Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

NHÌN LẠI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 80 NĂM QUA VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.53 KB, 70 trang )

TIỂU LUẬN:

NHÌN LẠI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM 80 NĂM QUA VỀ CON
ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
Phân tích q trình hình thành và phát triển đường lối tiến hành cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam 80 năm qua, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận
giải cơ sở khoa học, tính tất yếu khách quan, sự đúng đắn và sáng tạo trong quan
điểm của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát
triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, sử dụng các biện
pháp trung gian, quá độ với tư cách đường lối chiến lược lâu dài của cách mạng
Việt Nam
Nhìn lại tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam 80 năm qua, kể từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay (ngày 3 tháng 2 năm 1930 – ngày 3 tháng 2 năm
2010), với những mốc lịch sử đáng ghi nhớ, có thể nói, con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán của Đảng.
Tại Đại hội thành lập Đảng (ngày 3 tháng 2 năm 1930), trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng, khi xác định đường lối của cách mạng Việt Nam, Đảng đã khẳng định chủ
trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản"(1).
Trên cơ sở lý luận nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người


sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định
rằng, với Việt Nam, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khơng thể là con đường
nào khác ngồi con đường cách mạng vơ sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa; rằng để sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi
đến thành cơng, để cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đi đến thắng
lợi cuối cùng, "trước hết phải có đảng cách mệnh"; rằng mục đích của Đảng là "làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; rằng "Đảng


Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp đấu tranh
để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản"(2).
Cụ thể hoá đường lối cách mạng mà Chánh cương vắn tắtcủa Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định, tại Đại hội II (tháng 2 năm 1951), trong Chính cương của
Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam và khẳng định: “Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ
nghĩa xã hội"(3) (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Tại Đại hội III (tháng 9 năm 1960), Đảng đã xác định đường lối chung của miền Bắc
trong thời kỳ quá độ là "đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội", củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
hồ bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
hồ bình trong phạm vi khu vực và trên thế giới.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước ta đã thống nhất, cả dân tộc Việt Nam cùng
bước vào một giai đoạn cách mạng mới - tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước. Thế nhưng, khi bước vào giai đoạn cách mạng này, thực
trạng kinh tế - xã hội ở hai miền Nam – Bắc cịn có sự khác nhau đã đặt Đảng trước sự
lựa chọn bước phát triển tiếp theo cho cách mạng Việt Nam nói chung, ở mỗi miền
nói riêng. Trong đường lối chung của cách mạng Việt Nam là
thực hiện con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, chúng ta
cịn phải tiếp tục hồn thành về cơ bản cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; ở miền Bắc
có nhiệm vụ cụ thể là tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cải tiến công
tác thương nghiệp, giá cả, tài chính,... Mặc dù ở hai miền đất nước cịn có những
nhiệm vụ cụ thể riêng, song trên cơ sở phân tích nội dung cơ bản của thời đại, tại Đại
hội IV (tháng 12 năm 1976), Đảng ta đã xác định: "Trong thời đại ngày nay, khi độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp
công nhân giữ vai trị lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân


chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"(4).

Với tư tưởng quán xuyến này, Đảng đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng
đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đó là hồn tồn phù hợp với thực tiễn phát triển
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Song, do chúng ta
bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở của một nền kinh tế còn rất lạc hậu, cơ
sở vật chất - kỹ thuật còn non yếu, phần lớn lao động vẫn là thủ công, sản xuất xã hội
chưa bảo đảm được nhu cầu, Đảng đã khẳng định: "Nước ta
vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"(5). Với
nền kinh tế đó, để nâng cao đời sống nhân dân, Đảng đã đưa ra chủ trương tập trung
phát triển sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội cho bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm thấp, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa là con đường hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân
loại. Do vậy, việc thực hiện con đường phát triển này đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của
nhân tố chủ quan. Trên cơ sở của đường lối chung, chúng ta cần phải cụ thể hố cho
phù hợp để từ đó, xác định bước đi, cách thức thực hiện trong thực tiễn. Song, trong
q trình thực hiện con đường phát triển đó, trên thực tế, chúng ta đã mắc khơng ít sai
lầm, khuyết điểm, như "chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ", chưa thực sự nắm chắc
quy luật của quá trình tiến từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chưa
có những hiểu biết đầy đủ về thực tế và cịn thiếu, thậm chí rất thiếu kiến thức kinh
tế,... Những sai lầm chủ quan đó cùng với hoàn cảnh khách quan của một nền sản xuất
nhỏ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đã
đưa nước ta bước vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trước bối cảnh hiện thực đó, tại Đại hội V (tháng 3 năm 1982), trên cơ sở tiếp tục
khẳng định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã chỉ rõ hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong chỉ đạo thực tiễn, do chưa quán triệt những điều đã được khẳng định trong chiến
lược phát triển và kế hoạch thực hiện, do vẫn chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng
nóng vội, chủ quan, duy ý chí và cùng với đó là bảo thủ, trì trệ, chúng ta lại tiếp tục

