Tải bản đầy đủ (.pptx) (28 trang)

Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.82 KB, 28 trang )

Đ ề b à i: A n h (C h ị) h ã y p h â n tíc h n h â n v ậ t L ụ c V â n T iê n tr o n g đ o ạ n tr íc h
“ L ụ c V â n T iê n c ứ u K iề u N g u y ệ t N g a ” c ủ a N g u y ễ n Đ ìn h C h iể u .
D à n ý
I . M ở b à i:
- G iớ i th iệ u tá c p h ẩ m “ L ụ c V â n T iê n ” , tá c g iả N g u y ễ n Đ ìn h C h iể u v à
đ o ạ n tríc h “ L ụ c V â n T iê n c ứ u K iề u N g u y ệ t N g a ” .
- G iớ i th iệ u n h â n v ậ t V â n T iê n v à đ ặ c đ iể m c h u n g : H à o h iệ p ,v ô tư .
I I . T h â n b à i:
1 . H ìn h ả n h L ụ c V â n T iê n tro n g c u ộ c g ia o c h iế n v ớ i b ọ n c ư ớ p (h à n h đ ộ n g
đ á n h c ư ớ p ):
- T rê n đ ư ờ n g ra k in h đ ô ứ n g th i g ặ p b ọ n c ư ớ p h u n g d ữ , L ụ c V â n T iê n m ộ t
m ìn h d ù n g ta y k h ô n g đ á n h lạ i b ọ n c ư ớ p đ ô n g n g ư ờ i g ư ơ m g iá o đ ầ y đ ủ , th a n h
th ế lẫ y lừ n g . V â n T iê n đ ã “ B ẻ c â y là m g ậ y , n h ằ m là n g s ô n g v ô ” .
- C á c h đ á n h c ư ớ p c ô n g k h a i n h ư c á c a n h h ù n g h ả o h á n : g ọ i tê n ; trá c h
m ắ n g : “ K ê u rằ n g b ớ đ ả n g h u n g đ ồ ” .
- C h ủ đ ộ n g tu n g h o à n h lâ m trậ n : “ T ả đ ộ t h ữ u s ô n g ” .
- V â n T iê n h à n h đ ộ n g m a n g c á i đ ứ c c ủ a n g ư ờ i a n h h ù n g m a n g v ẻ đ ẹ p c ủ a
m ộ t đ ứ n g tư ớ n g tà i b a .
2 . H ìn h ả n h L ụ c V â n T iê n tro n g c u ộ c đ ố i th o ạ i v ớ i K iề u N g u y ệ t N g a
- V â n T iê n c o i trọ n g d a n h d ự v à b ổ n p h ậ n “ K h o a n k h o a n n g ồ i đ ó c h ớ ra ” .
- T ấ m lò n g từ tâ m n h â n h ậ u , V â n T iê n đ ộ n g lị n g tìm c á c h a n ủ i h a i c ô g á i
b ị n ạ n , h ỏ i h a n q u ê q u á n : “ T a đ ã trừ lò n g lâ u la ” , “ T iể u th ư c o n g á i n h à a i” ; “
T ê n h ọ là c h i” .
- Q u a n đ iể m c ủ a L ụ c V â n T iê n : “ L à m ơ n h á d ễ c h o n g ư ờ i trả ơ n ” ; “ N h ớ
c â u k iế n n g h ĩa b ấ t v i… p h i a n h h ù n g ” . T ừ c h ố i lạ y tạ lờ i m ờ i c ủ a N g u y ệ t N g a
v ề n h à n à n g đ ể c h o n à n g đ ề n đ á p .
- C á c h c ư x ử c ủ a L ụ c V â n T iê n m a n g tin h th ầ n h iệ p n g h ĩa c ủ a c á c a n h
h ù n g h ả o h á n , th ấ y v iệ c n g h ĩa th ì là m , c o i v iệ c n g h ĩa là b ổ n p h ậ n ; k h ô n g
m à n g tiề n tà i; d a n h lợ i.

