Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

“Phân tích những quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về gia đình trong bối cảnh hiện nay, gia đình đang đứng trước những thời cơ và thách thức gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.36 KB, 31 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................3
NỘI DUNG......................................................................................................6
CHƯƠNG I . Lý luận.......................................................................................6
1.1. Khái niệm gia đình.....................................................................................6
1.2. Các hình thức gia đình hiện nay................................................................6
1.3. Vị trí của gia đình trong xã hội.................................................................7
1.4. Chức năng, vai trị cơ bản của gia đình....................................................8
1.5. Cơ sở xây đựng gia đình thời kì quá độ lên xã hội chủ
nghĩa:.......................................................................................................................11
CHƯƠNG II. Các vấn đề cơ bản...................................................................14
2.1. Thực trạng...............................................................................................14
2.1.1. Thời cơ.................................................................................................14
2.1.2. Thách thức............................................................................................19
2.2. Nguyên nhân...........................................................................................21
CHƯƠNG III. Giải pháp................................................................................23
3.1. Lãnh đạo, tổ chức và quản lý..................................................................23
3.2. Truyền thông, giáo dục, vận động...........................................................25
3.3. Kinh tế gia đình.......................................................................................26
3.4. Mạng lưới dịch vụ gia đình và cộng đồng..............................................28
3.5. Thực hiện chính sách ưu đãi, ưu tiên và trợ giúp xã hội cho gia đình. . .29
3.6. Nghiên cứu khoa học và đào tạo............................................................29
3.7. Hợp tác quốc tế.......................................................................................31
KẾT LUẬN....................................................................................................32


2

TÀI LIỆU THAM KHẢO


- Trang web của Đại học Sư phạm Hà Nội: .
- Trang web của báo Hà Nội mới: .
- Trang web của báo Tiền Phong: .
- Quyết định của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược xây
dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010.

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Gia đình là môi trường quen thuộc đối với tất cả mọi người khi bất cứ cá
nhân nào cũng đều có thể trực tiếp tham gia vào quá trình tạo lập, xây đựng một
gia đình. Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình
được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu đài. Lịch sử
đã trải qua nhiều hình thức gia đình: ở thời kỳ ngun thuỷ có kiểu gia đình đối
ngẫu (tập thể qn hơn), khi lực lượng sản xuất bắt đầu phát triển hơn thì có gia
đình cá thể nhưng lúc này vai trị của người vợ và người chồng vẫn chưa thực sự
bình đẳng. Người chồng được hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi, coi vợ con như
những vật sở hữu. Tuy nhiên, khi buớc vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản trở đi, vai trị
của các thành viên trong gia đình đần đần trở nên bình đẳng. Mỗi một gia đình
được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực phong phú nhưng cũng
rất phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. Đo đó, gia đình là vấn đề trọng yếu mà
toàn nhân loại với mọi đân tộc trong mọi thời đại đều đành sự quan tâm sâu sắc
đến. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện q
trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa mà thực chất là chuyển đổi căn bản toàn điện
các hoạt động sản xuất kinh đoanh nghiệp vụ và quản lý kinh tế xã hội. Và cùng
với sự phát triển về các mặt khác của xã hội, các vấn đề mới cũng đã nảy sinh,
trong đó vấn đề gia đình với nhiều biến đổi phức tạp, bên cạnh những biến đổi tích
cực thì gia đình Việt Nam ngày nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính


3


tiêu cực đo chịu sự chi phối lớn từ nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài nghiên cứu “Phân tích những quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình. Trong bối cảnh hiện nay, gia đình đang đứng
trước những thời cơ và thách thức gì?”khơng chỉ mang ý nghĩa lý luận mà hơn nữa
còn đem lại giá trị thực tiễn cao, là một đề tài cần thiết nghiên cứu để đưa ra cho
người đọc cái nhìn tổng quát hơn về những thay đổi trong đời sống gia đình Việt
Nam trong những năm gần đây, từ đó đưa ra các giải pháp phát huy thể mạnh và
hạn chế những điểm yếu cịn tồn tại trong các gia đình nói chung ở nước ta, tạo tiền
đề không chỉ cho sự phát triển của xã hội mà cả nền kinh tế và chính trị nước nhà.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm sáng rõ những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin về vấn đề gia đình, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tình hình chuyển
biến, những thời cơ và thách thức của gia đình trong bối cảnh hiện nay, định hướng
đúng đắn con đường mà các gia đình Việt Nam nên đi theo để đạt tới sự phát triển cao hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về gia đình: làm rõ khái
niệm, chức năng, vai trị của gia đình và cơ sở xây đựng gia đình trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Liên hệ tới thực trạng, bối cảnh hiện nay gia đình ở Việt Nam đang đứng
trước những thời cơ và thách thức với đa đạng các vấn đề “nóng” phức tạp đã thu
hút sự quan tâm của toàn xã hội thời gian qua như vấn đề hôn nhân, đạo đức trong
gia đình, quan hệ gia đình, xác định nguyên nhân của những tạo nên thời cơ và
những thách thức…
- Đề xuất những giải pháp phù hợp cho quá trình xây dựng gia đình hiện nay.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về gia đình và những vấn đề liên quan trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề gia đình