vấp phải sai lầm trong việc xác định cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế


quản lý. Những sai lầm đó đã đẩy nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội đó, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội đã
giảm sút ở không ít người, thậm chí có người cịn quy kết sai lầm đó là ở việc lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Bác bỏ sự quy kết đó, Đảng ta đã khẳng định:
Không phải sai lầm dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội là ở việc lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế một mơ hình phát triển kinh
tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành khơng thích hợp. Thực
tiễn khủng hoảng kinh tế - xã hội đó đã đặt ra trước chúng ta nhiệm vụ nhận thức lại
con đường phát triển, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về mô hình phát triển
kinh tế, về cách thức tiến hành. Nhiệm vụ bức thiết này đã được chúng ta giải quyết
tại Đại hội VI của Đảng.
Tại Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) - Đại hội đổi mới, con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” của cách mạng Việt Nam đã
được Đảng ta chính thức khẳng định với việc sử dụng cụm từ "bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa". Khi đó, với nhận định rằng, ngày nay, chúng ta "đã có những
điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta",
Đảng đã khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ
quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện
chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. "Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn" (chúng tơi nhấn mạnh - Đ.H.T.). Đó
là cả một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhằm xây dựng từ
đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng đó đã được Đảng xác định là:
"Nắm vững chun chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố - Đ.H.T), thực hiện cơng

nghiệp hố xã hội chủ nghĩa"(6).
Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng đó đã được Đảng ta cụ thể hoá hơn tại Đại
hội VII (tháng 6 năm 1991). Và, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khố VII, khi nhận định nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh quốc tế đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc, đặc biệt là với sự sụp


đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã khiến cho phong trào cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới lâm vào thoái trào tạm thời, chủ
nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; lịch sử thế giới đang trải qua
những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội
vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử, Đảng đã tiếp tục khẳng định con đường cách
mạng nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn”.
Rằng, "nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" - đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc.
Với khẳng định đó, Đảng ta đã chỉ rõ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức
“phát triển rút ngắn” đòi hỏi chúng ta "phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, tìm tịi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội" nhằm mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa phồn vinh. "Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thơng qua đổi mới
tồn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng
sau"(7).
Đường lối cách mạng Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được

thể hiện trong Cương lĩnh đó là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” đã một lần nữa được Đảng ta nhấn mạnh
tại Đại hội VIII (tháng 7 năm 1996).
Tại Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra đánh giá tổng quát với nhận định rằng, công cuộc
đổi mới trong 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mặc dù vẫn còn một số
mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hố đã cơ bản hồn thành. Thành cơng bước đầu đó


đã cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Và hơn nữa, Đảng ta còn nhấn mạnh, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Rằng, đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội
và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Đổi
mới là kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt,
sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội IX
(tháng 4 năm 2001), Đảng ta khẳng định thực tiễn phong phú và những thành tựu thu
được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn củaCương lĩnh được thông
qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới.
Rằng, con đường cách mạng Việt Nam vẫn là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
theo phương thức “phát triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đánh giá tổng quát 20 năm đổi mới, tại Đại hội X (tháng 4 năm 2006), Đảng ta đã
khẳng định: sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, tồn dân và

tồn qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới
cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản. Và, qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta
càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo của Cương lĩnh mà ở đó, con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” đã được Đảng xác định là
đường lối chiến lược lâu dài.
Như vậy, có thể khẳng định, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức


“phát triển rút ngắn” (“bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”) là đường lối
cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự vận dụng đúng đắn và
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ
nghĩa; là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Chúng ta khẳng định đó là đường lối cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam, bởi như trên chúng tơi đã trình bày, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ngay từ đầu đã được Đảng ta và người sáng lập, rèn
luyện Đảng ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận là con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam. Từ Chánh cương vắn tắt được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng
và trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó đến nay, chưa bao
giờ Đảng ta xa rời đường lối cách mạng đó.
Chúng ta khẳng định đó là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, bởi quan điểm đó trong tư

tưởng Hồ Chí Minh chúng ta đều đã rõ. Tư tưởng về con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một trong những tư
tưởng then chốt hợp thành tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung.
Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Và, khi xác định đặc điểm lớn nhất của Việt Nam
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Người đã
lựa chọn con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam là con đường “quá độ gián
tiếp” lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút ngắn” . Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội theo phương thức đó, theo Người, là một tất yếu, phù hợp với xu thế
khách quan của lịch sử, với xu thế của thời đại ngày nay. Người cho rằng, chúng ta bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bởi chủ nghĩa tư bản là chế độ áp bức, bóc
lột và nơ dịch con người, song bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt
bỏ mọi thành tựu văn hố, văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản;
những thành tựu đó cần phải tiếp thu, khai thác vì sự thành cơng của cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Với Người, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “không trải qua”
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và với trình độ phát triển của Việt Nam thì đó là


"tiến dần", "từ từ", "từng bước một", tiến dần từ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã
hội với nhiệm vụ quan trọng nhất là "xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội..., cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài"(8).
Theo đó, có thể nói, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cuộc đấu tranh cách
mạng phức tạp, lâu dài và gian khổ, song là con đường tất yếu, khách quan, hợp quy
luật của cách mạng Việt Nam.

Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề này đã được các
ơng trình bày rõ khi luận giải về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
và về tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội. Khi tiến hành phân tích vận mệnh lịch
sử của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn phát triển cạnh tranh tự do của nó và trong bối
cảnh sục sôi đấu tranh giai cấp và bão táp cách mạng ngay trên mảnh đất đã sản sinh
ra chủ nghĩa tư bản - ở châu Âu thế kỷ XIX -, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về khả
năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển. Song, vốn là những nhà triết học duy vật biện chứng, các ông không
bao giờ coi học thuyết, lý luận của mình là hồn chỉnh và đã xong xi hẳn, càng
khơng bao giờ các ơng coi đó là những giáo điều, tín niệm. Các ơng chỉ coi học thuyết
của mình như một sự gợi ý về phương
pháp, như một kim chỉ nam cho hành động sáng tạo cách mạng và trong nó tuyệt
nhiên khơng có sẵn và đầy đủ mọi câu trả lời cho tất cả những sự biến đổi sinh động
của thực tiễn cuộc sống. Và do vậy, một khi thực tiễn cách mạng vượt qua những kiến
giải khoa học đã có và làm cho một số luận điểm nào đó trong học thuyết của các ơng
trở nên khơng cịn thích hợp, các ơng đã kịp thời tự phê phán và đưa ra những giải
thích, những luận chứng bổ sung mới.
Nói rõ hơn về điều này, chúng tơi xin lưu ý rằng, sau Công xã Pari, từ 1872 đến 1893,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã 7 lần viết lời tựa mới khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
được tái bản với mục đích giải thích thêm, bổ sung thêm những luận điểm mới cho lý
luận của các ông về chủ nghĩa xã hội và cách mạng xã hội chủ nghĩa để tác phẩm
mang tính Cương lĩnh này của giai cấp vơ sản tồn thế giới
khơng mất đi sức sống và giá trị cách mạng của nó. Và, quan niệm về khả năng thắng
lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các ơng cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, khi
tổng kết thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp trong những năm 1848 - 1850, bản thân


C.Mác đã đưa ra dự báo về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa không
phải ở những nước tư bản phát triển, mà ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát
triển hơn. Khi chứng kiến sự thất bại của Công xã Pari và tiến hành tổng kết cuộc thực

nghiệm vĩ đại này trong lịch sử cách mạng nhân loại, C.Mác đã nói đến khả năng chưa
chín muồi cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, với học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, khi tiến
hành phân tích hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã khẳng định sự
phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một q trình lịch sử - tự nhiên, song
khơng phải quốc gia dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử, và do những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định,
một quốc gia dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái nhất định nào đó. C.Mác cịn
lưu ý rằng, một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên trong sự vận
động của nó, cũng khơng thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên ấy hay
dùng sắc lệnh để xố bỏ, nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đ" au đẻ".
Trong Thư gửi ban biên tập tờ "Ký sự nước nhà", khi nói về nước Nga, về khả năng
nước Nga có thể "khơng cần phải trải qua
những đau khổ của chế độ tư bản", C.Mác đã nói đến cơ hội tiến lên chủ nghĩa xã hội
như một khả năng lựa chọn mà lịch sử đã mở ra, đã dành cho nước Nga. Sau này,
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong Lời tựaviết cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản bằng tiếng Nga (năm 1882), đã khẳng định nước Nga mới là nước "đang đi
tiên phong trong phòng trào cách mạng châu Âu", cách mạng Nga mới là cuộc cách
mạng "báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây"; với cuộc cách mạng này
và khi được sự ủng hộ, "bổ sung" bởi cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu thì nước Nga
có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Lời
khẳng định này còn được Ph.Ăngghen nhắc lại một lần nữa 8 năm sau đó, khi ơng viết
Lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Đức (năm 1890) tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Và 4 năm sau, trong Lời bạt viết cho tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga,
Ph.Ăngghen lại thêm một lần nữa khẳng định khả năng nước Nga có thể "rút ngắn một
cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh
được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu... phải trải qua".
Hơn nữa, ơng cịn khẳng định rằng, "con đường phát triển rút ngắn như vậy... không
chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền
tư bản chủ nghĩa"(9) (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).



