Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Luận văn cao học Nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền cho học sinh lớp 11 trường trung học phổ thông Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.54 KB, 75 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ là bộ phận cơ bản trong hệ thống giáo
dục thể chất nhân dân, trong đó các bài tập TDTT là phương tiện quan trọng
để đem lại sức khỏe cho mọi người và thể chất cường tráng cho thế hệ trẻ
Việt Nam hiện tại và mai sau. Trong dự thảo nghị quyết Đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ IX có đoạn viết: "Phát triển mạnh mẽ phong trào TDTT quần
chúng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, làm cho TDTT thực sự là một phương tiện
đại chúng, góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho nhân dân, phục vụ
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước". Muốn phát triển được
phong trào TDTT, thì khơng thể thiếu được vai trò của giáo dục thể chất
trong nhà trường, từ bậc mẫu giáo, học sinh phổ thông, đến đại học và
chuyên nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác Giáo dục thể
chất và thể thao trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản
pháp quy để chỉ đạo thực hiện đến các cơ sở. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
đã ban hành chương trình mục tiêu: “Cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục
thể chất, sức khoẻ phát triển và bồi dưỡng tài năng thể thao học sinh, sinh
viên trong nhà trường các cấp - giai đoạn 1996 - 2000 và định hướng đến
2025”. Trong chương trình mục tiêu đã nêu lên đầy đủ những điều kiện đảm
bảo cho công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học ổn định và
phát triển đến năm 2025.
Về công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, Đảng và Nhà
nước nhất quán: Góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài hồ, có thể chất
cường tráng, đáp ứng u cầu chun mơn, nghề nghiệp và có khả năng tiếp
cận với thực tiễn lao động sản xuất của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.



2

Giáo dục thể chất là một mặt của giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh
viên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong nhà trường, giáo dục thể chất là
một phương tiện có hiệu quả để phát triển hài hoà, cân đối cơ thể và các tố
chất thể lực của học sinh. Giáo dục thể chất là lĩnh vực sư phạm chuyên biệt,
thông qua giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao cịn có tác dụng tích cực
tới những phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ trong việc hình
thành nhân cách cho người học.
Nhưng hiện nay, GDTC ở các trường học chưa đáp ứng được yêu cầu
mà đất nước đang đòi hỏi. Đúng như Bộ Giáo dục - Đào tạo và Ủy ban TDTT
(nay là Tổng cục TDTT) đã nhất trí đánh giá: "Chất lượng GDTC còn thấp,
giờ dạy thể dục còn đơn điệu, máy móc, thiếu sinh động, an tồn và có tác
dụng tốt cịn hạn chế…". Các tồn tại trên đây có nhiều ngun nhân.
Huyện Gia Bình có vị trí địa lý nằm ở phía nam của tỉnh Bắc Ninh với
đặc thù là một huyện kinh tế nông nghiệp chủ đạo, đời sống vật chất của nhân
dân cịn nhiều khó khăn. Nhưng từ năm 2005 đến nay, được sự quan tâm của
các cấp lãnh đạo tỉnh cùng Sở Giáo dục và Đào tạo thì cơ sở vật chất phục vụ
cơng tác giảng dạy và học tập giáo dục thể chất của các trường trung học phổ
thông đã được đầu tư đáng kể từ diện tích sân chơi đến các trang thiết bị tập
luyện.
Tuy nhiên, cơng tác GDTC trong nhà trường vẫn cịn nhiều tồn tại.
Chương trình GDTC mới được Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn và đưa vào
thực hiện năm học 2006 - 2007 đã nảy sinh sự bất cập, có nội dung được soạn
thảo nhưng lại khơng có điều kiện thực hiện. Sự sắp xếp thời khóa biểu chưa
hợp lý, thiếu khoa học. Bản thân vấn đề GDTC bắt buộc đang có hạn chế vì
chương trình nội dung giảng dạy chưa phù hợp trình độ thực tiễn và điều kiện
của học sinh.
Hơn thế nữa, qua khảo sát thực tế, chúng tôi thấy rằng một bộ phận
giáo viên nhận thức chưa đầy đủ về lợi ích của cơng tác này đã làm cản trở sự

