Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế: Chính sách quản lý ngoại hối của NHNN trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.55 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

o0o





TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ




ĐỀ TÀI:

Chính sách quản lý ngoại hối của NHNN trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế












NHÓM


SINH VIÊN THỰC HIỆN : NHÓM 15

LỚP : 19A TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG



HÀ NỘI – T10.2013


2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
DANH MỤC MỘT SỐ TỪ NGỮ VIẾT TẮT 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 6
1.1. Khái niệm quản lý ngoại hối trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế 6
1.2. Mục đích của việc quản lý ngoại hối 7
1.3. Vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý ngoại hối 7
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NHNN VIỆT NAM 8
NHNN Việt Nam quản lý ngoại hối thông qua việc thực hiện 3 chính sách, đó là: quản lý giao
dịch vãng lai, quản lý giao dịch vốn, và quản lý chính sách tỷ giá và thị trường ngoại tệ. 8
2.1. Chính sách quản lý giao dịch vãng lai 8
2.2. Chính sách quản lý đối với giao dịch vốn. 8
2.3. Chính sách tỷ giá và quản lý thị trường ngoại tệ 10
2.4. Đánh giá công tác Quản lý Ngoại hối năm 2012 và định hướng chính sách năm 2013 12
2.4.1. Đánh giá công tác điều hành thị trường ngoại tệ và tỷ giá năm 2012 và định hướng điều hành
tỷ giá năm 2013 12
2.4.2. Đánh giá công tác quản lý thị trường vàng năm 2012 và định hướng chính sách quản lý thị
trường vàng năm 2013 14
CHƯƠNG III: KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA QUỐC TẾ - KHẢ NĂNG ÁP

DỤNG TẠI VIỆT NAM 16
3.1. Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của một số nước trên thế giới 16
3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 16
3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc: 16
3.1.3. Kinh nghiệm của Chi lê và các nước tiên tiến khác: 18
3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ngoại hối ở Việt Nam 19
3.2.1. Nguyên tắc quản lý chính sách ngoại hối 19
3.3. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối của Việt Nam 20
3.3.1. Kiến nghị trong việc dự trữ ngoại hối: 20
3.3.2. Kiểm soát các giao dịch vốn quốc tế: 20
3.3.3 Quản lý tỷ giá và thị trường tiền tệ: 21
KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
3

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách quản lý ngoại hối là một bộ phận hợp thành của chính sách tiền tệ quốc gia, là công cụ
quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động kinh tế đối ngoại. Để tạo điều
kiện phát triển hài hòa giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, hội nhập và phát triển bền vững, các
quốc gia đều phải có chính sách tiền tệ nói chung và chính sách quản lý ngoại hối nói riêng phù hợp với
thực tiễn mỗi nước.
Quản lý ngoại hối là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng mà Ngân hàng nhà nước phải
quan tâm để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị của đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh nhân dân và nâng cao
đời sống nhân dân. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, quản lý ngoại hối là công cụ quản lý vĩ mô
quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị trường
đòi hỏi phải hoàn thiện cũng như nâng cao chất lượng ngoại hối để công tác quản lý ngoại hối tiếp tục
thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường.
Nhận thức tầm quan trọng của chính sách quản lý ngoại hối một cách có hệ thống, nhằm tìm hiểu

đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối trong thời gian qua và đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng quản lý ngoại hối phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là hết sức
cần thiết. Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT” làm tiểu luận nhóm.
1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản liên quan đến ngoại hối và quản lý ngoại hối. Phân tích đánh giá
thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt nam qua từng giai đoạn . Đưa ra các giải pháp khuyến
nghị nhằm nâng cao chất lượng quản lý ngoại hối trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Chính sách quản lý ngoại hối trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt
là các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối và thực tiễn quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận này được xây dựng dựa trên phương pháp tổng hợp các nghiên cứu. Kết hợp giữa lí
luận và thực tiễn, phân tích tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, và trên thế giới, cũng
như dựa trên một số qui luật phát triển tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình
thành nên khóa luận.
4. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 chương:
4

Chương I: Cơ sở lý luận về ngoại hối và quản lý ngoại hối trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết này còn nhiều hạn chế rất mong được
sự góp ý sửa chữa của giáo viên.

Xin chân thành cảm ơn!

























