nghệ:
Khi tiến hành ký kết hợp đồng gia công, tuỳ theo trình độ khoa học công nghệ
của bên nhận gia công mà các doanh nghiệp đặt gia công có thể tiến hành
chuyển giao công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý để bên nhận gia công có
thể hoàn thành được hợp đồng. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ phải
được thực hiện trên cơ sở luật pháp của hai bên.
Thứ năm: Bên đặt gia công phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của
quyền sở hữu công nghiệp đối với hàng hoá gia công. Khi đặt gia công, các
mẫu mã mà bên đặt gia công giao cho bên nhận gia công để sản xuất hàng hóa

phải là những mẫu mã thuộc quyền sở hữu của bên đặt gia công. Các mẫu mã
này phải được bên đặt gia công đăng kí bản quyền tác giả và bên đặt gia công
phải chịu mọi trách nhiệm nếu phát hiện những mẫu mã đó là vi phạm quyền
tác giả.
Thứ sáu: Bên đặt gia công có quyền cử thanh tra để kiểm tra, giám sát việc
gia công tại nơi nhận gia công theo thỏa thuận giữa các bên nhằm tránh tình
trạng sai sót trong khi sản xuất hàng gia công. Bên nhận gia công giao sản phẩm
hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đề ra và nhận tiền công.
b. Lợi ích của hoạt động gia công xuất khẩu
- Đối với nền kinh tế quốc dân
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
13
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Hoạt động gia công có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt là đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta.
Hoạt động gia công thu hút một lượng lớn lao động phổ thông, do đó góp
phần giải quyết một lượng lớn lao động thất nghiệp cho đất nước, tăng thu nhập
cho người dân. Thông qua hoạt động gia công, nước ta tận dụng được nguồn
nhân công dồi dào với giá rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội cho đất
nước. Đây cũng là một thế mạnh của gia công xuất khẩu tại Việt Nam.
Đặc điểm của hoạt động gia công là bên đặt gia công cung cấp cho bên
nhận gia công trang thiết bị máy móc cũng như kinh nghiệm quản lý để phục vụ
hoạt động sản xuất hàng hoá và nhận tiền công. Do đó gia công góp phần thu
hút thêm vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài, đồng
thời tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Gia công chủ yếu là trong các lĩnh vực
công nghiệp nhẹ, khu vực công nghiệp cần nhiều lao động và là khu vực kinh tế
cần hiện đại hóa trước tiên nếu muốn hiện đại hóa nền kinh tế.
Do được trang bị về máy móc công nghệ nên nền sản xuất trong nước được
tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại của thế giới, từ đó nâng cao được trình độ
khoa học kỹ thuật trong nước. Ngoài ra, được tiếp xúc với các trang thiết bị

cũng như kinh nghiệm quản lý, các doanh nghiệp trong nước sẽ dần dần tiếp thu
được các tiến bộ trong sản xuất, nâng cao được chất lượng hàng hoá và rút kinh
nghiệm để tiến hành sản xuất xuất khẩu trực tiếp. Bên cạnh đó, hoạt động gia
công còn góp phần kích thích xuất khẩu trong nước.
Hiện nay, phần lớn các hợp đồng gia công đều tự cung cấp nguyên phụ liệu
để tiến hành sản xuất, do đó hoạt động này sẽ góp phần tăng vốn đầu tư kỹ thuật
và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Nhờ gia công hàng hoá xuất khẩu mà
có thể kết hợp xuất khẩu một số nguyên phụ liệu sẵn có trong nước, nhờ đó thúc
đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.
- Đối với doanh nghiệp gia công xuất khẩu
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
14
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Gia công xuất khẩu bên cạnh những lợi ích đối với nền kinh tế còn có lợi
ích không nhỏ đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động này.
Các doanh nghiệp được tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại, từ đó hiện
đại hoá các trang thiết bị sản xuất trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động
gia công còn giúp doanh nghiệp tiếp thu các kinh nghiệm quản lý tiên tiến, từ
đó nâng cao khả năng quản lý doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Gia công xuất khẩu chủ yếu là cho các nước phát triển. Họ cung cấp cho
các doanh nghiệp trong nước các mẫu hàng để sản xuất. Chính sự cung cấp đó
đã góp phần đưa các doanh nghiệp Việt Nam tiếp xúc với thị trường thế giới.
Thông qua các mẫu mã mà họ cung cấp, các doanh nghiệp của ta có thể phân
tích để từng bước định hình được phong cách tiêu dùng của thế giới, tiến tới tự
cung cấp mẫu mã và tiến hành sản xuất xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
1.2.3 Phân loại hoạt động gia công xuất khẩu
Căn cứ vào các tiêu chí, chúng ta có thể phân loại hoạt động gia công xuất
khẩu như sau:
a. Căn cứ theo quyền sở hữu nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm,