phát triển của phong trào TDTT trường học. Trong giảng dạy không tuân thủ


3

nghiêm phân phối chương trình, các giáo viên cịn cắt xén thời gian và nội
dung tập luyện, cụ thể như lược bỏ các bài tập bổ trợ. Đại đa số các giáo viên
chỉ chú trọng đến nội dung cơ bản của buổi tập mà bỏ qua các bài tập bổ trợ
(đặc biệt là bài tập phát triển sức bền). Vì họ cho rằng tập luyện phát triển sức
bền sẽ mất nhiều thời gian của buổi tập lại dễ dấn đến mệt mỏi sâu làm ảnh
hưởng đến học tập văn hóa. Mặc dù khoa học đã chứng minh tập luyện phát
triển tố chất sức bền ngay từ khi là học sinh phổ thơng thì khi ở tuổi trưởng
thành, người tập dễ chịu đựng được lượng vận động sức bền, là tiền đề nâng
cao thành tích của nhiều mơn thể thao, có khả năng duy trì hiệu quả lao động
trong thời gian dài.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là để cơng tác GDTC cho học sinh trung học phổ
thông đạt về chất, bên cạnh phần nội dung bắt buộc của chương trình, cần đa
dạng hóa các loại hình bài tập (một trong số đó là các bài tập phát triển sức
bền) mà có thể dễ dàng tổ chức tập luyện, khơng u cầu cao về trang thiết bị
lại nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất.
Ở Bắc Ninh, những năm qua đã có một số cơng trình nghiên cứu nhằm
nâng cao hiệu quả công tác GDTC cho học sinh các cấp như: Nguyễn Quốc
Toản (2000), Phạm Tuấn Hiệp (2005), Đàm Anh Tuấn (2005), Nguyễn Ngọc
Tuấn (2007), Trần Thị Tơ Hồi (2008), Phan Thanh Hòa (2009). Nhưng lựa
chọn bài tập phát triển sức bền đối với học sinh trung học phổ thông cho phù
hợp với chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực
hiện từ năm học 2006 - 2007, thì vẫn chưa có tác giả nào tiến hành nghiên
cứu. Xuất phát từ lý do nêu trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền cho học sinh lớp 11
"

trường trung học phổ thơng Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh"
.
Mục đích nghiên cứu: Qua nghiên cứu về lý luận, dựa vào cơ sở thực
tiễn công tác GDTC trong trường THPT Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh, đề tài lựa
chọn các bài tập nhằm phát triển sức bền cho học sinh lớp 11 Trường THPT


4

Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục thể chất của Nhà trường hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, đề tài xác
định các mục tiêu sau:
- Mục tiêu 1: Thực trạng sức bền của học sinh lớp 11 trường THPT
Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh.
Giải quyết mục tiêu này chính là tìm hiểu thực trạng cơng tác giảng
dạy và kết quả học tập, rèn luyện sức bền của đối tượng nghiên cứu, làm cơ
sở giải quyết nhiệm vụ tiếp theo của đề tài.
- Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển sức
bền cho học sinh lớp 11 trường THPT Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng kết quả học tập, rèn luyện sức bền của
đối tượng nghiên cứu, đồng thời thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn công tác giảng dạy, kết quả nghiên cứu của mục tiêu này chính là
việc ứng dụng và kiểm nghiệm hiệu quả các bài tập phát triển sức bền phù
hợp với điều kiện thực tiễn tại nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả GDTC
cho học sinh lớp 11 trường THPT Gia Bình 1 tỉnh Bắc Ninh.


5


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trong
nhà trường các cấp
GDTC trong là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được của nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hồn thiện
cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất của học
sinh nhằm đào tạo con người mới phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của GDTC trong nhà trường các
cấp là gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo
tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động
có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng
tạo.
Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác GDTC, coi như một mặt
trong mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường xã hội chủ nghĩa. GDTC
trong nhà trường các cấp, cịn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến
lược phát triển sự nghiệp thể dục thể thao.
GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, đồng
thời là một bộ phận quan trọng của nền thể dục thể thao Việt Nam. GDTC
trong trường học, đang cùng với thể thao thành tích cao, thể thao cho mọi
người và các bộ phận thể dục thể thao khác, đảm bảo cho nền thể dục thể
thao phát triển cân đối và đồng bộ, góp phần thực hiện kế hoạch củng cố, xây
dựng và phát triển thể dục thể thao Việt Nam.
Tháng 03/1946, trong lúc tình hình đất nước cịn mn vàn nguy hiểm
nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi tồn dân tập thể dục, Người
khẳng định: “...Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc
gì cũng cần có sức khoẻ mới thành cơng. Mỗi một người dân yếu ớt là làm



6

cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần
cho cả nước mạnh khoẻ...”. Vì thế, Người khuyên: “...Luyện tập thể dục, bồi
bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước...”[18].
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói
chung, về GDTC trong trường học nói riêng, được xuất phát từ lý luận của
học thuyết Mác - Lênin về con người và sự phát triển con người toàn diện, từ
tư tưởng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về TDTT về giáo dục nói
chung và GDTC cho thế hệ trẻ nói riêng.
Từ những cơ sở lý luận đó, Đảng ta đã quán triệt trong suốt thời kỳ
lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng CNXH
ngày nay, được cụ thể hoá qua Nghị quyết các kỳ đại hội Đảng, các chỉ thị,
các nghị quyết, nghị định, thông tư về TDTT, ở từng giai đoạn cách mạng
theo yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ thể của đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng III viết: “... Công tác giáo dục phải được phát
triển theo quy mô lớn, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm
chủ nước nhà, có giác ngộ XHCN, có văn hố và có khoa học kỹ thuật, có
sức khoẻ nhằm phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ
văn hố của nhân dân lao động...”. [4]
Tới Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV, 1976 cũng
nêu rõ: “...Cần nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục, hiện đại
hóa chương trình khoa học kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế, tăng
cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng và
đạo đức Cách mạng, bồi dưỡng kỹ năng lao động và năng lực nghiên cứu
khoa học kỹ thuật, coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mỹ, TDTT và tập luyện
quân sự...”. [5]
Bước sang thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ VI đã ghi rõ: “... Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT

quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thành thói quen hàng ngày của