5


DANH MỤC MỘT SỐ TỪ NGỮ VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTW: Ngân hàng trung ương

NHTM: Ngân hàng thương mại
DN: Doanh nghiệp
VN: Việt Nam
CSTT: Chính sách tiền tệ
TCTD: Tổ chức tín dụng
















6

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1.1. Khái niệm quản lý ngoại hối trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
a.Khái niệm về quản lý ngoại hối.
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia. Ngoại hối
là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước
ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện dự trữ của cải,

phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận là đồng
tiền quốc tế, bao gồm ngoại tệ mạnh và kim loại quý, dự trữ tại quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), quyền rút
vốn đặc biệt, SDR và các tài sản có tính linh hoạt cao.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì không thể có một
quốc gia nào phát triển một cách đơn độc, khép kín, mà còn đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài. Vì vậy dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng, có dự
trữ ngoại hối cần thiết có nghĩa là Nhà nước đã nắm trong tay một công cụ quan trọng để phục vụ cho
việc quản lý mục tiêu kinh tế vĩ mô. Dự trữ ngoại hối để đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, thoả
mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế và đời sống trong nước, mở rộng đầu tư, hợp tác
kinh tế nước ngoài phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở. Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại
hối như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu theo kế hoạch.
Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình
nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định.
b. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các doanh nghiệp tham gia vào
một môi trường kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu vực với các quy luật chung và có yếu tố cạnh
tranh.
Hội nhập kinh tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam) là quá trình thực hiện
tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại
nhiều cơ hội kinh tế như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn
đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt và tăng dần
hiệu quả theo quy mô.
c. Khái quát khái niệm về quản lý ngoại hối trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
Quản lý ngoại hối trong thời kỳ hội hập kinh tế quốc tế là việcNhà nước áp dụng các chính sách,
biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối
theo những mục tiêu nhất định.
Mục tiêu ở đây là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các
doanh nghiệp tham gia vào một môi trường kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu vực với các quy
luật chung và có yếu tố cạnh tranh. Là việc áp dụng các chính sách vào việc nhập xuất ngoại hối trong
quá trình thực hiện tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường.

7

1.2. Mục đích của việc quản lý ngoại hối.
a. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
NHTW sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định
giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
b.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHTW phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng
không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm
bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì thế NHTW cần phải
mua bán chuyển đổi để phát triển chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, bảo vệ
độc lập chủ quyền về tiền tệ.
c. Cải thiện cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với nước ngoài. Cán
cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế
nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng
cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng giảm. Ngược lại khi
cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ
cao hơn khả năng cung ứng, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng tăng lên.Như vậy trong cả
hai trường hợp nếu không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại hối
trên thị trường. Ở nhiều nước NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mực tiêu của chính sách
kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm,
thì NHTW hoặc mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại
hối tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng
ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm đi tương ứng.
1.3. Vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý ngoại hối
Trước hết phải khẳng định rằng NHNN có vai trò quan trọng trong việc quản lý ngoại hối điều
tiết cũng như quản lý các vấn đề liên quan ngoại hối. Có 2 cơ chế trong công tác quản lý ngoại hối đó là

cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn và cơ chế quản lý có điều tiết.
Với cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn: Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương
và độc quyền ngoại hối. Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả các
hoạt động ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do Nhà nước qui định bắt buộc các tổ chức phải chấp hành.
Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong cơ chế quản lý hoàn toàn, Nhà
nước có thể áp đặt khống chế được thị trường, ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai thác
được nguồn vốn bên trong, nhưng trong nền kinh tế thị trường cách quản lý này sẽ không phù hợp, cản
trở và gây khó khăn cho nền kinh tế.
8

Với cơ chế quản lý có điều tiết: Nhà nước tiến hành kiểm soát ở mức độ nhất định để nhằm phát
huy tính tích cực của thị trường, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định. Nhà nước sử dụng
những công cụ như: Tỷ giá, dự trữ ngoại hối thông qua các hoạt động mua bán ngoại tệ và các hoạt
động nghiệp vụ khác như sử dụng các chính sách chiết khấu, nâng giá tiền tệ, phá giá tiền tệ, sử dụng
công cụ lãi suất hoặc hàng rào ngoại thương…

CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NHNN VIỆT NAM
NHNN Việt Nam quản lý ngoại hối thông qua việc thực hiện 3 chính sách, đó là: quản lý
giao dịch vãng lai, quản lý giao dịch vốn, và quản lý chính sách tỷ giá và thị trường
ngoại tệ.
2.1. Chính sách quản lý giao dịch vãng lai.
Các khoản giao dịch vãng lai bao gồm: các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân hàng ngắn hạn; các
khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng.
Theo thông cáo báo chí được phát đi từ trụ sở Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Mỹ ngày 5.1.2006,
Việt Nam đã chính thứcđược công nhận là đã hoàn toàn chấp nhận các quy định tại điểm 2, 3 và 4 tại
điều VIII của điều lệ IMF. Việc chấp thuận các quy định trên có nghĩa rằng, Việt Nam đã thực hiện
tháo bỏ những hạn chế đối với việc thực hiện các thanh toán và chuyển tiền trong các giao dịch vãng lai
quốc tế. Có được sự công nhận trên là do trong những năm trước đó Việt Nam đã cố gắng hoàn thiện và
xây dựng thành công Pháp lệnh ngoại hối. Pháp lệnh ngoại hối được đánh giá là một bước tiến mới