gia công xuất khẩu có các hình thức sau:
- Hình thức nhận nguyên liệu giao sản phẩm: Trong hình thức này, bên
nhận gia công sẽ tiến hành sản xuất bằng các bán thành phẩm hoặc nguyên phụ
liệu do bên đặt gia công cung cấp và sau thời gian sản xuất sẽ thu lại sản phẩm
hoàn chỉnh và trả phí gia công. Theo hình thức này thì trong thời gian gia công
quyền sở hữu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm vẫn thuộc về bên đặt gia công.
Bên nhận gia công không phải mua nguyên liệu nên được miễn các loại thuế
đầu vào như thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cho phần nguyên liệu
này. Đây là hình thức sơ khai của gia công xuất khẩu, tuy nhiên hình thức này
không mang lại hiệu quả kinh tế cao vì bên nhận gia công chỉ được nhận tiền
công. Bên cạnh đó, khi tiến hành nhận gia công theo hình thức này, bên nhận
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
15
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
gia công sẽ bị phụ thuộc về nguyên liệu sản xuất còn bên đặt gia công có rủi ro
là mất số nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm mà không nhận được hàng hoá
nếu bên nhận gia công làm sai.
- Hình thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm: Theo hình thức gia công
này, bên đặt gia công sẽ cung cấp các tài liệu kỹ thuật, các mẫu mã sản phẩm
cho bên nhận gia công sản xuất và mua lại hàng hoá sau khi đã sản xuất xong.
Các nguyên liệu trong quá trình sản xuất sẽ do bên nhận gia công đảm nhận
theo sự chỉ định của bên đặt gia công hoặc tự tìm nhà cung cấp nguyên liệu cho
sản xuất. Như vậy, trong hình thức gia công này, quyền sở hữu nguyên vật liệu
được chuyển giao từ bên nhận gia công sang bên đặt gia công. Bên nhận gia
công sẽ được hưởng số tiền là tiền công gia công và chi phí nguyên vật liệu
dành cho sản xuất. Đây là hình thức phát triển cao của gia công xuất khẩu.
Trong hình thức gia công này, bên nhận gia công có thể chủ động sản xuất theo
kế hoạch của mình, đặc biệt nếu bên nhận gia công hoàn toàn tự mua nguyên
phụ liệu thì sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế của hoạt
động gia công. Ngoài ra, bên nhận gia công còn có thể mở rộng thị trường