4

xảy ra ở Việt Nam từ khi đất nước bắt đầu đổi mới kinh tế, chính trị, bước vào thời
kì quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa (năm 1986) cho đến hiện nay.
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về vấn đề gia đình đựa trên những lý luận chung của
chủ nghĩa xã hội khoa học và những cơ sở đã được đặt nhằm xây đựng gia đình
trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp phân tích tài liệu, đánh giá, tổng hợp, khái qt hóa thơng
tin tổng hợp và liên hệ các vấn đề liên quan để làm rõ vấn đề cần tìm hiểu đã được
sử đụng trong q trình hồn thành tiểu luận. Đồng thời, các phương pháp logic, so
sánh, đối chiếu những vấn đề cần tìm hiểu trong từng giai đoạn, thời kì lịch sử cụ
thể cũng được vận đụng nhằm tăng tính khách quan, bao quát cho đề tài.
V. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Nghiên cứu vấn đề này có rất nhiều ý nghĩa to lớn. Bất kỳ công dân nào cũng
có gia đình, là một phần nhỏ của gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội. Phát triển
gia đình cũng đồng nghĩa với việc đưa xã hội đi lên. Hiểu được thực trạng chung
của các gia đình Việt Nam hiện nay cũng có nghĩa chúng ta có thể nhận thức rõ
hơn về cuộc sống của chính mình, biết được mình hay những người xung quanh
đang có những mặt mạnh, mặt yếu nào để từng bước khắc phục, làm cho gia đình
ngày càng hồn thiện hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Trên cơ sở mục đích và ý nghĩa nghiên cứu nêu trên, bài tiểu luận xin đưa ra
nội dung gồm có ba phần chính: Những lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình,
các vấn đề cơ bản của gia đình Việt Nam hiện nay và những phương hướng, giải
pháp cho thực trạng đó.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN



5

1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử của
loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người bắt đầu tự tổ chức cuộc
sống như một cộng đồng độc lập cũng là lúc các mô hình cộng đồng nhỏ - hình
thức sơ khai của gia đình ra đời. Như vậy, gia đình chính là một hình thức cộng
đồng xã hội đặc biệt tập hợp những người gắn bó với nhau trên cơ sở quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc đo quan hệ nuôi đưỡng, cùng với những quy định
về quyền và nghĩa vụ các thành viên trong gia đình với nhau.
Hiện tại vẫn chưa có sự thống nhất, thậm chí có sự trái ngược nhau giữa các
định nghĩa về gia đình. Hầu như các quan niệm chỉ mới đừng lại ở một khái niệm
phổ quát nhất về các loại gia đình trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các
hình thức gia đình mới đang phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay như gia
đình một người.
1.2. Các hình thức gia đình hiện nay
Dựa vào quy mơ, gia đình được chia thành hai loại chính, đó là gia đình nhỏ gia đình hạt nhân và gia đình lớn - gia đình đa thế hệ.
1.2.1. Gia đình hạt nhân
Gia đình hạt nhân là gia đình bao gồm 2 thế hệ cùng chung sống đưới một
mái nhà là vợ chồng và con cái nên có thể có gia đình đầy đủ và khơng đầy đủ. Gia
đình đầy đủ chứa đầy đủ các mối quan hệ: chồng, vợ và các con; ngược lại, gia
đình khơng đầy đủ là gia đình mà trong đó chỉ tồn tại quan hệ giữa người vợ với
người chồng hoặc quan hệ giữa người bố hoặc người mẹ với con cái.
Trong vài thập kỷ gần đây, gia đình ở Việt Nam đã chứng kiến nhiều sự thay
đổi: thế hệ các cha mẹ già thay vì sống chung cùng nhà với các con ngày càng ưa
thích sống độc lập và đuy trì mối quan hệ gần gũi với con cái. Tuy nhiên, những
thay đổi đó khơng phải là đo ảnh hưởng của văn hoá phương Tây mà chủ yếu xuất
phát từ những thay đổi kinh tế - xã hội và điều kiện sống ở Việt Nam. Và gia đình

hạt nhân sẽ vẫn tiếp tục là mơ hình chủ đạo và sẽ ngày càng phổ biến hơn nữa, nhất
là khi địch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi được cải thiện tốt hơn.
1.2.2. Gia đình lớn hay gia đình mở rộng - gia đình đa thế hệ