Theo đó, có thể nói, khi vẫn giữ quan niệm về khả năng thắng lợi đồng thời của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã đưa ra những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó không phải ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, mà ở các nước kém phát triển, thậm chí ở các
nước đang trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa và về con đường “phát
triển rút ngắn” không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các nước này.
V.I.Lênin, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi phân tích chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - giai đoạn phát triển độc quyền của nó, và với việc phát
hiện ra quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản,
đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một số nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí ở một nước, và hơn nữa, đó có thể là
nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển nhất.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, vào năm 1920, V.I.Lênin đã nói đến
con đường phát triển khơng qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và khả năng quá
độ lên chủ nghĩa xã hội "không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa" của
các nước lạc hậu, tiểu nông, chậm phát triển(10). Và, với kinh nghiệm của những năm
thực hiện "chính sách kinh tế mới" (NEP), ông đã đi đến kết luận khẳng định rằng, con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ơng cho rằng, hình thức "quá độ trực tiếp" là
con đường "phát triển tuần tự" từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cịn hình thức
"q độ gián tiếp" là con đường "phát triển rút ngắn", bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, con đường từ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Ở đây, cần lưu ý rằng, với tư cách là những loại hình khác nhau của sự phát triển xã
hội, "phát triển tuần tự"hay "phát triển rút ngắn"cũng đều phải tuân theo quy luật khách
quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Và, trong sự "phát triển tuần tự"
cũng có thể có khả năng "rút ngắn" nào đó, nghĩa là con đường phát triển này khơng
nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi mới tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Nước Nga với "chính sách kinh tế mới" chính là một trường hợp

như vậy và V.I.Lênin coi đó là con đường "phát triển rút ngắn trong tuần tự". Con
đường “quá độ gián tiếp” theo phướng thức "phát triển rút ngắn" lại khác. Ở con đường
này không diễn ra sự "phát triển tuần tự", mà diễn ra theo kiểu bỏ qua, “không kinh
qua” chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ các quan hệ phong kiến
hay tiền tư bản chủ nghĩa.


Theo đó, chúng ta hồn tồn có thể khẳng định rằng, với Việt Nam, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường "phát triển rút
ngắn" và do vậy, việc áp dụng các biện pháp "quá độ gián tiếp" là một tất yếu khách
quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, phù hợp với nguyện
vọng, khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh mà Đảng ta đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước. Quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, về thực chất, là con
đường "phát triển rút ngắn"với các biện pháp q" uá độ gián tiếp" nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Song, khi nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường "phát triển rút ngắn", trước hết
cần phải xác định rõ "rút ngắn" là thế nào và có thể "rút ngắn" giai đoạn nào trong quá
trình phát triển ấy.
Chúng ta đều biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là một
quan hệ sản xuất phù hợp. Sự ra đời quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực
lượng sản xuất là tất yếu, khách quan và toàn bộ các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ
sở kinh tế của xã hội mà trên đó, dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính
trị với những hình thái ý thức xã hội tương ứng. Hay nói cách khác, ứng với mỗi giai
đoạn phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể.
Sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong tiến trình phát triển lịch sử
nhân loại là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự vận động đi lên của xã hội loài người

được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng là quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất xã hội ngày một phát triển khiến cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở
thành xiềng xích cản trở sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất và khi đó, bắt
đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên, song ở phạm vi một quốc gia dân tộc , do quy luật phát
triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, do cách mạng xã hội có thể có những bước
phát triển đột biến, nhảy vọt, có thể diễn ra sự "bỏ qua"hay r"út ngắn" một hình thái kinh
tế - xã hội nào đó, kể cả việc "bỏ qua"hay "rút ngắn"một giai đoạn phát triển nào đó


trong một hình thái kinh tế - xã hội. Song, dù là p" hát triển
tuần tự"hay p" hát triển rút ngắn"cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản
xuất, nghĩa là không thể "bỏ qua" được sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự
"phát triển rút ngắn" đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc,
thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và do vậy, về thực chất, "phát triển rút
ngắn"chỉ có thể là r"út ngắn"các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên
tục của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển
mạnh mẽ, phát triển với tốc độ vũ bão của khoa học và cơng nghệ sản xuất, trình độ sản
xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng
lên đáng kể và đến lượt mình, nó cho phép con người có thể “rút ngắn” các giai đoạn
phát triển hay hình thức cơng nghệ của sự phát triển lực lượng sản xuất. Song, theo quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sự phát triển của lực lượng sản xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và
do vậy, một khi đã không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
tiến trình "phát triển rút ngắn", thì về nguyên tắc, cũng không thể bỏ qua được các
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Thế nhưng,
trong tiến trình "phát triển rút ngắn", nhờ có sự phát triển vượt bậc, nhờ tạo ra được sự

phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất mà người ta có thể làm biến đổi các quan hệ
sản xuất, thậm chí cịn có khả năng xuất hiện những hình thức quan hệ sản xuất mới,
tiên tiến trong mỗi bước nhảy vọt ấy của lực lượng sản xuất.
Như vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự "phát triển rút ngắn", sự phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản xuất là cái quy định sự ra đời của một hệ thống các quan hệ sản
xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Hệ thống các quan
hệ sản xuất này, ngoài những quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế - xã hội đang
hướng tới - những quan hệ sản xuất đóng vai trị nền tảng, quy định xu hướng vận động
và phát triển của xã hội, cịn có cả những quan hệ sản xuất thuộc hình thái kinh tế - xã
hội đã qua nhưng vẫn còn tác dụng phối hợp điều tiết các mối quan hệ của con người
và qua đó, cịn có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương ứng với một
cơ sở kinh tế như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm
bảo cho sự vận hành và phát triển của xã hội theo hướng hiện thực hố hình thái kinh tế
- xã hội đang hướng tới.
Theo đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa


theo phương thức "phát triển rút ngắn" nhằm mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự phát triển
nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở một hệ thống các quan hệ sản xuất mà trong
đó, các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dần chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế
quốc dân, phải có nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa; mà bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa lại có nghĩa là ở đó, khơng cịn tồn tại cơ sở kinh tế cho việc xác lập kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa và do vậy, cũng là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Tương tự như vậy, do không thể bỏ qua sự
phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, thì đương nhiên, cũng khơng thể bỏ qua được
những thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, nhất là những thành tựu khoa học và cơng nghệ.
Điều đó cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn đúng khi khẳng định con
đường đi lên, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là "sự phát triển quá độ

lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền tảng kinh tế hiện đại"(11) (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa với phương thức "phát triển rút ngắn" nhằm mục tiêu "phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" trong bối cảnh đất nước vẫn cịn
trong tình trạng của một nước kém phát triển, mặc dù 25 năm đổi mới đã đem lại cho
chúng ta một sự phát triển đáng khích lệ; trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế đã trở
thành xu thế khách quan, khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức
có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, để
đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chúng
ta không thể không đẩy nhanh tiến trình “cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát
triển kinh tế tri thức”(12).
Theo đó, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa theo phương thức "phát triển rút ngắn", về phương diện
kinh tế, chính là q trình thực hiện con đường “đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại


hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo cách r"út ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt".
Cuối cùng, do q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên chúng ta hồn tồn có thể khẳng định Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đúng khi xác địnhcách mạng Việt Nam phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
q độ.

Q độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua hay "không trải qua", "không kinh qua" giai đoạn
phát triển chủ nghĩa tư bản đầy đủ - đó là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Quan điểm đó được hình thành
trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là
con đường "quá độ gián tiếp" theo phương thức “phát triển rút ngắn”, là bước phát triển
tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, là con
đường phát triển phù hợp với nguyện vọng, khát vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân lao động Việt Nam, con đường phát triển nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phương thức phát triển của con đường quá độ đó là "phát triển rút ngắn". Nội dung cơ
bản của con đường quá độ đó là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và do vậy, là con đường quá độ không bỏ qua
sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và trong tiến trình phát triển của nó, có bao
hàm cả sự tiếp thu, kế thừa những thành tựu văn hoá và văn minh mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra
sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và nhanh chóng xây dựng nền kinh tế hiện
đại trong bối cảnh của thời đại ngày nay chính là con đường đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức theo cách rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong suốt tiến trình phát triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa từ một nước


nơng nghiệp lạc hậu, sản xuất hàng hố nhỏ và cho đến nay, sau 25 năm đổi mới vẫn
còn ở tình trạng của một nước kém phát triển, nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực không bao giờ là con đường bằng phẳng, dễ dàng và do vậy,

việc phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ là một tất yếu khách quan.
Bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa theo phương thức “phát triển rút ngắn” trong 25 năm lãnh đạo toàn Đảng, tồn
dân, tồn qn thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là ở đó.
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhắc lại quan điểm của
Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương thức “phát triển rút
ngắn”, thiết nghĩ, là bổ ích và cần thiết để thêm một lần nữa, khẳng định sự tất thắng
của đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo mà những thành tựu kinh tế - xã hội rất đáng tự hào của 25
năm qua là một minh chứng hùng hồn.q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998, tr.2.
(2) Hồ Chí Minh. Tồn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.5. (3) Đảng
Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng tồn tập,t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.433.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.39. (5) Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.47.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1987, tr.81.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.4, 8, 11.
(8) Hồ Chí Minh. Tồn tập, t.10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.13. (9)
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.632.
(10) Xem: V.I.Lênin. Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.295. (11) Đảng
Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị



Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87.