7

đông đảo nhân dân ta, trước hết là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng GDTC
trong các trường học...”. [6]
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã
khẳng định: “... Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu...”[9]
Đặc biệt, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992)
đã ghi rõ: “... Việc dạy và học TDTT trong trường học là bắt buộc...” [34]
Để cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo trên, Đảng ta ln có những chỉ
thị, nghị quyết kịp thời đề ra chủ trương đẩy mạnh tiến trình phát triển. Qua
những giai đoạn cách mạng, căn cứ vào những yêu cầu, tình hình và nhiệm
vụ cụ thể, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chỉ thị như:
- Chỉ thị 106/CT-TW ngày 02/10/1958 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về công tác TDTT và chỉ thị 180/CT-TW ngày 26/08/1970 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác TDTT trong những năm tiếp
theo là một bước phát triển mới, xác định vị trí quan trọng của TDTT, coi
TDTT là một nhu cầu của quần chúng, là một mặt của xây dựng CNXH.Chủ
trương trên được cụ thể hoá tới sự phát triển phong trào TDTT trong học
sinh, sinh viên...
- Chỉ thị 112/CT ngày 09/05/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác
TDTT trong những năm trước mắt có ghi: “... Đối với học sinh , sinh viên,
trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học mơn TDTT
theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức
tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngoài giờ học...
- Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 về công tác TDTT trong giai
đoạn mới đã nêu rõ: “Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện

thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất, để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả
các trường học. [2]


8

- Cũng trong năm 1996, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 133/TTg ngày
07/03/1996, về việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về
GDTC trường học đã ghi rõ: “... Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng
việc GDTC trong nhà trường , cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa,
ngoại khố, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp học,
có quy chế bắt buộc đối với các trường...”.
Vì vậy, GDTC trường học là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo
dục đào tạo và thể dục ngành nghề là một mặt quan trọng trong hệ thống
GDTC học đường.
Cùng với các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và nhà nước, Bộ giáo dục
và Đào tạo đã thực hiện chủ trương, đường lối về công tác giáo dục thể thao
nói chung và GDTC học đường nói riêng, bằng rất nhiều các văn bản pháp
quy, cụ thể như:
- Thông tư liên tịch số 04-93/GĐ-ĐT-TDTT ngày 14/07/1993 về việc
xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải
tiến công tác tổ chức quản lý TDTT và GDTC trong trường học các cấp.
- Thông tư số 11/TT-GDTT ngày 01/08/1994 về việc hướng dẫn chỉ thị
36/CT-TW.
- Thông tư số 2896/GDTC ngày 04/05/1995 về việc hướng dẫn chỉ thị
133/TTg.
Ngày 2/4/1998, thường vụ Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành thông tư 03 - TT/TW về tăng cường lãnh
đạo công tác TDTT. Thông tư nêu rõ: "Giáo dục thể chất trong trường học

còn nhiều hạn chế…" nên cần chú trọng "Tăng cường cán bộ" cho ngành
TDTT, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, đặc biệt là trong các quy
hoạch cần dành đất để xây dựng các cơng trình thể thao và các sân tập TDTT
ở các địa bàn dân cư, các trường học, các xí nghiệp" [3].
Ngày 9/10/2000, Chủ tịch nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cơng bố lệnh về việc ban hành Luật Thể dục, Thể thao đã được Ủy ban


9

thường vụ Quốc hội khóa X thơng qua ngày 25/9/2000, Luật có 9 chương, 59
điều. Trong đó có một chương, 6 điều quy định về TDTT trường học.
Điều 14 của Luật ghi rõ: "Thể dục thể thao trường học bao gồm giáo
dục thể chất và hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho người học. Giáo
dục thể chất trong trường học là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm tăng cường
sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
đáp ứng yêu cầu giáo dục tồn diện cho người học. Nhà nước khuyến khích
hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa trong nhà trường" [27].
Điều 15 của Luật quy định: "Bộ Giáo dục - Đào tạo phối hợp với Ủy
ban TDTT thực hiện nhiệm vụ: Xây dựng, chỉ đạo, thực hiện chương trình
GDTC. Quy định tiêu chuẩn rèn luyện TDTT và đánh giá kết quả rèn luyện
thể dục thể thao của người học. Đào tạo, bồi dưỡng và đảm bảo đủ giáo viên,
giảng viên thể dục thể thao. Quy định hệ thống thi đấu thể dục thể thao
trường học" [27].
Ngày 21/10/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị
17/CT/TW về phát triển TDTT đến năm 2010 trong đó nêu rõ những phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện việc đẩy mạnh phát triển TDTT rộng
khắp trong cả nước. Với thể thao trường học chỉ thị nêu: "Đẩy mạnh hoạt
động TDTT ở trường học. Tiến tới bảo đảm mỗi trường đều có giáo viên thể
dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao

chất lượng GDTC, xem đây là một tiêu chí xét cơng nhận trường chuẩn quốc
gia" [4].
Ngày 12/11/2002, Ban Khoa giáo Trung ương đã có hướng dẫn thực
hiện chỉ thị 17/CT/TW của Ban bí thư Trung ương về phát triển TDTT đến
năm 2010, Ban Khoa giáo Trung ương yêu cầu:
"- Quán triệt chỉ thị 17/CT/TW nâng cao ý thức, trách nhiệm và nâng
cao sự tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các
ngành, đồn thể với sự nghiệp phát triển TDTT.