C h à n g là h ìn h ả n h lý tư ở n g m à c á c tá c g iả g ử i g ắ m n iề m tin v à ư ớ c


m o n g đ e m đ ế n x ã h ộ i c ô n g b ằ n g .
I I I . K ế t b à i:
- K h á i q u á t h ìn h ả n h L ụ c V â n T iê n : L à b iể u tư ợ n g v ề lố i s ố n g đ ẹ p , s ẵ n
s à n g d iệ t trừ c á i á c đ ể đ e m lạ i s ự s ố n g , h ạ n h p h ú c c h o m ọ i n g ư ờ i.


Đề bài: Anh (Chị) hãy phân tích nhân vật Lục
Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài làm
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là
một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm
“Lục Vân Tiên”, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của
Nguyễn Đình Chiểu. Trong đoạn trích, tác giả xây
dựng hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc hoạ
thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp:
văn võ song toàn, giàu lịng thương người, dũng
cảm và nghiã hiệp.
Nghĩa khí anh hùng cao đẹp của Lục Vân Tiên
được thể hiện nhất qn trong tồn bộ đoạn trích.
Lần đầu tiên, phẩm chất ấy được thể hiện mạnh
mẽ trong lần Lục Vân Tiên đánh cướp cứu người.


Sau khi từ giã thầy học của mình, Lục Vân Tiên trở
về viếng thăm cha mẹ để chuẩn bị lên kinh đơ ứng thí.
Tâm hồn người thanh niên ấy phơi phới niềm tin và
ước vọng. Đột nhiên, giữa đường gặp người dân chạy
loạn do bọn cướp gây nên. Trong hoàn cảnh bất
thường đó, người ta thường dễ né trách mọi nguy hiểm

để giữ tồn tính mạng. Việc xảy ra giữa đường, những
người dân chạy cướp kia đều không hề liên quan tới
chàng. Thế nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ
theo kiểu thường tình đó, thấy người bị nạn chàng đã
khơng ngại mình tay khơng tấc sắc dũng cảm “bẻ cây
làm gậy” xông vào đánh bọn cướp, hành động cứu
người một cách tự nhiên khơng do dự tính tốn thiệt
hơn, sẵn sàng trừ ác giúp dân:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”.


Một người trong tay khơng có khí giới lại đơn độc mà
vẫn "bẻ cây làm gậy" xông vào đánh bọn cướp. Chỉ
riêng điều đó đã nghĩa hiệp lắm rồi. Lại nữa bọn cướp
rất đông, ai ai cũng đều khiếp sợ chúng. Thế mà chàng
quyết định một cách nhanh chóng. Điều đó chứng tỏ
hành động vì việc nghĩa đã trở thành bản chất tốt đẹp
của chàng. Gặp bọn cướp, Lục Vân Tiên mắng ngay
vào mặt chúng:
“Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân. "
Lời mắng của chàng càng chứng minh cụ thể hơn
tính cách nghĩa hiệp ấy. Chàng coi bọn cướp là kẻ
hung đồ, làm điều ngang ngược, trái với đạo lí. Hành
động của chúng là vơ nhân đạo, phi nghĩa lí, đáng bị
trừng trị. Khơng hề vội vã, chàng dùng lời nói để thức


tỉnh lương tri, ngăn việc tàn ác, cho bọn cướp một cơ

hội để thốt thân. Đó là hành động của kẻ anh hùng,
trước khi ra tay trừng phạt luôn cho kẻ ác một cơ
hội để phục thiện. Thế nhưng, bọn cướp vẫn ngông
cuồng, cố chấp, quyết không buông bỏ. Tướng cướp
Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí: “Truyền
quân bốn phía phủ vây bịt bùng”. Bọn cướp “ bốn phía
phủ vây bịt bùng” , sẵn sàng gươm giáo và thật hung
hãn, nhưng chàng vẫn không nao núng, dũng cảm“tả
đột hữu xung”. Trong trận đánh Lục Vân Tiên được
miêu tả thật đẹp, thật oai hùng:
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vịng Đương Dang"
Hình ảnh so sánh này càng làm nổi bật tính cách
nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên. Tài năng của chàng
được ví với Triệu Tử Long - một danh tướng thời Tam