nguyên phụ liệu thông qua việc xây dựng mối quan hệ với các nhà cung cấp
nguyên phụ liệu do bên đặt gia công chỉ định. Tuy nhiên, phương thức này có
những bất lợi với bên nhận gia công là nếu không mua nguyên phụ liệu của nhà
cung cấp do bên đặt gia công chỉ định thì sai hợp đồng, nhưng nếu mua lại
thường hay bị ép giá. Bên đặt gia công có lợi thế là không bị mất số nguyên phụ
liệu nếu bên nhận gia công làm sai, do vậy giảm bớt rủi ro trong quá trình đặt
gia công đồng thời không phải chịu các chi phí trả trước cho số nguyên phụ
liệu.
Đây là hai phương thức chủ yếu của các doanh nghiệp khi tiến hành gia
công xuất khẩu cho doanh nghiệp nước ngoài.
b. Căn cứ theo giá cả gia công
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
16
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
- Hợp đồng thực chi, thực thanh: Là hình thức gia công mà trong đó bên
nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí trong quá
trình gia công bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu, sửa chữa máy móc, trang
thiết bị mà bên nhận gia công đã bỏ ra trong quá trình gia công cộng thêm phí
gia công.
- Hợp đồng khoán: Là hình thức gia công mà trong đó người ta đã xác định
một mức giá nhất định cho mỗi sản phẩm bao gồm chi phí định mức và thù lao
định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai
bên vẫn thanh toán cho nhau theo định mức đó. Mục đích của hình thức gia
công này là khuyến khích bên nhận gia công phải chú trọng vào tiết kiệm
nguyên vật liệu và chi phí nhân công. Bên nhận gia công cũng phải nắm rõ giá
định mức để tránh bù lỗ trong quá trình gia công.
c. Căn cứ theo mức độ cung cấp nguyên phụ liệu:
- Bên đặt gia công cung cấp 100% nguyên phụ liệu và bên nhận gia công
sản xuất sản phẩm theo định mức đã thỏa thuận trong hợp đồng, sau đó sẽ trả lại
thành phẩm cho bên đặt gia công hoặc sẽ giao cho bên thứ ba theo chỉ định.

- Bên nhận gia công chỉ nhận nguyên liệu chính theo định mức còn nguyên
liệu phụ thì tự khai thác theo đúng yêu cầu của khách hàng.
- Bên nhận gia công không nhận bất cứ nguyên liệu phụ nào của khách
hàng mà chỉ nhận ngoại tệ để mua nguyên liệu theo đúng yêu cầu
d. Căn cứ theo nghĩa vụ của bên nhận gia công
- CM (cutting and making): Người nhận gia công chỉ tiến hành pha cắt và
chế tạo sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công
- CMP (cutting, making and packaging): Người nhận gia công phải pha
cắt, chế tạo và đóng gói sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
- CMPQ (cutting, making, packaging and quota fee): Người nhận gia công
ngoài việc cắt may, đóng gói sản phẩm còn phải trả phí hạn ngạch theo quy định
những mặt hàng được quản lí bằng hạn ngạch.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
17
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Hiện nay công ty Cổ phần May 10 chỉ thực hiện gia công hàng may mặc
xuất khẩu thông qua hai hình thức: gia công nhận nguyên liệu, giao thành phẩm
và gia công mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Tuy nhiên, số hợp đồng gia công
nhận nguyên liệu, giao thành phẩm của công ty đã giảm đi đáng kể, thay vào đó
là hợp đồng mua nguyên liệu, bán thành phẩm bởi các hợp đồng này sẽ làm
tăng giá trị gia công mà công ty nhận được. Số hợp đồng mua nguyên liệu, bán
thành phẩm chiếm 70% – 80% trong tổng số hợp đồng gia công mà công ty
May 10 nhận được.
2 Vài nét về hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam
2.1 Tình hình chung về hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam
Từ sau khi đổi mới năm 1986, Đảng và Nhà nước đã và đang cố gắng xây
dựng nền kinh tế Việt Nam ngày càng vững chắc. Theo nhận định của các
chuyên gia kinh tế Việt Nam, đi kèm với nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu
tư gián tiếp cũng sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Theo chiều hướng phát triển
này, hoạt động gia công quốc tế của Việt Nam sẽ càng có cơ hội phát triển cả về