10

- Xây dựng và thực hiện hiệu quả kế hoạch hành động triển khai chỉ thị
17/CT/TW phù hợp với điều kiện của từng ngành, địa phương, tạo ra sự
chuyển biến rõ rệt về công tác TDTT trường học, hoạt động TDTT quần
chúng cơ sở và tài năng trẻ về thể thao” [5].
Ngày 24/11/2002, tại buổi làm việc với ngành TDTT, Chủ tịch nước
Trần Đức Lương đã chỉ đạo: " Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác
TDTT, coi TDTT là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn
hóa xã hội của đất nước…Sự nghiệp TDTT của nhà nước đã có những bước
tiến rất đáng phấn khởi cả về phong trào tập luyện của quần chúng và thể
thao thành tích cao, cả về thể thao dân tộc, thể thao hiện đại cũng như xây
dựng cơ sở vật chất cho ngành TDTT".
- Chương trình mục tiêu “Cải tiến nâng cao chất lượng GDTC, sức
khoẻ, phát triển và bồi dưỡng tài năng trẻ thể thao học sinh và sinh viên trong
nhà trường các cấp".
Giáo dục con người phát triển tồn diện phải: "Kết hợp hài hịa sự
phong phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về chất". Sự
cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn
quý tạo ra sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo cho con

người về thể chất là trách nhiệm của tồn xã hội nói chung và ngành TDTT
nói riêng. Đó chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng của nền giáo dục TDTT
nước ta mà Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm và nhắc nhở.
Đến nay, hệ thống tổ chức quản lý GDTC đã được hình thành và phát
triển trong nhà trường các cấp từ địa phương đến trung ương, khẳng định vị
thế quan trọng của công tác GDTC trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của
nước ta.
Có thể thấy rằng lĩnh vực GDTC trong trường học nói chung và GDTC
trong các trường trung học phổ thơng nói riêng, đã và đang thu hút sự chú ý
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các nhà giáo dục về chuyên
môn.


11

Nền văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa gia đình và văn hóa nhà
trường đã tạo nên những thang bậc phát triển tri thức đa dạng. Trong đó nền
văn hóa nhà trường ln giữ vai trị chủ đạo. Đặc biệt, nhà trường cần phải
chú trọng bồi dưỡng cho thế hệ trẻ vốn tri thức và các giá trị khách quan của
nền văn hóa thể chất.
1.2. Mục tiêu của cơng tác GDTC cho học sinh phổ thông
Mục tiêu chung của công tác GDTC, sức khỏe cho học sinh phổ thông
trong thời gian tới là:
- Góp phần phát triển hài hịa thể chất, sức khỏe nâng cao thể lực, bồi
dưỡng năng lực và kỹ năng vận động nhằm tăng cường hiệu quả học tập, lao
động và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc của thế hệ trẻ Việt Nam.
- Góp phần tạo dựng cuộc sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, hạn chế
các tệ nạn xã hội, đào tạo và bồi dưỡng tài năng TDTT cho đất nước.
- Phấn đấu đưa việc dạy và học thể dục, sức khỏe, nội ngoại khóa vào
nề nếp và có hiệu quả trong nhà trường phổ thông.

- Tăng cường rèn luyện thể chất và đẩy mạnh công tác y tế học đường,
giáo dục sức khỏe và vệ sinh mơi trường nhằm tích cực tạo điều kiện nâng
cao sức khỏe cho học sinh.
- Giáo dục và bồi dưỡng học sinh năng khiếu, phát hiện tài năng và
phấn đấu nâng cao một bước thành tích thể thao học sinh phổ thông.
GDTC là một trong năm mặt giáo dục toàn diện cho học sinh. Mặt
khác, bản thân GDTC đã bao hàm các nội dung của giáo dục toàn diện, bởi
vậy công tác GDTC trong nhà trường các cấp phải hướng vào thực hiện các
nhiệm vụ chính:
- Góp phần phát triển đúng đắn thể chất và củng cố sức khỏe.
- Phát triển các tố chất thể lực.
- Hình thành hứng thú bền vững và nhu cầu tập luyện một cách có hệ
thống.


12

Tuổi học sinh phổ thơng vốn có những nét đặc thù, vì vậy trong việc
chăm sóc và giáo dục học sinh nói chung cũng như trong GDTC nói riêng
cho lứa tuổi này cần có những đặc trưng riêng: học tập, vui chơi và vận động
là hoạt động chủ đạo. Đó là những nhu cầu không thể thiếu được của học sinh
phổ thông. Do vậy trong nội dung GDTC cho học sinh phổ thông cần ưu tiên
trước hết cho các bài tập phát triển chung, bài tập phát triển sức bền, điền
kinh (chạy, nhảy, ném), các bài tập trò chơi vận động và một số mơn thể thao
như: Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng bàn, Bóng ném, Bóng rổ, Cầu lơng, Đá
cầu, Võ… [18],[19],[21],[22].
1.3. Các quan điểm nghiên cứu về tố chất sức bền
Sức bền trong vận động là khái niệm rất rộng. Các quan điểm về sức
bền trong nhiều tài liệu có những cách thể hiện và tiếp cận khác nhau. Qua
phân tích và tổng hợp thấy có các quan điểm sau:

Harre. D (1996) cho rằng: “Sức bền được hiểu là khả năng chống lại sự
mệt mỏi của VĐV. Sức bền đảm bảo cho VĐV đạt được một cường độ nhất
định (tốc độ, dùng lực, nhịp độ chơi hoặc thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời
gian vận động kéo dài của thi đấu tương ứng khả năng huấn luyện của mình.
Sức bền cịn đảm bảo chất lượng động tác và giải quyết hoàn hảo các hành vi
kỹ - chiến thuật tới cuộc đấu và vượt qua một kháng lượng vận động lớn
trong luyện tập”. Tác giả cho rằng: “Sức bền là nhân tố xác định ảnh hưởng
lớn đến thành tích thi đấu và là nhân tố xác định thành tích tập luyện, khả
năng chịu đựng LVĐ của VĐV” [25].
Diên Phong (1996) cho rằng: “Tố chất sức bền là năng lực của cơ thể
chịu đựng mệt mỏi sản sinh trong quá trình hoạt động, cịn mệt mỏi là sự
giảm sút tạm thời năng lực làm việc của cơ thể do làm việc tạo ra” [33]. Theo
tác giả, sức bền là năng lực đa nhân tố, ngoài cấu trúc tổ chức cơ thể ảnh
hưởng đến sức bền ra nó cịn có những nhân tố ảnh hưởng khác như: Đặc
điểm tâm lý VĐV, năng lực của hệ thống chức năng trao đổi và hấp thu năng


13

lượng khi cơ thể vận động, tính ổn định chức năng cơ thể, sự tiết kiệm chức
năng cơ thể.
Quan điểm của Daxiorơxki B.M: Sức bền là khả năng hoàn thành một
cơng việc nào đó trong một thời gian dài mà hiệu suất làm việc khơng bị
giảm sút. Nói một cách khác có thể coi sức bền như một khả năng chống lại
sự mệt mỏi. Sự giảm sút khả năng lao động tạm thời do LVĐ gây nên là mệt
mỏi, tức sức bền liên quan trực tiếp tới mệt mỏi. Khả năng chống lại mệt mỏi
của từng VĐV là khác nhau do trình độ sức bền khác nhau [19].
Quan điểm tương tự Denslegen.G, Legơ.K (1985), cho rằng: Sức bền
là năng lực chống lại mệt mỏi của cơ thể trong vận động kéo dài. Gross A.C
(1986), đã khái quát sức bền là khả năng hoạt động kéo dài nhưng không

giảm hiệu suất trong hoạt động đó. Gurevich I.A (1985), cho rằng: Sức bền là
khả năng khắc phục sự cản trở của môi trường bên trong cũng như bên ngoài
để hoàn thành một công việc với cường độ xác định trong thời gian dài [25].
Sức bền theo nghĩa rộng được các tác giả người Đức như: Thiess.G,
Schnabel.G, Baumann.R (1980), khẳng định: Sức bền là một tố chất thể lực,
là khả năng chống lại mệt mỏi trong vận động thể thao. Tương ứng với trình
độ tập luyện đại diện là tố chất sức bền, mà sức bền đảm bảo tính hiệu quả
của thành tích đối với một thời gian vận động đòi hỏi [25].
Ngày nay các nhà chuyên môn thường dùng thuật ngữ sức bền thay
cho thuật ngữ khả năng chịu đựng trước đây. Francois Bigrel (2001) cho rằng
sức bền biểu thị sự có thể chịu đựng được mệt mỏi lâu trong bài tập có cường
độ đã định trước. Sức bền của VĐV phụ thuộc chủ yếu vào khả năng chuyển
hóa năng lượng trong điều kiện đủ khí và yếm khí của cơ thể, đặc biệt là
ngưỡng yếm khí. Theo quan điểm dưới góc độ sinh hoá của Mensicop.V.V và
Volcop. N.I, sức bền thể hiện dưới dạng kéo dài thời gian hoạt động ở một
cường độ nhất định đến khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của mệt mỏi,
cũng như giảm khả năng hoạt động khi bắt đầu mệt mỏi và cuối cùng dẫn đến
sự ngừng vận động [31].


14

Dưới góc độ y - sinh học, Nguyễn Ngọc Cừ, Lê Quý Phượng, Lưu
Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên cho rằng: Sức bền là khả năng duy trì trong thời
gian dài khả năng hoạt động của con người và sức đề kháng cao của cơ thể
đối với mệt mỏi. Sức bền đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể
lực kéo dài liên tục từ 2 - 3 phút trở lên với sự tham gia của một khối lượng
cơ bắp lớn (từ 1/2 đến toàn bộ lượng cơ bắp cơ thể) nhờ sự hấp thụ O2 để
cung cấp năng lượng cho cơ thể chủ yếu bằng con đường ưa khí. Như vậy
sức bền là khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn thân hoàn toàn