Quốc trong trận phá vòng vây quân Tào bảo vệ ấu
chúa, chứng tỏ cái đức của con người “vị nghĩa vong
thân”, “cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh
vực kẻ yếu, chiến thắng nhiều thế lực bạo tàn”.
Lời thơ chân chất, mộc mạc song hồn thơ thì chan
chứa dạt dào, phép tương phản, điển tích, nhân vật
được khắc hoạ qua mơ típ truyền thống. Tác giả tuy
khơng tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn
gọn mà đặc sắc làm nổi bật hình ảnh người dũng
tướng, người anh hùng bênh vực kẻ yếu, chiến thắng
thế lực tàn bạo. Vân Tiên đã chiến thắng bởi sức
mạnh của nhân nghĩa, của lẽ phải, sức mạnh của tình
yêu thương và lịng dũng cảm kiên cường. Chàng

chính là hiện thân của người anh hùng thượng võ, sẵn
sàng cứu khốn phò nguy, dám bênh vực kẻ yếu, tiêu
diệt mọi thế lực bạo tàn. Hình ảnh Lục Vân Tiên đánh


cướp cứu người tạo một ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc của mọi thế hệ: về sự tài ba, lịng
dũng cảm, vì nghĩa qn mình.
Tính cách của Lục Vân Tiên cịn được bộc lộ sau
khi đánh cướp. Đó là một con người chính trực, hào
hiệp, trọng nghĩa khinh tài cũng rất từ tâm nhân
hậu. Chàng đã ân cần thăm hỏi những người bị nạn
và thật sự xúc động khi nghe Kim Liên trần tình. Thấy
hai cơ gái cịn chưa hết sợ hãi, Vân Tiên “động lịng”
thương xót,ân cần hỏi han, an ủi họ. Đó chính là biểu
hiện của tấm lịng nhân hậu của một con người vì
chính nghĩa mà hành động, xem thường lợi danh:
Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la”


Không chỉ thực hiện được hai chữ “nghĩa, nhân” mà
Vân Tiên cịn biết giữ cho mình chữ “lễ” theo đúng
quan niệm Nho gia xưa kia. Đó là hành vi đúng đắn của
một người hào hiệp, quen sống vô tư, làm việc nghĩa
theo bản lĩnh của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu,
rất đặc trưng của người Nam Bộ:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trơng người trả ơn.”
Nụ cười của trang nghĩa sĩ này mới đẹp làm sao!

Trong nụ cười ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn
sự bao dung. Một cách nói của chàng trai Nam Bộ –
giản dị mà chất phác. Với Vân Tiên, làm việc nghĩa là
một bổn phận, một lẽ tự nhiên của một con người chân
chính:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.


Hai câu thơ thể hiện một phương châm của lẽ sống:
thấy việc nghĩa mà khơng làm thì con người ấy khơng
phải anh hùng. Đã là người anh hùng thì làm việc nghĩa
một cách vô tư, tự nguyện. Việc từ chối sự đền ơn của
Kiều Nguyệt Nga càng tô đậm thêm con người nghĩa
hiệp của Lục Vân Tiên. Đó là quan niệm cứu nhân độ
thế, tiêu biểu cho đạo đức của nhân dân ta: “Trọng
nghĩa khinh tài”.
Thông qua thái độ của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình
Chiểu khẳng định một lẽ sống cao đẹp của người anh
hùng thời xưa, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, hành động
hướng tới nhân nghĩa, coi việc nghĩa ở đời là trách
nhiệm cao cả, thiêng liêng.