trong cải cách cơ chế quản lý nhà nước, đặc biệt là sự mở cửa và hội nhập ngày càng lớn của nền kinh
tế quốc tế. Pháo lệnh đã xây dựng một cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các giao dịch
vãng lai, từng bước mở cửa và quản lý chặt chẽ đối với các giao dịch vốn. Từ đó, NHNN cũng cho ra
đời của hàng loạt các quyết định để thể chế hóa công tác quản lý ngoại hối như: Quyết định
921/2005/QĐ-NHNN về việc qui định lượng ngoại tệ tối đa mà một cá nhân có thể mang khi xuất
cảnh/nhập cảnh.
Ngày 18/10/2005, NHNN ban hành Quyết định 131/2005/NĐ-CP về việc khẳng định nguyên tắc tự
do hóa vãng lai, theo đó các khoản thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai được tự do thực
hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, trên lãnh thổ Việt Nam, các khoản thanh toán và chuyển tiền đối
với các giao dịch vãng lai được tự do thực hiện không phải xuất trình giấy tờ. Người cư trú là công dân
Việt Nam được quyền mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài để sử dụng cho các nhu cầu hợp pháp
như du lịch, học tập, chữa bệnh, trợ cấp khó khăn, thừa kế và định cư theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước mà không phải xin phép cơ quan này.
2.2. Chính sách quản lý đối với giao dịch vốn.
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, VN đang dần mở cửa và đảm bảo đến năm 2020 sẽ thực hiện
mở cửa hoàn toàn theo cam kết của WTO. Tuy nhiên Việt nam vẫn là một nước nghèo, vì vậy VN rất
thiếu vốn để đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất. Do đó, Việt Nam vẫn chưa thể tự do hóa hoàn toàn
các giao dịch vốn và các giao dịch vốn vẫn chịu sự quản lý của Nhà nước theo nguyên tắc khuyến
9

khích luồng vốn chuyển vào và hạn chế luồng vốn ra khỏi lãnh thổ. Mọi nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch
vốn đều phải chuyển về nước.
Quản lý đối với giao dịch vốn bao gồm các loại:
 Quản lý vay trả nợ nước ngoài
Hoạt động vay trả nợ nước ngoài hiện nay được quản lý theo Nghị định 134/2005/NĐ-CP do
Chính phủ ban hành ngày 11/01/2005. Nghị định này quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan
quản lý, đồng thời tạo cơ chế thông thoáng hơn với hoạt động vay vốn nước ngoài của Doanh
nghiệp. Đồng thời nhằm đánh giá đúng hiện trạng nợ của quốc gia từ đó có những giải pháp
quản lý và trả nợ một cách toàn diện, tránh gây gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai, ngày
16/10/2006 Quy chế “Xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu đánh giá giám sát tình trạng nợ

nước ngoài của quốc gia” đã được ban hành. Theo quy định của quy chế này, hàng năm Bộ tài
chính chủ trì, phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư và Ngân hàng nhà nước tổng hợp và xây dựng
trình thủ tướng chính phủ thông qua Tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia
như một bộ phận kế hoạch hàng năm để vay và trả nợ nước ngoài.
Cơ chế quản lý vay trả nợ nước ngoài được chuyển hướng từ quản lý trực tiếp sang gián tiếp,
tạo cơ sở từng bước cho việc tự do hóa giao dịch vốn. Cụ thể, Theo thông tư số 03/2012/TT-
NHNN, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối xem
xét quyết định cho khách hàng là người cư trú vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng
ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khi khách hàng vay có đủ
ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất - kinh doanh để trả nợ vay. Tuy nhiên, cũng theo quy định này,
khách hàng chỉ được vay vốn ngoại tệ nếu có đủ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh để trả nợ vay. Cho nên từ khi Thông tư trên được ban hành thì dư nợ cho vay bằng ngoại
tệ của ngân hàng đã giảm rất mạnh. Theo thống kê của NHNN tính đến ngày 31/5/2013, tín
dụng bằng VND tăng 5,48%, còn tín dụng bằng ngoại tệ giảm 8,41% so với thời điểm trước khi
thông tư được ban hành.
 Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Quan điểm chủ đạo trong quản lý ngoại hối đối với giao dịch vốn là: Ban hành các cơ chế,
chính sách với mục đích tạo thuận lợi cho hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế.
Năm 2005, với sự thống nhất và ban hành luật đầu tư đã đánh dấu một nỗ lực đáng kể của Việt
Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài. Mọi vấn đề liên quan đến đầu tư được nhà nước về điều
kiện, những chế độ ưu đãi nhà đầu tư được hưởng khi đầu tư vào những lĩnh vực khuyến khích
đầu tư, cũng như thủ tục và trình tự cấp phép đầu tư cũng được quy định rõ ràng trong luật đầu
tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư vào Việt Nam một
cách nhanh chóng và bớt những thủ tục phiền hà và sự chờ đợi cấp giấy phép đầu tư như trước
đây.
Ngoài ra, với những nới lỏng trong chính sách kiều hối như người gửi tiền về nước không bị
hạn chế về mặt số lượng, người nhận không phải đóng thuế, phí gửi tiền thấp, hệ thống chuyển
10