hoặc chủ yếu bằng con đường ưa khí [27].
Theo quan điểm của các nhà lí luận trong nước như: Nguyễn Tốn,
Phạm Danh Tốn, Trương Anh Tuấn cho rằng: Sức bền là một tố chất thể lực,
là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước hay là năng lực
duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng
được, hay nói một cách khác sức bền là năng lực chống lại mệt mỏi trong
hoạt động thể thao [38].
Các tác giả cho rằng để phát triển sức bền phải giải quyết hàng loạt
nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và nâng cao những nhân tố chi phối đến sức bền
[38]:
- Kỹ thuật thể thao hợp lý.
- Năng lực duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng phấn của các
trung tâm thần kinh.
- Khả năng hoạt động cao của hệ tuần hồn và hơ hấp.
- Tính tiết kiệm của các q trình trao đổi chất.
- Cơ thể có nguồn dự trữ năng lượng lớn.
- Sự phối hợp hài hoà trong hoạt động của các chức năng sinh lý.
- Khả năng chịu đựng chống lại cảm giác mệt mỏi nhờ những nỗ lực ý
chí.
Các tác giả khẳng định: Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm
cho cơ thể thích nghi dần dần với LVĐ ngày càng lớn, đòi hỏi người tập phải


15

có ý chí kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khi rất nặng nề và
cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập.
Daxưorơxki B.M, và Nôvicốp A.D - Mátveép L.P: Sức bền là năng lực
chống lại mệt mỏi. Hiện tượng mệt mỏi trong những hoạt động với LVĐ
khác nhau không giống nhau. Khi giáo dục sức bền không chỉ chú ý đến

chiều sâu của sự mệt mỏi mà cả tính chất của nó nữa [18].
Trịnh Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà cho rằng: Sức bền là khả năng
chống lại mệt mỏi và duy trì hoạt động kéo dài của VĐV, sức bền có ý nghĩa
trong việc xác định thành tích thi đấu, đánh giá kết quả huấn luyện và khả
năng chịu đựng LVĐ, khả năng phục hồi nhanh chóng của VĐV.
Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn cho rằng: “Sức bền là một mặt ý
thức của VĐV phản ánh tổng hợp độ lớn và thời gian của mọi nỗ lực cơ bắp
và ý chí của VĐV được phát triển trong điều kiện thực hiện các hành động
vận động kéo dài”. Cấu trúc tâm lý của tố chất sức bền không biểu hiện rõ,
được xác định bởi sự biểu hiện tổng hợp nỗ lực cơ bắp sản sinh ra [43].
Như vậy, dưới góc độ tâm lý cho thấy: sức bền là khả năng của hệ
thống tâm thể của VĐV chịu đựng được LVĐ cao trong tập luyện và thi đấu,
duy trì được sự cân bằng cần thiết trong hệ thống đó.
Từ phân tích các quan điểm về sức bền của các tác giả trong nước và
trên thế giới, cho thấy:
- Hầu hết đều thống nhất cho sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một
hoạt động nào đó với cường độ nhất định. Sức bền là tố chất thể lực, được thể
hiện trong một loại hoạt động. Nói cách khác, sức bền là một khái niệm
chuyên biệt thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động chun mơn
nhất định.
- Sức bền có vai trị to lớn đối với thành tích thi đấu, khả năng chịu
đựng LVĐ, đồng thời luôn gắn liền với hiện tượng mệt mỏi và khả năng hồi
phục của VĐV.


16

- Để phát triển được sức bền trong tập luyện thì VĐV phải khắc phục
mệt mỏi.
Sức bền tạo cho VĐV duy trì nhịp độ trận đấu cao trong thời gian dài.

VĐV có sức bền tốt ln giải quyết các hành vi kỹ, chiến thuật hoàn hảo và
chuẩn xác. Sức bền cịn giúp VĐV tập trung nỗ lực ý chí cao và ngăn ngừa
chấn thương trong tập luyện và thi đấu.
Qua phân tích các quan điểm về sức bền cho thấy: Sức bền trong các
môn thể thao là năng lực chịu đựng mệt mỏi của VĐV trong hoạt động kéo
dài. Hay nói cách khác, sức bền chính là khả năng duy trì hoạt động chun
mơn trong tập luyện và thi đấu với nhịp độ cao, hiệu suất ổn định trong thời
gian dài.
Hoạt động vận động của con người rất đa dạng. Các mơn thể thao khác
nhau có hoạt động đặc thù riêng mang tính chất và cơ chế mệt mỏi khác
nhau. Mệt mỏi phân ra: mệt mỏi về trí lực và mệt mỏi về phương diện cảm
giác, mệt mỏi về thể xác (thể lực) và mệt mỏi về tinh thần (tình cảm). Sự mệt
mỏi về thể xác được tạo ra bởi sự hoạt động của cơ bắp, do vậy các loại sức
bền tương ứng cũng khác nhau. Qua phân tích và nghiên cứu tài liệu có cách
phân loại sức bền như sau:
- Căn cứ vào thời gian hoạt động các nhà khoa học như: Harre.D,
Trương Anh Tuấn, Đồng Văn Triệu, Nguyễn Thị Xuyền, Trịnh Trung Hiếu
và Nguyễn Sĩ Hà chia sức bền ra thành 3 loại:
Sức bền trong thời gian dài là sức bền cần thiết để vượt qua cự ly hoặc
hoàn thành khối lượng vận động trong thời gian 11 phút tới nhiều giờ, thành
tích phụ thuộc vào khả năng hoạt động ưa khí. Trên cơ sở yêu cầu khác nhau
về trao đổi chất nên sức bền trong thời gian dài lại chia thành 3 loại là sức
bền trong thời gian dài I, II và III tương ứng với thời gian thi đấu từ 10 - 30
phút, từ 30 đến 90 phút và trên 90 phút.
Sức bền trong thời gian trung bình là sức bền cần thiết để hồn thành
khối lượng vận động trong thời gian từ 2 đến 11 phút. Thành tích sức bền