6

Gia đình mở rộng thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới đạng
gia đình trong quá khứ, là một tập hợp nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ
sống chung với nhau đưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, trong phạm vi
của nó cịn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ.
Cấu trúc của gia đình mở rộng cũng thay đổi cùng với những biến đổi của xã
hội. Đạng cổ điển của gia đình mở rộng có đặc tính tổ chức chặt chẽ, là liên kết của
ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi và các thành viên trong gia đình
được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người
đàn ơng cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, đo nhiều sự biến động của điều
kiện kinh tế - xã hội mà gia đình mở rộng thường gồm một cặp vợ chồng, con cái
và bố mẹ của họ và trong gia đình này, quyền hành khơng ở trong tay của người
lớn tuổi nhất.
Ngoài ra, trên thế giới hiện nay và cả ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số
đạng gia đình khơng phổ biến như: hộ gia đình một người, gia đình một thế hệ (chỉ
gồm một cặp vợ chồng),…
1.3. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.3.1. Gia đình là tế bào của xã hội.
Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của
xã hội; nếu khơng có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và
phát triển được. Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất
ra con người, gia đình như một tế bào tự nhiên , là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ
thể - xã hội. Đo đó, muốn có một xã hội lành mạnh thì phải quan tâm xây đựng gia
đình tốt. Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội ở mỗi giai đoạn

lịch sử là khác nhau vì nó phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ xã hội, đường
lối, chính sách của giai cấp cầm quyền. Trong các xã hội đựa trên cơ sở của chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia
đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
Quan tâm xây đựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là
vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời


7

sống cá nhân của mỗi thành viên.
Mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình trong suốt cuộc đời, từ khi
trong bụng mẹ đến lúc lọt lòng. Gia đình chính mơi trường phát triển tốt nhất mỗi
cá nhân, nơi mọi thành viên được yêu thương, nuôi đưỡng, chăm sóc, trưởng thành
và phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của gia đình chính là tiền đề, điều kiện quan
trọng cho sự hình thành, phát triển tồn điện nhân cách, thể lực, trí lực của mỗi
thành viên thành một cơng đân tốt của xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia
đình, mỗi cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt .
1.3.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của
mỗi cá nhân, là môi trường đầu tiên mỗi người được tiếp xúc và thực hiện các quan
hệ xã hội. Đo đó, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động
đến cá nhân, là cầu nối mà thơng qua đó mỗi cá nhân nhận được sự giáo dục, chăm
sóc cùng những mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội cao. Nhiều thông
tin, hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức lối sống, nhân
cách...
1.4. Chức năng, vai trị cơ bản của gia đình

Sự tồn tại của gia đình với các hoạt động phong phú qua các thời đại lịch sử
là cơ sở thực tiễn để xây đựng và phát triển gia đình. Việc thực hiện các chức năng
cơ bản của gia đình chính là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành các chính sách,
xây đựng những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp cho gia đình Việt Nam
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Gia đình có bốn chức năng cơ bản: chức
năng sinh sản, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế và chức năng tâm lý tình
cảm.
1.4.1. Chức năng sinh sản - tái sản xuất ra con người:


Chức năng sinh sản là chức năng tạo ra con người mới về mặt sinh học. Đây
là chức năng đặc thù của gia đình, giúp đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của
con người và nhu cầu đuy trì nịi giống của gia đình, sức lao động và đuy trì sự
trường tồn của xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc điều tiết
chức năng sinh sản của gia đình là một vấn đề tồn xã hội vì nó quyết định mật độ
đân cư, nguồn lao động của một quốc gia và cấu thành của tồn tại xã hội. Việc
khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh sản của gia đình phụ thuộc vào yếu tố
đân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
1.4.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục:
Chức năng nuôi dưỡng giáo dục của gia đình là việc cha mẹ, ơng bà giáo dục
con cháu mình, qua đó góp phần duy trì truyền thống văn hóa, đạo đức của xã hội.
Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp từ khi được sinh ra
cho đến khi trưởng thành, thậm chí cho đến suốt đời, đó là trách nhiệm ni đưỡng,
đạy đỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức năng
ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và tồn diện đến cuộc đời của mỗi
thành viên, đặc biệt có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị
trí, vai trị nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể trong việc ni đưỡng, giáo
dục của gia đình.
Giáo dục gia đình là một bộ phận hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục xã hội, là

thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường
và giáo dục ngoài cộng đồng cần được kết hợp với nhau trong sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển
của đất nước
Chức năng giáo dục thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ
với con cái cũng như trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện tốt chức năng
ni đưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản,


tương đối toàn điện về mọi mặt: tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, nhân
cách, thẩm mỹ,... Phương pháp giáo dục gia đình khá đa đạng, phổ biến với phương
pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền thống.
1.4.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Đây là chức năng cơ bản của gia đình. Gia đình tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Kinh tế gia
đình phát huy hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, từ đó tăng thêm của cải cho
cả gia đình và xã hội. Gia đình khác với các đơn vị kinh tế ở chỗ gia đình là đơn vị
đuy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Ngồi ra gia đình còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Mỗi gia đình phải tự tổ
chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia đình, thỏa mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần của các thành viên đó. Trong điều kiện phúc lợi xã hội của quốc gia
còn hạn chế thì thực hiện chức năng kinh tế của gia đình rất có ý nghĩa trong việc
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân. Chức năng này bao quát về
nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình
nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.
Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để đuy trì đời sống
của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình.Việc tổ
chức đời sống gia đình chính là việc sử đụng hợp lý các khoản thu nhập và thời
gian của các thành viên để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, đời
sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo, sức khỏe được nâng cao, đồng

thời đuy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người.
Theo từng giai đoạn phát triển của xã hội thì chức năng kinh tế của gia đình
có sự khác nhau về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức tổ chức sản
xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối quan hệ của nó với các
đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng khơng hồn tồn giống nhau.
1.4.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí, duy trì tình cảm trong gia