tiền đơn giản thuận tiện… Do vậy, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các kênh chính
thức ngày càng tăng.Trong năm 2011 đạt 9 tỷ USD, năm 2012 lượng kiều hối đạt 10 tỷ USD
cao nhất trong vòng 4 năm trở lại, đây chính là một nguồn lực đáng kể cho nền kinh tế
Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên lượng ngoại tệ NHNN mua được lớn hơn nhiều so với
lượng ngoại tệ NHNN bán ra, làm cho dự trữ ngoại hối nhà nước tăng đều và tương đối ổn định,
góp phần thực hiện tốt mục tiêu chiến lược của ngành Ngân hàng giai đoạn đến là tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước.
 Chính sách đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Từ ngày 16/11/2004, Chính phủ ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty
nhà nước thành công ty cổ phần và cho phép rộng rãi các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài tham gia đấu giá mua cổ phần của các Doanh nghiệp cổ phân hóa. Đồng thời theo
quyết định số 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ , ngày 29/09/2005 và Thông tư số
90/2005/TT-BTC, ngày 17/10/2005 hướng dẫn thi hành Quyết định só 238/2005/QĐ-TTg thì tỷ
lệ nắm giữ cổ phiếu của những doanh nghiệp cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài được nâng
lên 49%, tỷ lệ này trong các Ngân hàng thương mại cổ phần là 30%.
 Chính sách đầu tư ra nước ngoài
Ngày 26/8/2005 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ban hành Thông tư 04/2005 sửa đổi, bổ
sung Thông tư 01/1999 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
đây là một thay đổi quan trọng nhằm tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngoại tệ cho các dự án
đầu tư ra nước ngoài, từng bước mở rộng khả năng và triển vọng vươn ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
Hiện nay, theo nghị định số 78/2006/NĐ – CP được chính phủ ban hành ngày 09/08/2006, quy
định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, hoạt động đầu tư ra nước ngoài được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế. Trên cơ sở Quyết định này các DN Việt Nam được mở rộng nguồn ngoại tệ
để chuyển ra nước ngoài để góp vốn đầu tư, thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại giấy phép
đầu tư do cơ quan có thẩm quyền cấp
Ngày 10/04/2008, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN
về việc cho vay vốn bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú.
Theo đó, quy định tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối xem xét quyết định cho
khách hàng là người cư trú vay vốn bằng ngoại tệ để thực hiện một số nhu cầu trong đó có đầu

tư ra nước ngoài. Việc ra đời quyết định trên là nhằm mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn
ngoại tệ của các DN Việt Nam được phép đầu tư ra nước ngoài thay vì chỉ có một nguồn ngoại
tệ trên tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình tại Ngân hàng như trước đây.
2.3. Chính sách tỷ giá và quản lý thị trường ngoại tệ
Thời gian gần đây, tiền gửi ngoại tệ của người cư trú tại hệ thống ngân hàng giảm đáng kể do
việc điều hành nhịp nhàng hơn giữa chính sách lãi suất và tỉ giá tạo điều kiện thực hiện nguyên tắc cân
bằng lợi tức tiền gửi VND và ngoại tệ, hạn chế nguồn vốn chuyển từ VND sang ngoại tệ như giai đoạn
cuối những năm 90. Cụ thể, lãi suất giữa VND luôn cao hơn lãi suất ngoại tệ và tỷ giá giữa VND và
11

ngoại tệ được duy trì khá ổn định nên các doanh nghiệp có xu hướng chuyển đổi từ ngoại tệ sang VND,
góp phần giảm tình trạng đôla hóa
Trong năm 2005 NHNN đã thực hiện điều hành tỷ giá (USD/VND) ổn định tương phù hợp với
diễn biến kinh tế tiền tệ, không tạo nên những bất lợi cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu khuyến khích
xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Trên thực tế, việc điều hành tỷ giá gắn với quan hệ cung – cầu (do
cung ngoại tệ lớn hơn cầu về ngoại tệ); tỷ giá trên thị trường tự do và trên thị trường liên ngân hàng
không có sự chênh lệch đáng kể, vị thế đối ngoại của đồng Việt Nam tiếp tục được duy trì khi đặt tương
quan trong mối quan hệ với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như đồng Euro, Yên Nhật, bảng Anh…
Việc ổn định tỷ giá đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tạo lòng tin của người dân với VND, tránh
được sự dịch chuyển từ VND sang gửi ngoại tệ trong bối cảnh lạm phát cao. Đồng thời, tạo tâm lý
thuận lợi, hướng nhìn nhận tốt về môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đã kết hợp chặt chẽ việc điều hành chính sách quản lý tỷ giá và
thị trường ngoại tệ, với các công cụ chính sách tiền tệ để điều hòa lượng tiền VND cung ứng khi mua
ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm không gây áp lực lên lạm phát và không ảnh hưởng đến
điều hành tỷ giá.
Với vai trò can thiệp cuối cùng để ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã thực hiện mua, bán
ngoại tệ với các NHTM để hỗ trợ nhu cầu về VND cũng như nhu cầu về ngoại tệ một cách kịp thời để
nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu và nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi
cung cầu trên thị trường biến động ảnh hường đến trạng thái ngoại tệ của các NHTM, NHNN can thiệp
bán ngoại tệ để cân bằng trạng thái, hạn chế rủi ro hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhờ nguồn