17


này đòi hỏi sự hoạt động đầy đủ của khả năng ưa khí và khả năng yếm khí,
phụ thuộc vào mức độ phát triển của sức mạnh - bền và sức nhanh bền.
Sức bền trong thời gian ngắn (45 giây đến dưới 2 phút): Thành tích
phụ thuộc vào khả năng hoạt động yếm khí và sự phát triển sức mạnh - bền
và sức nhanh bền [27],[38].
Căn cứ vào trạng thái năng lực làm việc của hệ thống cung cấp năng
lượng thì Diên Phong, Nguyễn Ngọc Cừ và cộng sự, Lưu Quang Hiệp, Phạm
Thị Uyên, Vũ Đức Thu và cộng sự chia sức bền ra thành 2 loại:
- Sức bền ưa khí (aerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể
trong điều kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua q trình ơxy hố hợp
chất hữu cơ giàu năng lượng trong cơ thể.
- Sức bền yếm khí (anaerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể
trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (ATP, CP)
phốtphorin và sức bền hệ thống cung cấp năng lượng láctat. Các nhà khoa
học khẳng định: Nếu quan điểm xem xét sức bền chỉ là làm việc trong một
thời gian dài mới có tác dụng là sai lầm vì thực tế trong hoạt động thể thao có
mệt mỏi thì có sức bền [27].
- Căn cứ vào số lượng các nhóm cơ tham gia hoạt động và chế độ hoạt
động của cơ: Daxưorơxki B.M, Novicốp A.D, Matveép L.P, Nguyễn Toán,
Phạm Danh Tốn chia sức bền thành 3 loại.
Sức bền cục bộ (mệt mỏi cục bộ) là sức bền dưới 1/3 các nhóm cơ
tham gia hoạt động. Hoạt động cục bộ không làm cho hoạt động hệ thống tim
mạch và hô hấp tăng đáng kể. Nguyên nhân mệt mỏi của hoạt động này nằm
trong các khâu của bộ máy thần kinh cơ trực tiếp đảm bảo động tác.
Sức bền khu vực (Mệt mỏi khu vực) là loại sức bền trong các hoạt
động có từ 1/3 đến 2/3 khối lượng cơ tham gia.
Sức bền chung (mệt mỏi chung) là sức bền trong các hoạt động kéo dài
với cường độ thấp có sự tham gia của 2/3 nhóm cơ trở lên. Trong hoạt động



18

này địi hỏi cơ quan tuần hồn và hơ hấp hoạt động khẩn trương để đảm bảo
cung cấp năng lượng cho hoạt động [18].
- Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn cho rằng: Tri giác chuyên môn
của tố chất sức bền thể hiện dưới dạng cảm giác sức bền tốc độ, sức bền
mạnh và sức bền - mạnh - tốc độ. Vì cấu trúc tâm lý của tố chất sức bền
khơng biểu hiện rõ nét, vì thế sự phân chia sức bền chỉ mang tính chất tương
đối. Tuy nhiên trong mỗi môn thể thao tri giác chuyên môn tố chất sức bền
lại có cấu trúc tâm lý riêng và khác nhau. Với các mơn thể thao cá nhân thì
cảm giác độ lớn và thời gian của sự nỗ lực trong điều kiện giới hạn thời gian
để chống lại đối phương có ý nghĩa quan trọng [43].
Dựa trên đặc điểm vận động riêng biệt của từng môn thể thao đa số các
nhà khoa học như: Diên Phong, Daxưorơxki B.M, Harre. D, Novicốp A.D,
Matveép L.P, Thief.G - Schnabel.G- Baumann.R, Trương Anh Tuấn, Trịnh
Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà, Phạm Danh Tốn - Nguyễn Toán, chia sức bền
thành sức bền chung (sức bền cơ sở) và sức bền chuyên môn.
Tổng hợp các quan điểm về phân loại sức bền trên cho thấy: Dưới góc
độ khác nhau có các cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, dù ở góc độ nào
thì sức bền đều có liên quan tới LVĐ và cơ chế mệt mỏi. Vì thế sự phân chia
sức bền chỉ mang tính chất tương đối.
1.4. Phương pháp giáo dục sức bền chung
1.4.1. Nguyên lý huấn luyện sức bền
Sức bền trong vận động thể lực bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, do đó
để phát triển sức bền, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và
nâng cao các yếu tố đó. Những nhân tố chi phối sức bền bao gồm: Kỹ thuật
thể thao hợp lý đảm bảo phát huy được hiệu quả và đồng thời tiết kiệm năng
lượng trong vận động; Năng lực duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng
phấn của các trung tâm thần kinh; khả năng hoạt động của hệ tuần hồn và hơ
hấp; Tính tiết kiệm của quá trình trao đổi chất; Cơ thể có nguồn năng lượng