đình:
Đây là chức năng thường xun, có ý nghĩa quan trọng của gia đình, bao gồm
việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần của các thành viên, đảm bảo sự
cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em, quan tâm,
gắn bó, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Trong quá trình sống
của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc giới tính, thế hệ... ln điễn ra
trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong quan hệ vợ chồng, giữa cha mẹ và con
cái. Nên sự hiểu biết tâm - sinh lý, sở thích cá nhân để ứng xử phù hợp, tế nhị, chân
thành, tạo nên khơng khí tinh thần lành mạnh, ổn định, hài hịa là vấn đề quan trọng
mà gia đình phải và có thể đảm nhận.
Đo vậy, gia đình là chỗ lựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về
mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc
đuy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định
và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm
trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Ngoài những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa (lưu giữ,
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội, truyền thống văn hóa của
đân tộc cũng như tộc người), chức năng chính trị (tổ chức thực hiện và hưởng lợi từ
chính sách, pháp luật của nhà nước và hương ước của làng xã) …
1.5. Cơ sở xây đựng gia đình thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa:
1.5.1. Cơ sở kinh tế - xã hội:
Quá trình xây đựng, đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa yêu cầu sự phát triển của lực lượng sản xuất tương ứng với quan hệ sản xuất
mới là xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới này là chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, từng bước thay thế chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Điều này sẽ đần xóa đi nguồn gốc của sự áp bức, bóc lột và bất


bình đẳng trong gia đình và xã hội, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây đựng các mối
quan hệ bình đẳng trong gia đình, đặc biệt là giải phóng phụ nữ khỏi chế độ bất
bình đẳng giới. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là xóa đi nguồn gốc
của tình trạng thống trị của người đàn ơng trong gia đình, bất bình đẳng giữa nam
và nữ, giữa vợ và chồng.
1.5.2. Cơ sở chính trị - xã hội:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được hình thành là cơ sở cho việc xây đựng gia
đình mới trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điều này được thể hiện trong
vai trò của hệ thống pháp luật nhà nước về Luật hôn nhân và gia đình, cùng với đó
là hệ thống các chính sách xã hội nhằm đảm bảo lợi ích và bình đẳng giới của các
thành viên trong gia đình: chính sách đân số, việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất
nghiệp,….
1.5.3. Cơ sở văn hóa:
Những giá trị văn hóa của gia đình được xây đựng trên cơ sở hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp công nhân từng bước chi phối các nền tảng văn hóa, tinh thần
của xã hội, đồng thời bài trừ, loại bỏ những tập tục, quan niệm lạc hậu của lối sống
cũ. Trình độ đân trí được nâng cao, mở rộng nguồn tiếp cận kiến thức khoa học,
công nghệ thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển; cung cấp cho các thành
viên trong gia đình đa đạng kiến thức, quan điểm mới làm nền tảng xây đựng
những giá trị văn hóa, chuẩn mực xã hội mới nhằm điều chỉnh các mối quan hệ gia
đình một cách hiệu quả trong quá trình xây đựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở văn hóa
gắn liền với cơ sở kinh tế, chính trị sẽ đảm bảo cho việc xây đựng gia đình đi đúng
hướng đến ra của Đảng và nhà nước một cách hiệu quả.
1.5.4. Thực hiện chế độ hôn nhân tiến bộ:

Ngày nay, khi xã hội đã có những bước tiến mới - một xã hội tự đo, đân chủ
và bình đẳng, mỗi cá nhân có quyền tự đo hợp pháp trong việc lựa chọn vợ hay


chồng cho mình. Cha mẹ chỉ có thể can thiệp ở các mức độ nhất định tùy thuộc
vào môi trường xã hội và các mối quan hệ trong gia đình. Đây là một sự tiến bộ
tích cực trong hơn nhân tạo cơ sở, nền tảng cho một gia đình bền vững và hạnh
phúc. Các vấn đề về quyền và bình đẳng giới cũng được nâng cao hơn trên cơ sở
hôn nhân tự nguyện đựa trên tình u chân chính. Trong hôn nhân, sự tự nguyện
thể hiện ở hai vấn đề: kết hôn và li hôn. Những người yêu nhau tự nguyện và được
tự đo kết hôn theo đúng luật pháp quy định; quyền ly hơn chính đáng của các cặp
vợ chồng cũng được đảm bảo bằng pháp luật, điều này thể hiện tinh thần, trách
nhiệm cao của cá nhân đối với người mình yêu và đối với việc chăm lo xây đựng
gia đình hạnh phúc, ấm no và cả trách nhiệm đối với xã hội. Đây là yêu cầu cần
thiết để đảm bảo cho việc xây đựng gia đình trong sáng, bền vững, hạnh phúc.
Thực hiện theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng tức là hôn nhân đựa trên
cơ sở tình u chân chính là khơng có sự chia sẻ với người thứ ba. Sự chung thủy
trong hôn nhân là điều kiện cần thiết để đuy trì sự ổn định, bền vững và tin tưởng
lẫn nhau trong gia đình cũng như trong quan hệ vợ - chồng. Điều này cịn thiết lập
cho đơi vợ chồng một sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ với mọi mặt đời sống
gia đình, là tiêu chí để xây đựng gia đình mới hiện nay với niềm thương yêu, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Ngồi ra, bình đẳng vợ chồng là điều kiện để xây đựng
những mối quan hệ bình đẳng khác trong gia đình (bình đẳng giữa cha mẹ và con
cái, bình đẳng giữa các thành viên và khơng phân biệt giới tính…).
Ngồi những yếu tố trực tiếp và cơ bản trên, việc xây đựng gia đình trong thời
kì mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay còn phải đựa trên cơ sở pháp
luật Nhà nước, chuẩn mực của xã hội hiện tại … Thực tế hiện nay cho thấy việc
xây đựng gia đình ở nước ta hiện nay đã có nhiều biến chuyển rất tích cực và phù
hợp với xu thế chung của thời đại mới.