TriÕt học, số 2 (225), tháng 2-2010

nho giáo việt nam và văn hóa đông á

Từ THựC TIễN VĂN HọC VIệT NAM,
GóP THÊM MộT TIếNG NóI PHƯƠNG PHáP LUậN
VàO CUộC THảO LUậN QUốC Tế Về VấN Đề NHO GIáO Và Nữ QUYềN
trần nho thìn (*)
Bài viết khảo sát đề tài phụ nữ trên thực tế văn bản văn học Việt Nam từ thế kỷ
XVIII đến đầu thế kỷ XX. Giai đoạn này, bên cạnh sự xuất hiện một số nhà văn, nhà
thơ phụ nữ, đà có không ít tác giả là nhà Nho - ng-ời đàn ông viết về phụ nữ. Tuy
nhiên, tình hình khá phức tạp: có những nhà Nho bênh vực ng-ời phụ nữ, nh-ng cũng
có không ít nhà Nho đứng trên quan điểm đạo đức bảo thủ của Nho giáo lên án, đả
kích các nhân vật phụ nữ đ-ợc đề cao. Thực tế cho thấy, không thể đơn giản nhnhiều nhà nghiên cứu quốc tế đà làm, với tinh thần l-ỡng nguyên (dilemma), hoặc kết
tội đơn thuần, hoặc bênh vực một chiều Nho giáo trong vấn đề nữ quyền, mà nên
xuất phát từ tinh thần nhất nguyên luận (monism).
1. Đầu thế kỷ XX, trong xu thế chung của châu á, mà Phúc Trạch Dụ Cát
(Phukuzawa Yukichi) diễn tả là thoát á luận (thoát khỏi châu á), nhiều trí thức
vùng Đông á - hay vùng văn hóa Hán - đà tiến hành phê phán nhiều giá trị truyền thống
ph-ơng Đông, trong đó có Nho giáo. Trong các xu h-ớng phê phán Nho giáo đó, có một
xu h-ớng phê phán Nho giáo nh- một học thuyết nam quyền đàn áp nữ quyền. ở
Trung Quốc, có thể kể đến Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đ-ờng(1); ở Việt Nam, tiêu biểu là
Phan Khôi (1887-1960)(2). Việc phê phán Nho giáo đàn áp phụ nữ hiện vẫn tiếp
tục(3). ở Trung Quốc, những tiếng nói lên án gay gắt Nho giáo nh

một học thuyết đàn áp nữ quyền có khi đi đôi với cảm hứng khẳng ®Þnh


chính(3)LÃo Trang mới là học thuyết nữ quyền(4). D-ờng nh- vấn đề nữ quyền

(*) Phó giáo s-, tiến sĩ, Tr-ờng Đại học Khoa học XÃ hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
(1) Xem bài viết gay gắt của Lâm Ngữ Đ-ờng: T- t-ởng nữ quyền ở Trung Quốc cổ
đại, Feminist thought in Ancient China. In lại trong sách Chinese Women Through
Chinese Eyes. Li Yu-ning, editor. A East Gate Book M.E.Sharp, Inc.Armonk New York
London, England, 1992.
(2) Phan Kh«i (1887-1959) có thể là tác giả Việt Nam đầu tiên phê phán Nho giáo
đàn áp phụ nữ một cách hệ thống trong loạt bài Tống Nho với phụ nữ trên báo Phụ
nữ tân văn, Sài Gòn, 1931. Ông cũng là ng-ời dịch Lỗ Tấn trong các năm 1955-1956.
(Xem: Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, Lại Nguyên Ân s-u tầm, Nxb Hội nhà văn,
2007).

là điểm yếu của Nho giáo, có thể dùng nó để hạ gục Nho giáo.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Nho giáo nhiệt hiện nay, khi những giá trị Nho giáo đÃ
và đang đ-ợc xem xét lại, khi chủ tr-ơng phục h-ng Nho học với t- cách một hệ thống
giá trị tinh thần truyền thống đ-ợc nhiều học giả Trung Quốc và n-ớc ngoài quan
tâm, đà xuất hiện không ít công trình bênh vực Nho giáo trong vấn đề phụ nữ.
Nhiều học giả hiện nay cho rằng, việc kết tội Nho giáo đàn áp phụ nữ là kết quả
của cách nhìn Âu châu trung tâm luận (Eurocentrism), hay là kết quả của việc lấy
hệ giá trị của nam giới để áp đặt cho phụ nữ. Theo họ, thực ra, Nho giáo có tiềm
năng của một học thuyết nữ quyền, hay Nho giáo chính là nữ quyền (Confucianism
is feminism). Nếu nh- tr-ớc đây, khi phân tích vấn đề Nho giáo và phụ nữ, ng-ời ta
chỉ xuất phát từ khái niệm sex - giới tính (sex đ-ợc dịch sang
Trung văn là tính biệt), thì nay, nhiều nhà nghiên cứu đề xuất khái niệm
gender - giới tính xét trên ph-ơng diện xà hội (gender đ-ợc dịch sang Trung văn là

xà hội tính biệt)(5). Nh-ng, đáng tiếc lµ, sù biƯn ln cđa hä mang
tÝnh lý thut nhiỊu hơn tính thực tiễn. Chẳng hạn, Sam Crane cho rằng, phụ nữ
chăm sóc gia đình nhiều hơn nam giới, mà đạo Nho lấy gia đình suy ra đạo đức xÃ
hội và do vậy, phụ nữ gần với đạo Nhân hơn(6).
Một cách hệ thống, công trình Nho giáo và phụ nữ: một cách giải thích về mặt
triết học (Confucianism and women: a philosophical interpretation(7)) đà phân tích
đạo Nhân của Khổng Tử, phân tích mô hình triết học Âm - D-ơng và mô hình
không gian Nội - Ngoại để cho thấy sự phân công nam nữ ở Trung Quốc về ph-ơng


diện văn hóa - xà hội là hợp lý. Tác giả Li-Hsiang Lisa Rosenlee nêu lên 4
(3) Có thể kể một số sách phê phán trực tiếp hay gián tiếp việc Nho giáo đàn áp
nữ quyền trong lĩnh vực tính nh-: Vợt qua hàng rào của truyền thống nam quyền:
phê phán ý thức nam quyền trong văn học của L-u TuÖ Anh, [走出男权传 统的樊籬文学中男权 统的樊籬文学中男权
意识的批判], 刘慧英 著 著,北京,三 联书店 联书店, 1995; Giới tính và văn hóa Trung Quốc của L-u
Đạt Lâm, [],, ], 1999; Nam nhân và nữ nhân Trung Quốc
của Dịch Trung Thiên, [ ],, ], 1999, tái bản
2008.