cung cấp ngoại tệ trên thị trường trong năm 2007 tăng mạnh, NHNN đã mua được một khối lượng lớn
ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối, tạo tiềm lực và thế chủ động cho NHNN trong việc can thiệp thị trường
và thực hiện mục tiêu điều hành CSTT. Năm 2007, Việt Nam có lượng dự trữ ngoại tệ lớn nhất từ trước
đến nay.
Chính sách tỷ giá của NHNN cũng được điều hành một cách linh hoạt phù hợp với diễn biến thị
trường trước sức ép VND lên giá do cung ngoại tệ lớn hơn cầu, bên cạnh việc NHNN mua ngoại tệ để
tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, dự phòng đối phó với nguy cơ dòng vốn đảo chiều, giảm áp lực tăng
giá VND, NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ nhằm giảm áp lực lạm phát, tăng tính chủ động cho các TCTD
trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Với sự chỉ đạo sát sao của Thường trực Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, Ngành,
NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh
khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể: Can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra
được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời bán ngoại tệ để can thiệp, hạ nhiệt thị trường khi thị trường dư cầu
và mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu trong thời điểm dư
cung ngoại tệ.Chính sách tỷ giá được điều hành, phối hợp đồng bộ, theo số liệu thống kê cho thấy từ
tháng 6/2008 đến nay, NHNN đã 6 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng:

Ngày 11/6/2008, điều chỉnh lên 16.461 VND/USD (+1,99%)
12

Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VND/USD(+ 3%)
Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VND/USD (+ 5,44%)
Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VND/USD (+ 3,36%)
Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VND/USD (+ 2,09%)
Ngày 11/2/2011, điều chỉnh lên 20.693 VND/USD (+ 9,3%)
Song song với các giải pháp trên, để đảm bảo tính tuân thủ trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng,
ngày 20/10/2011, NHNN ban hành Nghị định số 95/2011qui định những xử phạt hành chính trong lĩnh
vực ngân hàng, theo đó ác hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng như hoạt động
ngoại hối mà không được phép, niêm yết giá bằng ngoại tệ, vàng hoặc xuất vàng lậu có thể bị phạt tới

500 triệu đồng.
2.4. Đánh giá công tác Quản lý Ngoại hối năm 2012 và định hướng chính sách năm 2013
2.4.1. Đánh giá công tác điều hành thị trường ngoại tệ và tỷ giá năm 2012 và định hướng điều
hành tỷ giá năm 2013
Trong năm 2012, thị trường tài chính quốc tế tiếp tục có những diễn biến phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu
thấp hơn dự báo, chính sách tiền tệ nới lỏng của NHTW các nước. Tuy vậy, tình hình kinh tế - xã hội
trong nước vẫn có những chuyển biến khá tích cực, lạm phát được kiềm chế, nền kinh tế chuyển sang
xuất siêu sau nhiều năm trong tình trạng nhập siêu, cán cân thanh toán thặng dư lớn và dự trữ ngoại hối
tăng hơn gấp đôi so với cuối năm 2011.
Trong cả năm 2012, công tác điều hành tỷ giá và thị trường ngoại tệ cũng đã đạt được những kết
quả khả quan. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại không còn biểu hiện căng thẳng mà diễn
biến linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ và ở mức hợp lý hỗ trợ xuất khẩu. Doanh số giao dịch trên thị
trường ngoại tệ tăng mạnh, thanh khoản ngoại tệ trên thị trường cải thiện rõ rệt so với những năm
trước.Nhu cầu mua, bán ngoại tệ hợp lý và hợp pháp của các doanh nghiệp cũng như người dân được
hệ thống TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời.Thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tâm lý găm giữ ngoại tệ của người
dân đã giảm đáng kể. Xu hướng dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ sang tiền gửi tiền đồng liên tục được duy
trì trong cả năm. Đến cuối năm 2012, tiền gửi ngoại tệ của dân cư giảm hơn 13% so với cuối năm 2011
trong khi tiền gửi bằng tiền đồng của dân cư tăng 36%.Tình trạng đô la hóa được đẩy lùi một bước, tỷ
lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/M2 giảm còn dưới 13%. Thị trường ngoại tệ tự do gần như không còn hoạt
động công khai.
Thành công trong công tác điều hành tỷ giá và thị trường ngoại tệ xuất phát từ những nhân tố
chủ chủ yếu sau:
Đầu tiên, phải kể đến cam kết mạnh mẽ về ổn định tỷ giá của Thống đốc NHNN.Cam kết này
rất quan trọng vì nó thể hiện quyết tâm của cơ quan điều hành, ổn định tâm lý thị trường và định hình
kỳ vọng về tỷ giá của công chúng.Cam kết này được củng cố thêm bởi sự thành công của cam kết trước
13