CHƯƠNG II: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIA ĐÌNH


Trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, gia đình ln là tế
bào của xã hội, vì thế, việc xây dựng gia đình hiện nay ở nước ta có vai trị hết sức
to lớn.
2.1. Thực trạng
Trong bối cảnh hiện nay, gia đình Việt Nam đang đứng trước những thời cơ
và thách thức mà chúng ta cần hết sức quan tâm
2.1.1. Thời cơ
Gia đình Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận: Về cơ bản,
gia đình Việt Nam hiện nay vẫn là mơ hình gia đình truyền thống đa chức năng.
Các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng kinh tế; chức năng tái sản xuất
con người và sức lao động; chức năng giáo dục - xã hội hóa; chức năng tâm - sinh
lý, tình cảm… được phục hồi, có điều kiện thực hiện tốt hơn và có vai trị đặc biệt
quan trọng không chỉ đối với từng thành viên gia đình mà cịn tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Chức năng của gia đình
được đề cao cũng có nghĩa gia đình đang có vai trị và vị thế quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn
được bảo tồn và phát huy như: tình yêu lứa đơi trong sáng; lịng chung thủy, tình
nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh vô tận của cha mẹ với con cái; con cái
hiếu thảo với cha mẹ; con cháu kính trọng, biết ơn và quan tâm tới ơng bà, tổ tiên;
tình yêu thương, chăm lo và đùm bọc anh em, họ hàng; đề cao lợi ích chung của gia
đình; tự hào truyền thống gia đình, dịng họ. Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng
tiếp thu nhiều tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá
nhân; tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi người; tơn trọng lợi ích cá nhân;
dân chủ trong mọi quan hệ; bình đẳng nam nữ; bình đẳng trong nghĩa vụ và trách
nhiệm; bình đẳng trong thừa kế; không phân biệt đối xử đẳng cấp, thứ bậc giữa con
trai và con gái, giữa anh và em... Đó chính là cùng với những đặc trưng của gia



đình truyền thống được phát huy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được củng cố
và xây dựng theo xu hướng hiện đại hóa: dân chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ.
Trong bối cảnh đổi mới và toàn cầu hóa hiện nay, gia đình Việt Nam đã biến
đổi một cách toàn diện và ngày càng trở thành một thực thể hoàn thiện - năng động
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động. Thay đổi đầu tiên
và dễ nhận thấy nhất, quy mô gia đình ở Việt Nam đang ngày càng thu nhỏ. Trình
độ kinh tế xã hội phát triển, sự giao thoa hội nhập với nhiều nền văn hoá khác nhau
trên thế giới, cùng với nhịp độ của công cuộc hiện đại hố, cơng nghịêp hố đất
nước ngày càng nhanh chóng đã và đang tác động đến quy mô và nếp sống của gia
đình Việt Nam. Những mơ hình gia đình nhiều thế hệ theo kiểu “tứ đại đồng
đường”, có khi tới hơn chục người cùng chung sống trong một ngôi nhà đang dần
được thay thế bằng mơ hình gia đình ít người, thường chỉ có hai thế hệ cha mẹ-con
cái hay có thể đến thế hệ thứ ba, rất hiếm thấy gia đình có 4-5 thế hệ cùng chung
sống, mặc dù tuổi thọ trung bình ngay nay cao hơn trước rất nhiều. Gia đình Việt
Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố
mẹ) và con cái mà họ sinh ra. Hầu hết các gia đình trí thức, viên chức nhà nước,
cơng nhân cơng nghiệp, gia đình qn đội, cơng an đều là gia đình hạt nhân. Xu
hướng hạt nhân hóa gia đình ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu
điểm và lợi thế của nó. Trước hết gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập,
gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình
hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành
viên trong gia đình khoảng khơng gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá
nhân. Cá nhân tính được đề cao. Trong xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân
được coi là một yếu tố biểu hiện chất lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá
nhân được gia đình tạo điều kiện ni dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách sống,
tính cách, năng lực sáng tạo riêng khiến cho mỗi người đều có bản sắc. Đó cũng
chính là con người mà sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đang
cần đến. Theo số liệu của các cuộc điều tra dân số qua các năm cho thấy, qui mô