25

nhiệm vụ của chuyên luận này: 1) nghiên cứu nguồn gốc Nho giáo và đạo
Nhân;(7)2) nghiên cứu sơ đồ t- duy của ng-ời Trung Quốc do Nho giáo trình bày, nhâm/d-ơng, nội/ngoại để ứng dụng vào tìm hiểu vị trí ng-ời phụ nữ; 3) nghiên cứu
quan hệ qua lại giữa Nho giáo và hệ thống giới của Trung Quốc, vai trò của Nho giáo
trong biện minh và duy trì cấu trúc gia đình phụ quyền của xà hội Trung Quốc, xem
xét ng-ời phụ nữ không phải với t- cách nạn nhân, mà là ng-ời cùng tham gia duy trì
thực tiễn ph©n biƯt giíi ë Trung Qc, tøc xem xÐt ng-êi phụ nữ không phải nh- một
thực thể tự nhiên, mà là một thực thể văn hóa; 4) đi ra ngoài sự phê phán một chiều
các yếu tố phân biệt giới của Nho giáo và giải cấu trúc chính sách về giới, đ-a ra
điểm nhìn cho phép trình bày việc giải phóng phụ nữ gắn liền với các b-ớc xây

dựng một nền nữ quyền Nho giáo (tr.3-4).
Những ng-ời phê phán Nho giáo đà chọn một đề tài khó chịu là quan niệm nghiệt
ngà về trinh tiết của Nho giáo đối với phụ nữ, chỉ ra bất công đối với phụ nữ, nhất là
cách nhìn mang tính điển chế hóa (canonization) đối với ng-ời quả phụ (không
khuyến khích họ tái giá) và đề cao mẫu ng-ời phụ nữ thủ tiết và tuẫn tiÕt ( 守节、
殉节) qua kiĨu trun vỊ liƯt n÷ ( ) khá phổ biến ở Trung Quốc(8). Cả Phan
Khôi ở Việt Nam và Lâm Ngữ Đ-ờng ở Trung Quốc đều dẫn câu nói nổi tiếng của
một nhân vật Tống Nho là Trình Di rằng, chết đói là chuyện rÊt nhá, thÊt tiÕt lµ
chun rÊt lín” (饿死事极 小 小,失节事极 ) nh- là
(4) Xem: Bàn về quan niệm nữ tính trong triÕt häc Trung Quèc ho»ng d¬ng cho t tëng tôn sùng nữ tính của Đạo gia, Đạo giáo của Lý Tè B×nh, 李素平[论中国哲学中的女性观
念—弘扬道家、道教尊 崇 女性的思想 崇 女性的思想 女性的思想], />free.4420305.1/
(5) Xem: Gail Hershatter và V-ơng Chính. Lịch sử Trung Quốc: một phạm trù hữu
dụng trong việc phân tích sự khác biệt giới trên phơng diện xà hội. Tạp chí Khoa
học xà hội, Th-ợng Hải, [ ],,,


N.12/2008.
(6) Xem: Sam Crane. Phơ n÷ khiÕn cho nam giíi biết thế nào là những lý tởng Nho
giáo. Women show up men on Confucianism ideals”. China Daily, 08/10/2006.
(7) Cđa t¸c gi¶ Li-Hsiang Lisa Rosenlee, State University of New York, 2006.

26

b»ng chứng điển hình nhất về sự đàn áp của Nho giáo đối với phụ nữ. Có thể
nói, đây là chỗ khó khăn cho những ng-ời bảo vệ Nho giáo với t- cách một hệ thống
giá trị và chúng ta có thĨ chøng kiÕn tÝnh thiÕu thut phơc cđa c¸c ln cø biÖn
hé. Li-Hsiang Lisa Rosenlee biÖn minh cho sù sïng bái ng-ời quả phụ không tái giá (cult
of widowhood) và tục bó chân phụ nữ (practice of footbinding) bằng cả một sơ đồ văn
hóa -u tiên cho sự sản sinh ra con trai kÕ thõa dßng dâi. “Nãi réng ra, sự phân biệt giới
tính ở Trung Quốc có thể giải thích nh- là sự nhấn mạnh lôgíc của sự nối dõi tông