đó trong năm 2011.Như vậy, trong cả hai lần, cam kết về ổn định tỷ giá đều đã được thực hiện, góp

phần quan trọng nâng cao uy tín của NHNN trong điều hành thị trường.
Thứ hai là chính sách tiền tệ được điều hành chặt chẽ, linh hoạt phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ
mô đã góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam, kiểm soát kỳ vọng lạm phát góp phần quan trọng hỗ trợ
bình ổn tỷ giá và thị trường ngoại hối. Chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến lạm
phát đã tạo chênh lệch lợi tức hợp lý thiên về nắm giữ tiền đồng thay vì ngoại tệ. Các công cụ chính
sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt nên mặc dù dự trữ ngoại hối tăng rất mạnh, một lượng lớn nội tệ
cung ứng ra thị trường nhưng không gây áp lực lên lạm phát.
Thứ ba là sự chủ động, linh hoạt của NHNN trong hoạt động mua bán ngoại tệ kết hợp với điều
hành tỷ giá theo hướng ổn định. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá mua ngoại tệ được giữ ổn định
trong suốt năm, cùng với hoạt động mua ngoại tệ được NHNN thực hiện linh hoạt đã định hướng cho tỷ
giá giao dịch thực tế của các TCTD, hỗ trợ thanh khoản cho thị trường và tạo điều kiện tăng mạnh dự
trữ ngoại hối Nhà nước.
Thứ tư là các giải pháp hướng tới mục tiêu giảm dần quan hệ huy động – cho vay ngoại tệ sang
quan hệ mua – bán ngoại tệ, giảm tình trạng đô la hóa và quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối được
tiếp tục triển khai. Công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm đối với thị trường ngoại tệ và vàng đã
được NHNN đẩy mạnh, tăng cường sự phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là thị trường vàng đã được sắp xếp lại một bước cơ bản thông qua
việc ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn của NHNN. NHNN đã triển
khai đồng bộ các giải pháp từng bước tổ chức sắp xếp lại thị trường vàng và chống tình trạng “vàng
hóa” nền kinh tế do vậy đã không tái diễn hiện tượng nhập lậu vàng như những năm trước, xóa bỏ một
kênh vốn dĩ xưa nay thường gây bất ổn cho thị trường ngoại hối và tỷ giá.
Có thể thấy các nguyên nhân chính góp phần ổn định tỷ giá chủ yếu là các biện pháp điều hành
chính sách tiền tệ và quản lý ngoại hối mà NHNN đã nhất quán thực hiện trong thời gian qua. Ngoài
những nguyên nhân đã nêu, các giải pháp đồng bộ của Chính phủ đã giảm mạnh áp lực lạm phát so với
năm ngoái tăng niềm tin của công chúng vào đồng Việt Nam góp phần không nhỏ vào ổn định tỷ giá.
Thặng dư cán cân thanh toán ở mức kỷ lục. Dự trữ ngoại hối Nhà nước gia tăng nhanh chóng góp phần
kiểm soát kỳ vọng về biến động tỷ giá, ổn định tâm lý cho các bên tham gia thị trường về khả năng can
thiệp thị trường ngoại hối của NHNN khi cần thiết.
Bước sang năm 2013, kế thừa những kết quả đã đạt được của năm 2012 như lòng tin của người
dân vào VND, chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành linh hoạt, chặt chẽ, dự trữ ngoại hối Nhà nước

đã ở mức cao và dựa trên những dự báo cán cân thanh toán của Việt Nam sẽ tiếp tục thặng dư, dù ở
mức thấp hơn so với năm 2012 (khoảng 3 tỷ USD), NHNN sẽ điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối
linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình cung cầu ngoại tệ, góp phần nâng cao tính cạnh
tranh của hàng hóa trong nước, khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, tiếp tục cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, giữ ổn định giá trị đồng Việt Nam, hỗ trợ phát
triển bền vững và chống đô la hóa nền kinh tế.
14