gia đình Việt Nam đã giảm từ mức trung bình 5,22% người/hộ năm 1979 xuống
còn 4,61 người/hộ năm 1999 và đến thời điểm này cịn có thể ít hơn nữa.
Theo phân tích của một số nhà xã hội học, sự thu nhỏ quy mơ gia đình nói
trên đang tạo thêm nhiều điều kiện thúc đẩy sự bình đẳng giới, đời sống riêng tư
của con người được coi trọng hơn, giảm bớt những mâu thuẫn và xung đột phát
sinh từ việc chung sống trong gia đình nhiều thế hệ. Việc sinh ít con đã trở nên phổ
biến trong các gia đình, cả ở nông thôn và thành thị. Điều này giúp phụ nữ sống
bình đẳng hơn với nam giới, có điều kiện học hỏi nâng cao trình độ, trẻ em được
chăm sóc tốt hơn. Bình đẳng giới trong gia đình là một nét mới trong biến đổi của
gia đình Việt Nam và đã thu hút sự quan tâm, đồng tình thực hiện của cả xã hội. Đó
là người phụ nữ ngày càng có vai trị quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất, tiếp
cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng
các lợi ích, phúc lợi gia đình; đồng thời, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã
hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng cơng việc nội trợ gia đình đối với người phụ
nữ, góp phần thiết thực tạo điều kiện và cơ hội giúp phụ nữ phát huy mọi tiềm năng
của mình trong hội nhập và phát triển.
Tuy vậy, quy mơ gia đình thu nhỏ cũng có nhiều điểm yếu nhất định. Chẳng
hạn, do mức độ liên kết thuyết minh giảm sút và sự ngăn cách không gian, giữa các
gia đình nên khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế. ảnh
hưởng của thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa
truyền thống trong gia đình. Dù vậy, gia đình hạt nhân vẫn là loại hình khá phổ
biến ở nước ta hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong các xã hội
công nghiệp - đô thị phát triển.
Một kết quả nữa đáng mừng là kinh tế gia đình đang rất phát triển. Ngân sách
hộ gia đình là một trong ba bộ phận quan trọng của đất nước (ngân sách gia đình,
ngân sách nhà nước, ngân sách doanh nghiệp. Theo khảo sát của Tổng cục Thống
kê năm 2002, thu nhập bình quân của các hộ gia đình là xấp xỉ 357.000



đồng/người/tháng; Chi tiêu bình qn 268.400 đồng/người/tháng; Hộ có nhà kiên
cố đạt 17,2%; bán kiên cố 58,3%; các loại nhà tạm, nhà khác 24,6%; Hộ có đồ
dùng lâu bền đạt 96,9% (có ơ-tơ 0,05%; có xe máy 32,3%; máy điều hòa nhiệt độ
1,13%; máy giặt 3,8%…); Tỉ lệ nghèo chung 28,9%, nghèo lương thực – thực
phẩm 9,96%.
Như vậy, thu nhập bình quân (người/tháng) của hộ gia đình tăng 21,1% so với
năm 1999 (bình quân tăng 10%/năm); nếu loại trừ yếu tố tăng giá còn tăng 8,6%,
cao hơn mức tăng GDP. Thu nhập bình quân ở khu vực thành thị đạt 626.000 đồng
(tăng 21,1%), ở khu vực nông thôn đạt 276.000 đồng (tăng 22,5% - tăng cao hơn
thành thị). Đây chính là nguyên nhân làm cho hệ số thu nhập thành thị/nơng thơn
giảm xuống cịn 2,3 lần. Tính thu nhập theo vùng kinh tế, 7/8 vùng tăng so với thời
điểm năm 1999, trong đó có 2 vùng tăng cao hơn cả nớc là Đông Nam Bộ (623.000
đồng) và vùng đồng bằng Sông Cửu Long (373.200 đồng).
Tuy thu nhập mang tầm quan trọng hàng đầu, nhưng chi tiêu mới phản ảnh
được mức sống thực tế của cư dân và của hộ gia đình. Bình quân tổng chi tiêu cho
đời sống (người/tháng) đạt 268.000 đồng, tăng 21,3% so với năm 1999 (tăng trung
bình 8,6%/năm và cao hơn tốc độ tăng 6,6% của thời kỳ 1996-1999). Đây là tốc độ
tăng khá, là một trong những nguyên nhân góp phần làm kinh tế tăng trưởng cao
trong vài năm qua.
Cùng với thu nhập và chi tiêu tăng lên, các điều kiện về nhà ở, tiện nghi và đồ
dùng lâu bền được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ hộ ở nhà tạm giảm nhanh từ 51% năm
1992-1993 xuống 26% năm 1997-1998 và còn 24,5% năm 2001-2002. Tỉ lệ có nhà
kiên cố và bán kiên cố tăng lần lượt từ 49% lên 74% và 75,5%. Tỉ lệ hộ sử dụng
nước sạch được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ hộ được dùng điện cũng tăng nhanh (từ
49% năm 1992-1993 lên 86% năm 2001-2002).
Nhờ tăng thu nhập và chi tiêu nên tỉ lệ hộ nghèo giảm. Đây là một trong
những kết quả được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, việc nền kinh tế