Bằng giọng thơ phóng khống, chân mộc và ngơn
từ. Có thể nói qua đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga", nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã khắc
hoạ khá đầy đủ chân dung người anh hùng lí tưởng
mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn, coi cái chết
nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và

hành động theo phương châm: “Giữa đường dẫu
thấy bất bằng mà tha ”. Lòng thương người, chí quả
cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc
đạo lý của dân tộc ta. Hình ảnh Lục Vân Tiên sống
mãi trong lòng người dân Việt Nam qua các thế hệ
như một tấm gương về tính cách nghĩa hiệp của
chàng.


Phân tích nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Trích Truyện
Lục Vân Tiên - Nguỵễn Đình Chiểu.
1. Mở bài:
- Trong đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của tác giả Nguyễn Đình Chiểu, bên cạnh
nhân vật Lục Vân Tiên- nhân vật trung tâm, nịng cốt của tác phẩm thì hình ảnh Kiều Nguyệt Nga cũng
được nhà thơ khắc họa một cách sinh động, chân thực, đặc biệt.
- Là cô gái khuê các ,thùy mị ,nết na, có học thức, chân thật, hiếu thảo, trong trắng, ân tình.
2. Thân bài:
Với tư cách là người chịu ơn, Kiều Nguyệt Nga bộc lộ nhiều nét đẹp tâm hồn, thể hiện qua ngôn ngữ
đối thoại với Vân Tiên khắc họa một cách sinh động, chân thực.
Theo lời tự giới thiệu, nàng thuộc dòng dõi trâm anh, quê ở Quận Tây Xuyên, “cha làm tri phủ ở miền
Hà Khê”.
Là cô gái thùy mị, nết na, là một tiểu thư đài các cách xưng hô khiêm nhường, từ tốn quân tử – tiện
thiếp.
“ Thưa rằng”: cách nói đầy chuẩn mực, tôn trọng thể hiện được cung cách của một con người có gia
giáo, có học thức,.
- Lời ăn tiếng nói đều rất rõ ràng, dịu dàng, mực thước kể lể sự tình của mình: “ Sa cơ nên mới lầm
tay hung đồ”.
Cho dù đường xa, nhưng vì ý cha muốn đưa nàng đến Hà Khê để “định bề nghi gia” thì nàng “ví dầu
ngàn dặm đường xa cũng đành”  người con có hiếu, ln vâng lời cha
 Hình tượng Kiều Nguyệt Nga có thể coi là một hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội

phong kiến xưa, nết na, hiền thục, có học thức và cũng là một người con có hiếu.
Là người trọng danh tiết, nàng hiểu rằng nếu không được Lục Vân Tiên cứu thì “tiết trăm năm cũng
bỏ đi một hồi”.
- Trước ơn cứu mạng tha thiết muốn được đền ơn và tỏ mong muốn mời Vân Tiên về nhà cùng mình
để tiện bề báo đáp “Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.  một người trọng ân nghĩa, đề cao tư tưởng
“đền ơn, tạ nghĩa “đối với người “ân nhân” của mình, tấm lịng chân thành, sâu sắc . Đó cũng là tính
cách sống có tính truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam chúng ta. Một cách sống cần được giữ gìn và
phát huy.
Bằng những ngơn ngữ giản dị mà mộc mạc, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên bức chân dung Kiều
Nguyệt Nga đầy chân thực, gần gũi với những nét đẹp mang đậm dấu ấn của người phụ nữ Việt Nam:
thùy mị, dịu dàng, đoan trang, hiếu thảo, trọng ân nghĩa, thơng hiểu đạo lí.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những người
luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức.
3. Kết bài:
Nét đẹp nết na thùy mị, có học, ân tình của Kiều Nguyệt Nga cũng chính là phẩm chất tâm hồn cao
đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Thông qua nhân vật Nguyễn Đình Chiểu đã góp thêm vào kho tàng văn học vẻ đẹp của người phụ nữ
Việt