quy mô lẫn tốc độ, không chỉ bó hẹp ở thị trường truyền thống mà sẽ vươn ra
toàn cầu. Hiện tại có thể nói hoạt động gia công quốc tế của Việt Nam đang có
những thành tựu vượt bậc so với giai đoạn trước. Trong hoạt động gia công
quốc tế, Việt Nam tham gia chủ yếu ở vai trò bên nhận gia công. Có thể đánh
giá sự phát triển của hoạt động gia công Việt Nam qua một số chỉ tiêu sau:
2.1.1 Kim ngạch gia công xuất khẩu
Kim ngạch gia công hàng xuất khẩu không ngừng tăng lên trong các năm
qua.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng gia công Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007 2008
Xuất gia công 5.912,4 7.759,0 8.912,4 10.319,2
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
18
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Theo như bảng trên, kim ngạch gia công hàng hoá xuất khẩu của nước ta
trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2008 luôn tăng với tốc độ nhanh. Năm
2005, kim ngạch gia công xuất khẩu đạt 5.912,4 triệu USD thì sang năm 2006
đã tăng lên 7.759,0 triệu USD, tăng 31.2% so với năm 2005. Năm 2007, kim
ngạch gia công xuất khẩu tăng lên 15% so với năm 2006. Năm 2008 tăng lên
16% so với năm 2007. Như vậy có thể thấy rằng gia công xuất khẩu của Việt
Nam đang phát triển nhanh và mạnh mẽ.
2.1.2 Phương thức gia công
Trước đây, khi tham gia vào hoạt động gia công xuất khẩu, Việt Nam chỉ
đơn thuần cung cấp nhân lực gia công còn toàn bộ nguyên vật liệu dùng cho quá
trình gia công phải nhập khẩu từ phía bên đặt gia công. Nguyên nhân của việc
này là do khoa học công nghệ của nước ta quá lạc hậu so với thế giới, không thể
sản xuất ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn của khách hàng đặt ra. Nhưng hiện nay
chúng ta đã chú trọng tới việc tận dụng nguyên liệu có sẵn trong nước để chế

biến một số nguyên phụ liệu đủ tiêu chuẩn đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng nhằm tăng hiệu quả của hoạt động gia công xuất khẩu. Việc bỏ vốn đầu tư
thêm để sản xuất và sử dụng tối ưu nguồn nguyên phụ liệu trong nước là một
định hướng sáng tạo để phát huy các lợi thế sẵn có của Việt Nam, làm cho khái
niệm gia công không còn mang tính chất làm công, làm thuê nữa.
Khi sử dụng các nguyên phụ liệu cho hợp đồng gia công quốc tế được sản
xuất tại Việt Nam sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong việc:
- Tăng khả năng tiêu thụ nguyên phụ liệu do các doanh nghiệp Việt Nam
sản xuất.
- Tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong nước, tăng thu nhập cho
người lao động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Tăng thêm doanh thu cho các doanh nghiệp trong nước, nguồn thu ngân
sách nhà nước và thu nhập quốc dân.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
19
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
- Tạo thị trường cho những sản phẩm được sản xuất bởi các doanh nghiệp
Việt Nam nhưng chưa có điều kiện xuất khẩu sang nước ngoài.
2.1.3 Chủng loại hàng gia công
Từ trước tới nay, tỷ trọng cơ cấu hàng gia công chủ yếu là mặt hàng may
mặc, giầy dép, thêu ren, túi xách,… Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng các mặt
hàng gia công trong đó có các mặt hàng phức tạp đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật
cao như các sản phẩm linh kiện điện tử, máy nhắn tin. Đặc biệt, Việt Nam đang
phát triển ngành gia công phần mềm, một ngành công nghiệp cần nhiều chất
xám. Đây cũng là một bước phát triển lớn của gia công quốc tế tại Việt Nam.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có kinh nghiệm sản xuất hàng gia
công và trình độ nhân công được nâng lên nên một số hãng danh tiếng trên thế
giới đã đến Việt Nam đặt gia công như Pierr Cardin (may mặc Pháp), Reebok,
Columbia, Nike, Everon,… Các hợp đồng gia công ký với Mỹ ngày càng nhiều
đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành dệt may, giày dép, linh kiện