2.4.2. Đánh giá công tác quản lý thị trường vàng năm 2012 và định hướng chính sách quản lý thị
trường vàng năm 2013
Năm 2012 được đánh giá là năm ghi nhận sự thành công bước đầu trong công tác quản lý hoạt
động kinh doanh vàng thông qua việc tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng theo chủ
trương, định hướng của Chính phủ.
Trước bối cảnh giá vàng thế giới tăng trong những năm gần đây cùng với những bất ổn kinh tế
vĩ mô trong nước đã làm bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập của chính sách cho phép TCTD được huy động
và cho vay vốn bằng vàng và Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999. Để hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về quản lý thị trường vàng, từ cuối năm 2011 NHNN đã khẩn trương xây dựng và tham mưu,
trình Chính phủ ban hành hai Nghị định như sau:
Một là, Nghị định 95/2011/NĐ-CP (Nghị định 95) ngày 20/10/2011 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, theo đó các hoạt động kinh doanh vàng trái phép
sẽ bị cơ quan chức năng xử lý nghiêm khắc, đặc biệt là áp dụng hình thức xử p hạt bổ sung đối với hoạt
động nhập lậu vàng qua biên giới như tịch thu tang vật.
Hai là, Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 để thay thế Nghị định 174 về quản lý thị
trường vàng. Nghị định 24 được ban hành với hai mục tiêu chính: Thứ nhất là tổ chức, sắp xếp lại một
cách căn bản thị trường vàng miếng, ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát
và ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai là nâng cao vai trò quản lý thị trường vàng của Nhà nước, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế; có giải pháp hợp lý để huy động nguồn lực vàng trong
dân phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, Nghị định 24 cũng công nhận quyền sở hữu
vàng hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; quyền mua bán vàng miếng tại các TCTD, doanh nghiệp

được Nhà nước cấp phép.
Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm tổ chức, sắp xếp chặt chẽ thị trường vàng
thông qua việc giao cho NHNN thực hiện: cấp phép đối với hoạt động kinh doanh mua, bán vàng
miếng; tổ chức sản xuất vàng miếng; tổ chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu
để sản xuất vàng miếng và tổ chức huy động và mua, bán vàng miếng.
Sau khi Nghị định 24 được ban hành, NHNN đã khẩn trương ban hành các văn bản triển khai
Nghị định, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của NHNN thông qua
việc yêu cầu Công ty SJC thực hiện gia công vàng miếng. Quá trình gia công vàng miếng từ các nguồn
vàng này đều được được thực hiện một cách công khai, minh bạch và diễn ra dưới sự giám sát chặt chẽ
của NHNN.
Có thể đánh giá, cùng với sự ra đời của Nghị định 24, Nghị định 95 và các biện pháp NHNN đã
triển khai thực hiện trong năm 2012, thị trường vàng miếng đang từng bước được quản lý chặt chẽ từ
khâu sản xuất tới khâu lưu thông và có nhiều chuyển biến đáng kể so với trước kia. Mặc dù giá vàng
trong nước và thế giới biến động mạnh, nhưng không như thời gian trước đây, khoảng cách lớn giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới không đi kèm với hiện tượng “sốt vàng”. Mặc dù từ đầu năm đến
nay NHNN không cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, không thực hiện bình
15

ổn giá vàng nhưng hầu như không diễn ra việc thu gom ngoại tệ trên thị trường tự do để nhập lậu vàng
qua biên giới, nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, không bị tác động tiêu cực bởi sự biến động
của giá vàng. Như vậy, có thể khẳng định Nghị định là bước đi đúng hướng và việc triển khai Nghị
định 24 trong hơn 6 tháng vừa qua bước đầu đã đạt được các mục tiêu, định hướng quản lý của Chính
phủ, góp phần giảm bớt sự hấp dẫn của vàng miếng, bước đầu giảm tình trạng ”vàng hóa” và ổn định
kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh việc ban hành và triển khai Nghị định 24, nhằm thực hiện chủ trương tiến tới xóa bỏ
tình trạng ”vàng hóa” trong nền kinh tế để chuẩn bị cho giai đoạn chuyển hóa quan hệ huy động, cho
vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng, trong giai đoạn hai, NHNN đã ban hành các văn bản
chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD. Ngày 25/11/2012, các TCTD đều
chấm dứt huy động vàng và chấp hành đúng quy định của NHNN.Dự kiến đến ngày 30/6/2013, các
TCTD phải tất toán hoàn toàn số dư huy động vốn bằng vàng.