Phân tích nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong Lục
Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Trích Truyện Lục
Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu.
Bài làm
Đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của
Nguyễn Đình Chiểu, bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiênnhân vật trung tâm, nịng cốt của tác phẩm thì hình ảnh
Kiều Nguyệt Nga cũng được nhà thơ khắc họa một
cách sinh động, chân thực. Trong đoạn trích, Kiều
Nguyệt Nga để lại cho người đọc những ấn tượng sâu
sắc về người phụ nữ Việt Nam.

Trong chuyến đi về miền Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga
đã phải đối mặt với một mối nguy hiểm lớn từ đám
“đảng hung đồ”. Thân gái yếu ớt khơng thể làm gì hơn
nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp thì nàng đã rất


Vân Tiên mà đã thốt nạn. Hình ảnh Nguyệt Nga hiện
lên trong đoạn đối thoại với Vân Tiên đã bộc lộ
được phẩm chất đoan trang, nết na thùy mị, dịu
dàng của một tiểu thư khuê các.
Mặc dù, còn đang hoảng loạn vì bị bọn cướp Phong
Lai nhưng trước những lời hỏi thăm ân cần của Lục
Vân Tiên, Nguyệt Nga đã đáp lại rất rõ ràng, ân tình,
thể hiện sự cảm kích vì ơn cứu giúp của Vân Tiên:
“ Thưa rằng tơi Kiều Nguyệt Nga
Con này tì tất tên là Kim Liên
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê”
Theo lời tự giới thiệu, nàng thuộc dòng dõi trâm
anh, quê ở Quận Tây Xuyên, “cha làm tri phủ ở miền
Hà Khê”. Thế nhưng lại không thể hiện tính cách của


một tiểu thơ mà lời lẻ của nàng cách nói năng văn vẻ,
mực thước, khn phép: “Thưa rằng” cách nói của
một người có gia giáo, có học thức, tơn trọng
người cứu mình.
Qua đoạn đối đáp với Lục Vân Tiên, ta thấy
Kiều Nguyệt Nga là người dịu dàng, lễ phép,
chuẩn mực, là một người con có hiếu:

“Sai quân đem bức thư về
Rước tơi qua đó tiện bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”
Cho dù đường xa nhưng vì ý cha, nàng khơng ngại
nguy hiểm chuyển đến tri phủ nơi cha nhậm chức để
cha “định bề nghi gia”, thì cho dầu “ngàn dặm đường
xa cũng đành”. Như vậy, ta có thể thấy, hình tượng
Kiều Nguyệt Nga có thể coi là một hình mẫu lí


tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến
xưa, nết na, hiền thục, có học thức và cũng là một
người con có hiếu.
Cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc triết vừa đáp
ứng đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Vân Tiên,
vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, biết ơn của mình.
“Trước xe qn tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”
Vốn là một tiểu thư đài các, nhưng Nguyệt Nga tự
xưng mình là “tiện thiếp” và gọi chàng là “quân tử”,
thể hiện sự chuẩn mực, nề nếp, cũng thể hiện được
sự khiêm nhường, từ tốn. Trước ơn cứu mạng của


Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga tha thiết muốn được đền ơn