đ-ờng đi liền với giả định rằng sự nối dõi này chỉ có thể thực hiện qua con đ-ờng
nam giới. Điều này đến l-ợt mình lại có liên hệ với đạo hiếu trong gia đình kiểu Nho
giáo và nghi thức thờ cúng tổ tiên (tr.152). Song, sự cắt nghĩa này chỉ là suy luận
lý thuyết, chứ không đề cập ®Õn thùc tÕ øng xư cđa Nho gia ®èi víi vấn đề trinh
tiết của ng-ời phụ nữ. Tuy vậy, những ng-ời phê phán Nho giáo đối với nữ quyền d-ờng
nh- quên một thực tế là, chính trong xà hội nam quyền có sự ủng hộ của Nho giáo vẫn
có khả năng xuất hiện t- t-ởng bảo vệ nữ quyền.
Bài viết của chúng tôi không đi vào các vấn đề lý luận và thực tiễn của Nho
giáo Trung Quốc vốn đ-ợc các nhà nghiên cứu đề cập rất nhiều nh-ng hiện vẫn ch-a
đạt đ-ợc sự nhất trí (các quan niệm gây tranh luận nh- tam c-ơng, tòng nhất chi
chung, vấn đề âm - d-ơng, nội ngoại, liệt nữ, chết đói sự nhỏ, thất tiết sự đại,
quan niệm phụ nữ thủ tiết là của Nho gia hay Pháp gia), mà trong khuôn khổ hạn
hẹp, chỉ khảo sát một số hiện t-ợng của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX nhằm nêu lên một vấn đề có tính ph-ơng pháp luận trong nghiên cứu Nho giáo
nói chung.(8)

(8) Xem: Richard L.Davis. Những phụ nữ trinh, hiếu trong sử sách Trung Quèc thÕ
kû XI, Richard L.Davis. “Chaste and Filial Women in Chinese Historical Writings
of Eleventh Century”, Journal of the American Oriental Society, Vol.121, No.2
(Apr.- Jun., 2001), pp. 204-218.


27

Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XX đà cÊp cho chóng ta mét ngn t- liƯu
phong phó ®Ĩ suy nghĩ về vấn đề nữ quyền và Nho giáo. Trong khuôn khổ một xÃ
hội Nho giáo nam quyền, thực tế sáng tác văn học giai đoạn này cho thấy, chủ nghĩa
nữ quyền đà xuất hiện bên cạnh dòng t- t-ởng chống nữ quyền truyền thống.
Về ph-ơng diện t- t-ởng, cã thĨ nãi, trong thÕ kû XVIII vµ XIX, Nho giáo là hệ tt-ởng thống trị trong đời sống t- t-ởng ở Việt Nam. Hiện nay, ch-a có nhiều công
trình khảo cứu về tính chất Nho giáo giai đoạn này. Theo quan điểm của Huỳnh

Thúc Kháng (1876-1947), một nhà Nho yêu n-ớc, cũng là một nhà khoa bảng lớn ở đầu
thế kỷ XX, Nho giáo Việt Nam ở thời gian này chính là Tống Nho. Nói chính xác
hơn, ông cho r»ng, tõ thuéc Minh trë vÒ sau, tøc qu·ng tõ đầu thế kỷ XV trở đi, cái
học Tống Nho đà nhập làm một với cái học khoa cử mà tự x-ng là cái học Khổng Mạnh
và cho đến mÃi đầu thế kỷ XX, Nho giáo ở Việt Nam vẫn là Tống Nho: Triều Lê
trở đi, chỉ l-a có một thứ học Tống Nho với văn khoa cử(9). Ông kịch liệt đả kích,
phê phán Bùi Huy Bích (1744-1818), ng-ời đà biên soạn loại sách tóm tắt kinh điển
Nho học (gọi là tiÕt u) cho sÜ tư ®i thi: “Lèi häc Tèng Nho và khoa cử bôi lọ lên
sách sót của Thánh hiền đà bao nhiêu đời đến cái học tiết yếu của Bùi Huy Bích
thì rành là cái lối phù thủy kiếm gà, thầy đồ gạy gạo, cốt nhét nách một cái nghề
để b-ớc lên con đ-ờng sĩ hoạn không có chút gì là đáng gọi là học.
Nói về Nho giáo đời Nguyễn trong thế kỷ XIX, nhà nghiên cứu ng-ời Nhật Bản
Yoshiharu Tsuboi lại cho rằng đó là Minh Nho, một thứ Nho giáo đ-ợc coi là cực đoan
hơn cả Tống Nho đối với nữ quyền. Ông lý giải, là nhà Nguyễn muốn theo một thứ
Nho giáo chính thống của ng-ời Hán hơn là theo Thanh Nho - Nho giáo một triều đại
ngoại tộc: Những ng-ời Việt Nam theo Nho giáo có xu h-ớng tỏ ra bảo hoàng hơn
vua về mặt đó. Trong lúc nhà Thanh đang trị vì ở Trung Hoa sau khi lật đổ nhà
Minh năm 1644, thì nhà Nguyễn thích tự coi mình nh- là nhà Minh. Điều này cho
phép họ tỏ vẻ là những ng-ời thừa kế chính thống của nền văn minh
28

Trung Hoa và đạo lý Nho giáo. ý muốn tự đồng hóa với nhà Minh thĨ hiƯn râ nhÊt



×