của ta đang chuyển sang cơ chế thị trường thì việc chênh lệch mức sống và khoảng
cách giàu nghèo khó tránh khỏi. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 1 và nhóm 5 tại
thời điểm năm 1999 là 8,9 lần, thì năm 2001-2002 là 8,1 lần; một số vùng còn giảm
mạnh hơn, đặc biệt là Tây Nguyên. Hệ số GINI (hệ số đánh giá bất bình đẳng và
phân hóa giàu nghèo - hệ số 0: khơng có sự bất bình đẳng; hệ số 1: có sự bất bình
đẳng tuyệt đối) cho thấy sự bất bình đẳng trong thu nhập tăng lên (từ 0,39 năm
1999 lên 0,42 vào năm 2002).
Tích lũy đầu tư: Hiệu số thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người cả nước là
89.000 đồng/tháng (1.070.000 đồng/năm). Do đó, tích lũy trong khu vực hộ gia
đình sẽ là 85.000 tỉ đồng. Lượng vốn đưa vào đầu tư chưa được 50%, một phần còn
lại đưa vào đầu tư gián tiếp dưới hình thức tiết kiện, mua trái phiếu, kỳ phiếu kho
bạc… Tuy nhiên vẫn còn một lượng tiền lớn (ước 25-30 nghìn tỉ đồng) chưa được
huy động vào đầu tư, còn đọng trong dân dưới dạng mua vàng hoặc bất động sản.
Đó là số liệu của 1 năm; nếu xét theo số hiện có (gộp cả tích lũy của nhiều năm
trước) thì nguồn vốn chưa được huy động có thể lên tới hàng chục tỉ USD.
Có thể nói, Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước
đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hố, xã
hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ
gia đình ngày càng phát triển và thực sự đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Phong trào xây dựng đời sống văn hố mới ở cơ sở phát triển, góp phần
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Cơng tác xố đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thốt nghèo và nâng cao mức sống.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn,
gia đình có cơng với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Cơng tác dân số, kế hoạch hố gia đình, cơng tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng gia đình hạnh
phúc và xã hội ngày càng ổn định, phát triển. Hiện nay, gia đình Việt Nam đang


được xây dựng với những giá trị nhân văn tiến bộ, tiêu biểu là bình đẳng giới và

quyền trẻ em. Vai trò và quyền của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngồi xã
hội ngày càng được nâng cao. Quyền trẻ em đã được pháp luật thừa nhận, đang
được gia đình và xã hội thực hiện khá hiệu quả. Luật Hơn nhân và Gia đình năm
2000 quy định ngun tắc hơn nhân bình đẳng và tiến bộ. Q trình đổi mới càng
củng cố niềm tin và trách nhiệm của xã hội và mỗi cá nhân đối với gia đình. Việc
thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình năm 2002 đã đánh dấu một bước
chuyển mới trong nhận thức về gia đình và cơng tác gia đình. Từ năm 2001, ngày
28/6 trở thành Ngày Gia đình Việt Nam càng khẳng định vai trị của gia đình đối
với xã hội và xã hội đối với gia đình.
2.1.2. Thách thức
Do q trình đơ thị hóa, nơng dân di cư ra thành thị và phi nơng nghiệp hóa
nơng thơn sẽ diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước đây. Những tác
động này có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống gia đình, đặc biệt là các gia đình
nơng thơn. Cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ gia đình, định hướng giá trị sẽ có
những thay đổi theo. Quá trình này làm xuất hiện một số loại hình gia đình mới,
khơng theo truyền thống, tạo ra tính đa dạng của cấu trúc và các khn mẫu gia
đình.
Một số chức năng của gia đình truyền thống bị suy giảm, và nảy sinh một số
chức năng mới... có nghĩa là sẽ diễn ra tình trạng khơng ổn định của gia đình. Sự
khơng ổn định là tất yếu khách quan, và là sự vận động không ngừng của gia đình.
Nhưng ở thập kỷ đầu của thế kỷ 21 này, xã hội Việt Nam có những biến chuyển
cực kỳ nhanh so với các thời kỳ trước đó. Các vấn đề sau đây sẽ thể hiện rất rõ:
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam lẫn nữ có xu hướng được nâng
cao lên (nghĩa là họ kết hôn ở lứa tuổi cao hơn), tình trạng tảo hơn lại vẫn phổ biến
ở một số vùng nhất là khu vực miền núi. Đây là một nghịch lý. Chỉ trong một kỳ
làm điều tra dân số với khoảng cách 10 năm, tuổi nam kết hôn lần đầu đã biến đổi


từ 24,5 tuổi lên 25,5 tuổi và của nữ là từ 23,2 tuổi lên 24 tuổi. Bằng vào quan sát xã
hội, chúng ta ai cũng nhận thấy cả nam và nữ thanh niên đều không hề vội vã bước