điện tử nói riêng và gia công quốc tế nói chung.
2.1.4 Thị trường gia công xuất khẩu của Việt Nam
Hiện nay, tỷ trọng những mặt hàng xuất khẩu thô, hàng nông sản lợi nhuận
thấp, hàng gia công trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là rất cao. Trên
60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất khẩu dạng thô, gia công, giá trị gia tăng
thấp. Trong nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu thì may mặc và giày dép tuy là
những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhưng chủ yếu là do xuất gia công.
Bên cạnh đó, hàng hóa xuất khẩu hầu hết chưa có thương hiệu trên thị trường
thế giới và tính cạnh tranh thấp. Cụ thể, 16 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỉ đô la Mỹ năm 2007 đều thuộc về các nhóm xuất thô và gia công như:
xăng dầu, may mặc, thủy sản, cà phê, gạo và một số mặt hàng khác. Như vậy,
có thể nói rằng thị trường gia công của các doanh nghiệp Việt Nam trải rất rộng,
có thể kể tới các thị trường là: Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, EU, Canada,
… và đặc biệt là Mỹ. Các thị trường như Hàn Quốc, Hồng Kông chủ yếu gia
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
20
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
công các mặt hàng như giày dép, hàng may mặc do các doanh nghiệp thuộc các
thị trường này thường nhận được những đơn hàng gia công của các doanh
nghiệp EU, Mỹ,… và về đặt gia công lại với các doanh nghiệp Việt Nam. Thị
trường EU, Mỹ, Nhật Bản thường đặt các doanh nghiệp Việt Nam gia công các
mặt hàng như giày dép, hàng may mặc,…. Có thể kể đến các tên tuổi lớn đặt gia
công tại Việt Nam như Nike, Adidas, Pierr Cardin,…
2.2 Môi trường pháp lý cho hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam
Môi trường luật pháp có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên
môi trường quốc tế.
2.2.1 Môi trường luật pháp trong nước
Hiện nay, luật pháp trong nước đang ngày càng được hoàn thiện để các
doanh nghiệp có một hành lang pháp lí lành mạnh, ổn định giúp cho các hoạt

động sản xuất kinh doanh được ổn định. Trong những năm gần đây, chính phủ
luôn coi mặt hàng dệt may là mặt hàng phát triển chiến lược của Việt Nam.
Chính vì vậy mà Việt Nam luôn có những văn bản pháp luật để hướng dẫn và
quy định về xuất khẩu, những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp dệt may. Đối
với các nguyên phụ liệu của ngành dệt may nhập khẩu từ nước ngoài hoặc mua
trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu thì không phải nộp thuế nhập khẩu và
thuế giá trị gia tăng.
Doanh nghiệp dệt may nếu đầu tư mới thì số thu nhập thu được từ đầu tư
mới đó được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo
(Luật khuyến khích đầu tư trong nước, chương 3 điều 10 khoản 1).
Hồ sơ xin visa đã được giảm bớt nhiều giấy tờ. Hồ sơ xin visa không cần
phải có ba loại chứng từ như trước đây bao gồm hợp đồng xuất khẩu, báo cáo
quy trình sản xuất, tờ khai nhập nguyên phụ liệu mà chỉ kiểm tra tờ khai nhập
khẩu nguyên phụ liệu hoặc tờ khai nhập khẩu nguyên liệu chính, đồng thời chấp
nhận các loại chứng từ vận tải khác thay cho vận đơn. Đây là một thuận lợi lớn
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
21
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may bởi các thủ tục hồ sơ đã giảm rõ rệt,
đẩy nhanh quá trình làm thủ tục, tránh những chi phí phát sinh không cần thiết.
Năm 2006, Bộ Thương mại đã ra thông báo mới: các doanh nghiệp xuất
khẩu dệt may số lượng dưới hai muơi tá không cần phải có sự phê duyệt của
liên bộ. Đây là một thông báo rất có lợi cho các doanh nghiệp gia công xuất
khẩu hàng mẫu cho bạn hàng kiểm tra vì số lượng hàng mẫu thường không lớn,
nếu xin đủ giấy phép thì sẽ mất nhiều thời gian, gây kéo dài hợp đồng và tăng
thêm chi phí sản xuất. Mặt khác, thông báo này cũng rất có lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thiếu hạn ngạch (xuất khẩu ít) sang Mỹ năm 2006 và các
doanh nghiệp không bị giới hạn số lần xuất khẩu các lô hàng với số lượng ít
như trên trong một năm.
Luật Dân sự sửa đổi năm 2005 cũng đưa ra các quy định về hợp đồng gia