và tỏ mong muốn mời Vân Tiên về nhà cùng mình để
tiện bề báo đáp “Xin theo cùng thiếp đền ơn cho
chàng”. Với nàng, Vân Tiên không chỉ cứu mạng, mà
còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng: “Lâm nguy
chẳng gặp giải nguy - Tiết trăm năm cũng bỏ đi một
hồi”. Nàng coi đó là ơn trọng và áy náy, băn khoăn tìm
cách trả ơn dù biết rằng có đền đáp bao nhiêu cũng
chưa đủ: “Lấy chi cho phải tấm lịng cùng ngươi”. Qua
lời nói của Nguyệt Nga ta cũng thấy một con người đầy
chính nghĩa, đề cao tư tưởng “đền ơn, tạ nghĩa” đối với
“ân nhân” của mình. Và Kiều Nguyệt Nga muốn quỳ lạy
tạ ơn đối với Vân Tiên “Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ
thưa”. Nàng tỏ ý muốn lạy tạ ơn, bày tỏ mong muốn trả
ơn, điều đó cũng chứng tỏ được tấm lịng chân thành,
sâu sắc của Kiều Nguyệt Nga. Đồng thời cũng là tính


cách sống, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam
chúng ta. Một cách sống cần được giữ gìn và phát huy.
Bằng những ngơn ngữ giản dị mà mộc mạc, Nguyễn
Đình Chiểu đã xây dựng lên bức chân dung Kiều
Nguyệt Nga đầy chân thực, gần gũi với những nét đẹp
mang đậm dấu ấn của người phụ nữ Việt Nam: thùy
mị, dịu dàng, đoan trang, hiếu thảo, trọng ân nghĩa,
thông hiểu đạo lí.
Tóm lại, thơng qua nhân vật Kiều Nguyệt Nga,
Nguyễn Đình Chiểu đã góp thêm vào kho tàng văn học
vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. đã chinh phục
được tình cảm yêu mến của nhân dân, những người
luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc

rễ của đạo đức.


Suy nghĩ về Lục Vân Tiên thời nay qua hai câu
thơ: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy
cũng phi anh hùng.”
Bài làm
Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt” của Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh Lục
Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người anh
hùng lý tưởng tuyệt đẹp tiêu biểu cho lý tưởng
sống, đạo đức cao đẹp của nhân dân ta lúc bấy
giờ. Phẩm chất anh hùng và hiệp nghĩa của Lục Vân
Tiên thể hiện rõ nét qua lời giải bày với Kiều Nguyệt
Nga khi nàng có nguyện vọng báo đáp ơn cứu giúp
của chàng:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.


Từ nghĩa khí của chàng Lục Vân Tiên, chúng
ta suy nghĩ về lối sống của con người thời nay.
Cuộc chiến thiện - ác giữa thời bình như thế
nào? Chúng ta hãy cùng nhìn nhận lại xã hội hiện
nay để giải đáp vấn đề đó.
Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên hiện lên là một chàng
trai hết sức hào hiệp, thấy Kiều Nguyệt Nga bị
cướp liền ra tay cứu giúp. Khi ra tay đánh tan bọn
cướp hung bạo Phong Lai, Lục vân Tiên chỉ nghĩ

đến việc giải nguy cứu người và dạy cho bọn cướp
một bài học đích đáng, bảo vệ dân lành chứ khơng
hề nghĩ đến chuyện ơn nghĩa đáp đền. Lục Vân Tiên
là đại diện cho cơng lí, đại diện của lý tưởng sáng
ngời về lẽ công bằng ở đời. Đối với chàng “giữa


diện cho những bậc anh hùng trong xã hội phong
kiến, đề cao dũng khí, can trường ra tay hành hiệp
trượng nghĩa cứu người yếu đuối trừng phạt kẻ
hung bạo:
“Kiến ngãi bất vi vô võng giả
Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Với nhân vật Lục Vân Tiên nhà thơ đã xây dựng một
mẫu người lý tưởng trong xã hội phong kiến đương
thời trên nền tảng đạo đức Nho giáo. Cũng qua nhân
vật này, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó,
cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài
đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh.
Thấy người gặp nạn không thể không cứu. Giúp
người chẳng mong người trả ơn. Thật nghĩa khí! Hành
động Lục Vân Tiên “tả đột hữu xung” cứu Kiều Nguyệt
Nga là hình ảnh gây ấn tượng nhất trong truyện thơ



×