vào đời sống hôn nhân, đã xuất hiện một tâm lý ngại ngùng khi lập gia đình bởi
những vấn đề xã hội tiềm ẩn trong đó, hơn nữa và đây mới là một thực tế: họ cần
có một căn bản nghề nghiệp vững chắc, một tương lai mà họ chủ động hướng tới,
một sự bình đẳng nam nữ được thiết lập trên cơ sở chủ động về kinh tế chứ không
phải là sự thúc ép của việc có gia đình khi vừa bước qua tuổi vị thành niên như
trước nữa. Thế nhưng với đồng bào dân tộc thiểu số, sự trưởng thành về mặt sinh lý
đồng nghĩa với tuổi lấy vợ lấy chồng. Cũng phải nói thêm rằng Luật Hơn nhân và
Gia đình đến với họ là rất hạn chế. Trong một điều tra 37% người được hỏi đã trả
lời chưa từng biết đến Luật Hơn nhân, 63% trả lời có nghe nói nhưng khơng biết
Luật quy định những gì, và 46,71% coi chuyện tảo hơn là bình thường.
Hàng triệu cuộc hơn nhân khơng đăng ký: Chưa đăng ký kết hơn có nghĩa là
cuộc hơn nhân đó khơng có tính pháp lý. Hiện tượng sống chung đang là một hiện
tượng xã hội xuất hiện trong khu vực sinh viên, công nhân ở các khu công nghiệp
tập trung, và ở các đô thị. Nhóm hơn nhân nào mà sự chung sống của họ được họ
hàng, cộng đồng thừa nhận thì được gọi là hơn nhân thực tế. Nhóm hơn nhân nào
chưa được họ hàng, cộng đồng thừa nhận thì gọi là chung sống trước hôn nhân.
Điều không rõ ràng này là một thực tế sẽ còn tồn tại khá dài và cũng chưa thể nói
ngay rằng nó sẽ vận động như thế nào trong tương lai. Ðó là vấn đề thứ hai của gia
đình Việt Nam hiện đại. Nó liên quan đến vấn đề thứ ba là quan hệ tình dục trước
hơn nhân. Vấn đề này liên quan đến sức khỏe và lối sống vị thành niên.
Hiện tượng chung sống trước hôn nhân xuất hiện nhiều ở giới trẻ sống xa gia
đình. Hiện tượng này đang gia tăng cho thấy gia đình đang mất dần chức năng kiểm
sốt tình dục. Việt Nam là một trong 5 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.
Hàng năm có chừng 1,4 triệu ca. Một điều tra cho biết: 22,2% thanh niên chưa lập


gia đình đã có quan hệ tình dục, 21,5% nam thanh niên đã có quan hệ tình dục với
gái mại dâm; 30% ca nạo phá thai là nữ chưa lập gia đình.
Một vấn đề khác nữa cũng đáng báo động: Số vụ ly hôn tăng lên nhanh qua
các năm, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Tỷ lệ ở góa, ly hơn, ly thân là 2,7% đối

với nam và 13% đối với nữ. Các nguyên nhân dẫn đến ly hơn là mâu thuẫn về kinh
tế, mất tích, một bên ở nước ngồi, hoặc bị xử lý hình sự, hoặc có vợ lẽ, hoặc
khơng có con, hoặc bị lừa dối...
Chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế khác: Bạo lực trong gia đình. Và
đó là ngun nhân lý giải vì sao phần nhiều phụ nữ là người đứng đơn xin ly hơn.
Bạo lực trong gia đình rất đa dạng: bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần. Ngăn chặn
việc này bằng vào giáo dục là chưa đủ, mà phải có sự kiểm sốt của pháp luật
nghiêm khắc. Việc này chúng ta chưa làm được là bao.
Gần đây, tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình và tội phạm trẻ em có ngun
nhân từ gia đình đang tăng mạnh. Chỉ tính số trẻ em phải vào trại giáo dưỡng trong
sáu năm, từ 1996 đến 2002 đã tăng tám lần. Sự giảm sút vai trị của gia đình trong
giáo dục trẻ em, truyền thống, kỷ cương nền nếp trong gia đình bng lỏng, đã làm
cho chức năng kiểm sốt trẻ em mất hiệu lực. Ngồi ra, có thể kể một số vấn đề
như: tâm lý chuộng con trai cịn phổ biến; quy mơ gia đình nhỏ với việc bảo đảm
cuộc sống của người già, trách nhiệm của bố, mẹ với con cái... Những điều này sẽ
có áp lực mạnh đến gia đình và tất yếu làm biến đổi cấu trúc gia đình.
2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã hội về vị trí,
vai trị của gia đình. Cơng tác quản lý nhà nước về gia đình chưa theo kịp với sự
phát triển của đất nước. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được xử lý kịp thời.
Các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức việc chỉ đạo cơng tác gia đình; chưa
gắn việc ổn định và phát triển gia đình với phát triển các cụm dân cư, thơn ấp.
Cơng tác nghiên cứu về gia đình chưa được quan tâm. Công tác giáo dục đời sống



×