công hàng hoá và các trường hợp giao chậm hàng cũng như việc chấm dứt,
thanh lý hợp đồng, tiền công gia công,… Ngày 23/01/2006 Chính phủ ban hành
Nghị đinh 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt
động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý, mua, bán, gia công và
quá cảnh hàng hoá đối với nước ngoài. Chương VI nghị định này quy định cụ
thể các vấn đề về gia công cho thương nhân nước ngoài như đối tượng nhận gia
công, các điều khoản chủ yếu của hợp đồng gia công, định mức tỷ lệ hao hụt
nguyên vật liệu, phụ liệu vật tư, vấn đề thanh khoản hợp đồng gia công,…
Chính các quy định trong nghị định này hình thành khung pháp lý cho các
doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động gia công ở Việt Nam.
Chính phủ còn ban hành thông tư quy định chi tiết như thông tư 113/TT-
BTC ngày 25/12/2005 của Bộ Tài chính quy định các yêu cầu quản lý của Nhà
nước với hàng hoá đặc thù. Thông tư 32/2007/TT-BTC ngày 09/04/2007 quy
định về đối tượng miễn thuế giá trị gia tăng.
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
22
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Nước ta đã áp dụng biện pháp cải cách hành chính theo cơ chế một cửa,
giúp các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan và thông quan hải quan nhanh
chóng.
Như vậy luật pháp Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện, tạo những điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh nói riêng và các doanh nghiệp
dệt may nói chung. Tuy vậy, các hỗ trợ từ phía chính phủ vẫn chưa thật sự đầy
đủ, khiến cho các doanh nghiệp của nước ta giảm khả năng cạnh tranh so với
các đối thủ nước ngoài. Ví dụ như Bộ Tài chính quy định chi phí dành cho
quảng cáo không quá 7% tổng chi phí, làm hạn chế khả năng mở rộng thị
trường của các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi cũng với quy định về chi phí
quảng cáo như vậy, các doanh nghiệp nước ngoài được phép dành chi phí quảng
cáo tối đa 50% tổng chi phí. Đây là một bất lợi lớn đối với các doanh nghiệp
trong nước.

2.2.2 Luật pháp nước ngoài
Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu, luật pháp nước ngoài ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào rất
nhiều các tổ chức quốc tế và khu vực, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nói chung
phải hiểu tường tận về các quy định cũng như luật pháp của nước và tổ chức mà
doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Ví dụ như khi Việt Nam tham gia vào tổ
chức ASEAN thì Việt Nam phải tuân thủ theo các điều khoản CEPT/ AFTA.
Theo điều khoản đó thì Việt Nam phải giảm thuế xuất nhập khẩu xuống từ 0 –
5% trong vòng 10 năm. Khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới WTO thì phải thực hiện hiệp định về hàng dệt may (ATC). Theo hiệp
định này thì các nước phải dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch dệt may giai đoạn cuối
cùng là 01/01/2005.
Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với những vụ
kiện chống bán phá giá và các tiêu chuẩn kỹ thuật rất khắt khe khi tham gia vào
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
23
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
các thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản Đây cũng là một thử thách rất lớn mà
các doanh nghiệp dệt may của nước ta gặp phải khi tham gia vào thị trường
nước ngoài.
2.3 Lợi ích của hoạt động gia công xuất khẩu đối với Việt Nam
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới,
điều này không chỉ mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế mà đi cùng với
nó là những thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập mà nếu không vượt
qua được thì nền kinh tế sẽ chịu sự chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài.
Hiện nay những mặt hàng chúng ta đang sản xuất được thì các nước khác đã sản
xuất được nhiều. Bên cạnh đó, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, trình
độ tay nghề thấp và tình trạng thiếu vốn trầm trọng,… là những nguyên nhân
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.