19

lớn; Sự phối hợp hài hoà trong hoạt động của các chức năng sinh lý; Khả
năng chịu đựng, chống lại cảm giác mệt mỏi nhờ sự nỗ lực ý chí.
Nâng cao sức bền thực chất chính là q trình làm cho cơ thể thích
nghi với lượng vận động ngày càng lớn. Điều này, một mặt địi hỏi người tập
phải có ý chí kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi, đôi khi rất nặng nề
và cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập. Mặt khác, địi hỏi phải
có q trình tích luỹ, thích nghi dần và kéo dài liên tục, hệ thống trong nhiều
năm. Những tư tưởng nơn nóng, đốt cháy giai đoạn thường mang lại tác dụng
xấu đối với người tập [25],[38].
Nâng cao sức bền chung là cơ sở để phát triển sức bền chuyên môn và
nâng cao năng lực chịu đựng lượng vận động của cơ thể. Tập luyện có hệ
thống sẽ nâng cao được sức bền một cách đáng kể. Nhưng cũng cần lưu ý
rằng, sức bền còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố di truyền (mà cụ thể là đặc
điểm cấu trúc cơ bắp, hàm lượng các men tham gia vào q trình năng lực
hấp thụ ơxy của cơ thể ...), vì vậy, ngồi việc tổ chức tập luyện đúng phương
pháp thì cần có các thử nghiệm nhằm tuyển chọn, dự báo và xác định cự ly
chun mơn hố phù hợp nhất đối với từng VĐV [25],[38].
1.4.2. Các yếu tố của lượng vận động trong huấn luyện sức bền
- Tốc độ bài tập: Tốc độ bài tập được chia thành 2 loại: Tốc độ tới hạn
và tốc độ trên tới hạn.
+ Tốc độ tới hạn: là tốc độ di chuyển đòi hỏi lượng cung cấp ơxy dưới
mức cơ thể có thể đáp ứng được, tức là nhu cầu ôxy thấp hơn khả năng hấp
thụ của cơ thể. Trong vùng tốc độ tới hạn thì nhu cầu ơxy tỷ lệ thuận với tốc
độ di chuyển.
+ Tốc độ trên tới hạn: là tốc độ vận động địi hỏi nhu cầu ơxy cao hơn
năng lực hấp thụ ôxy tối đa của cơ thể. Lúc này, hoạt động diễn ra trong tình

trạng nợ dưỡng, nguồn cung cấp năng lượng chính đảm bảo cho cơ thể hoạt
động là các nguồn năng lượng yếm khí. Do hiệu xuất thấp của cơ thể cung
cấp năng lượng yếm khí nên ở vùng tốc độ trên tới hạn, nhu cầu ôxy tăng


20

nhanh hơn nhiều so với mức tăng tốc độ di chuyển. Theo A.Hill, lúc này nhu
cầu ôxy gần như tỷ lệ nghịch với tốc độ di chuyển [25],[27],[38].
- Thời gian thực hiện bài tập: Thời gian của bài tập có liên quan đến
tốc độ di chuyển, tức là thời gian giới hạn của bài tập luôn tương ứng với một
tốc độ di chuyển giới hạn nào đó. Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về
các nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể khi hoạt động đã cho thấy: Trong
những bài tập có thời gian kéo dài (trên 5 - 6 phút) thì tốc độ di chuyển sẽ là
tốc độ dưới tới hạn hoặc tới hạn. Ở đó, nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu
nhờ q trình ưa khí. Thời gian của bài tập càng rút ngắn thì vai trị của q
trình hơ hấp càng giảm đi, vai trị của q trình yếm khí tăng lên, lúc đầu là
phân huỷ glucơza, sau đó là q trình phân huỷ phốtphocreatin. Thông qua
thực nghiệm người ta đã xác định được các bài tập có cường độ cao với thời
gian hoạt động từ 20 giây đến 2 phút có tác dụng hồn thiện cơ chế
glucơphân, cịn các bài tập có thời gian từ 3 - 8 giây có tắc dụng tăng cường
cơ chế phốtphocreatin [25],[27],[38].
Như vậy, thời gian thực hiện bài tập càng kéo dài với tốc độ tới hạn và
dưới tới hạn đòi hỏi sự hoạt động căng thẳng của những hệ thống đảm bảo
cung cấp và sử dụng ôxy, trước hết là hệ tuần hồn và hơ hấp. Cịn thời gian
của bài tập với tốc độ trên tới hạn đòi hỏi khả năng nợ ôxy của cơ thể.
- Thời gian nghỉ giữa quãng: Thời gian nghỉ giữa quãng trong các bài
tập lặp lại có vai trị quan trọng đối với tính chất và phương hướng tác động
của bài tập đối với cơ thể. Trong những bài tập có tốc độ tới hạn và dưới tới
hạn, nếu thời gian nghỉ giữa quãng đủ dài cho các hoạt động sinh lý trở lại

bình thường thì ở mỗi lần lặp lại bài tập tiếp theo, các phản ứng của cơ thể sẽ
diễn ra gần giống như những lần thực hiện trước. Tức là, ban đầu là cơ chế
giải phóng năng lượng từ phốtphocreatin, tiếp đến là q trình glucơphân (ở 1
- 2 phút tiếp theo), sau đó là q trình oxy hố các chất giàu năng lượng:
đường, đạm, mỡ (q trình ưa khí) mới phát huy tác dụng [25],[27],[38].



×