Trong bối cảnh đó, gia công xuất khẩu đã tạo cơ hội cho Việt Nam trong quá
trình phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
2.3.1 Tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng
Đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, để phát triển đất nước Việt
Nam cần rất nhiều vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc thực hiện các hợp đồng
gia công xuất khẩu không chỉ giúp chúng ta tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và
nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội mà còn có
thể kết hợp xuất khẩu được một số nguyên liệu, vật tư mà trong nước đang sản
xuất được, từ đó mở rộng ngành hàng xuất khẩu. Kim ngạch gia công xuất khẩu
của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng 30%/năm đã góp phần không nhỏ vào
nguồn thu ngoại tệ dùng để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho
sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế phát triển.
2.3.2 Thu hút lao động xã hội, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo
sự ổn định chính trị - xã hội
Lợi ích kinh tế của các nhà kinh doanh gia công quốc tế chủ yếu xuất phát
từ chênh lệch giữa giá gia công giữa các nước. Gia công quốc tế phần lớn phát
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
24
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
triển ở những ngành sử dụng nhiều lao động và đòi hỏi về tay nghề không cao.
Với vai trò bên nhận gia công, Việt Nam đang tận dụng được lợi thế về nguồn
lao động, đặc biệt là giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong xã hội với
trình độ tay nghề thấp. Thêm vào đó một số mặt hàng lại mang tính chất thời vụ
cho nên nguồn nhân lực nhàn rỗi theo thời vụ cũng được tận dụng. Điều này
góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao đời sống cho người lao
động.
2.3.3 Góp phần tăng cường mối liên hệ sản xuất giữa các ngành
Nhờ phát triển gia công xuất khẩu mà hàng loạt ngành nghề liên quan đã
có cơ hội và điều kiện phát triển, tiêu biểu là ngành cơ khí và ngành sản xuất
các loạt phụ kiện. Đối với cơ khí, khi ngành gia công xuất khẩu càng phát triển

thì nhu cầu về các thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất tăng. Điều này tạo điều
kiện cho ngành cơ khí trong nước phát triển. Mặt khác, các mặt hàng gia công
xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các mặt hàng giày dép, may mặc, phần
mềm, vì vậy mà nhu cầu về các loạt phụ liệu như chỉ, khuy cúc, nhãn mác, các
loại khoá kéo,… là rất lớn. Những loại phụ kiện này chủ yếu là do các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sản xuất. Nhờ vậy mà các doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Việt Nam có cơ hội phát triển.
2.3.4 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Việt Nam là thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài do có
nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, có dân số đông và giá nhân công rẻ. Đặc
biệt, trong mặt hàng da giày và dệt may thế giới thì Việt Nam được đánh giá
khá cao do có nguồn nhân công rẻ, tay nghề cao. Hoạt động gia công xuất khẩu
tạo cơ hội cho hàng gia công Việt Nam xâm nhập vào các thị trường trên thế
giới, nhờ đó mà thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Vốn
đầu tư nước ngoài có thể vào dưới các hình thức nhe hợp đồng hợp tác kinh
doanh, các hoạt động liên doanh liên kết. Rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam
Bùi Tá Hiểu – TMQT - K47
25

×