Như vậy, sau khi chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng, thị trường vàng sẽ
không còn hoạt động huy động vàng để cho vay vàng đầu tư hoặc chuyển đổi vàng huy động thành tiền,
không được vay vốn mua vàng, chỉ còn quan hệ mua, bán vàng theo đúng chủ trương của Nhà nước về
việc chống ”vàng hóa” trong nền kinh tế, từ đó giảm nhu cầu cất trữ vàng và giảm tâm lý nắm giữ vàng
trong dân, góp phần tăng nguồn cung vàng trên thị trường. Đồng thời, các TCTD mở rộng dịch vụ giữ
hộ vàng có thu phí để đảm bảo an toàn tài sản bằng vàng của người dân.
Để đảm bảo các quyền hợp pháp của người dân đối với vàng miếng như mua bán, nắm giữ,
được bảo đảm an toàn thông qua dịch vụ giữ hộ của các TCTD và việc mua, bán vàng miếng được diễn
ra trên thị trường có tổ chức, NHNN đang tổ chức lại mạng lưới mua, bán vàng miếng, trong những
ngày tới NHNN dự kiến sẽ cấp phép cho 14 doanh nghiệp và 17 TCTD đáp ứng đủ các điều kiện, hồ
sơ, thủ tục quy định tại Nghị định 24 và Thông tư 16. Như vậy, dự kiến sẽ có trên 2.000 điểm giao dịch
mua, bán vàng miếng ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. NHNN sẽ công bố công khai
danh sách tên, địa điểm, địa chỉ giao dịch của các TCTD, doanh nghiệp được phép kinh doanh mua,
bán vàng miếng trên trang thông tin điện tử của NHNN. Theo quy định tại Thông tư 16, từ ngày
10/1/2013, các doanh nghiệp, TCTD không có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng do NHNN
cấp sẽkhông được phép thực hiện kinh doanh mua, bán vàng miếng.
Đồng thời, để kiểm soát rủi ro biến động giá vàng trong hoạt động kinh doanh mua, bán vàng
miếng đối với các TCTD, NHNN sẽ ban hành văn bản yêu cầu các TCTD đáp ứng đủ điều kiện kinh
doanh mua bán vàng miếng phải tuân thủ trạng thái vàng.
Trong năm 2013, NHNN sẽ tiếp tục triển khai chủ trương, định hướng của Chính phủ về lộ trình
xóa bỏ tình trạng ”vàng hóa” nền kinh tế và quản lý chặt chẽ thị trường vàng, không cho phép liên
thông giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới để tránh tình trạng đầu cơ, làm giá.NHNN sẽ tiếp
tục áp dụng các biện pháp đồng bộ cần thiết để triển khai Nghị định 24, giám sát chặt chẽ quá trình tất
toán số dư huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD. Đồng thời, NHNN sẽ áp dụng các biện
pháp cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến độ gia công vàng miếng SJC từ vàng miếng thương hiệu khác để hỗ
trợ cho các TCTD có nguồn vàng chi trả cho các khoản huy động, giữ hộ đến hạn.
16

Khi thị trường vàng miếng hoạt động tương đối ổn định, nhằm thực hiện giai đoạn cuối cùng về
xóa bỏ ”vàng hóa” nền kinh tế, Nhà nước huy động nguồn lực vàng trong nền kinh tế để phục vụ cho

hoạt động sản xuất kinh doanh và sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, NHNN sẽ tham gia thị
trường với vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị trường vàng miếng, đảm bảo sự lưu
thông của thị trường và tăng Dự trữ Ngoại hối Nhà nước bằng vàng.
Tóm lại, trong thời gian qua, NHNN đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành có liên
quan áp dụng các biện pháp đồng bộ để tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng, đặc biệt
là thị trường vàng miếng. Đây là tiền đề quan trọng để đạt được mục tiêu chuyển hóa nguồn lực vàng
trong nước để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội.

CHƯƠNG III: KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA QUỐC TẾ - KHẢ NĂNG ÁP
DỤNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của một số nước trên thế giới
3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải thực hiện từng bước tự do hóa tài khoản vốn, tự do
hóa thị trường tài chính theo lộ trình đã cam kết. Mặt khác, kể từ năm 2005, Trung Quốc phát triển quá
nóng khiến dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) chảy vào ồ ạt, do đó các biện pháp hành chính
không còn giữ được vai trò chủ đạo trong quản lý vốn ĐTNN. Để ngăn chặn tình trạng đảo ngược dòng
vốn, việc áp dụng các biện pháp quản lý vốn trên cơ chế thị trường đạt hiệu quả hơn
Với dự trữ ngoại hối lớn, tiềm lực tài chính trong nước mạnh, cho đến nay quan điểm của Trung
Quốc rất rõ ràng đối với các nhà đầu tư tài chính quốc tế, đó là: Hạn chế dòng vốn FII (Trung Quốc quy
định theo định lượng để phân biệt FII và FDI).
Hoạt động FII - là việc nắm giữ dưới 10% cổ phần tại một tổ chức phát hành. Nắm giữ trên 10%
được coi là FDI, do đó chỉ cho phép các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp lớn, có kinh nghiệm và uy tín
trên thế giới được tham gia đầu tư một cách hạn chế để định hướng sự phát triển bền vững của TTCK.
Với quan điểm này, Trung Quốc đã có những quy định cụ thể như sau:
- Đối với các nhà đầu tư cá nhân nước ngoài: không cho phép các nhà đầu tư cá nhân tham gia
TTCK Trung Quốc.
- Đối với các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài: cấp phép đầu tư theo hạn ngạch cho một số tổ
chức đầu tư lớn trên thế giới sau khi đã đáp ứng một số điều kiện tối thiểu, gọi tắt là QFII.
Về quản lý dự trữ ngoại hối, theo Luật, NHTW Trung quốc quản lý dự trữ ngoại hối và theo đó
Cục quản lý ngoại hối ra các quyết định quản lý và Vụ quản lý dự trữ ngoại hối là đơn vị thực hiện các

quyết định này. NHTW Trung quốc quản lý dự trữ theo các tiêu chuẩn đầu tư và quản lý rủi ro theo mô
hình tính toán rủi ro theo ngày. Hiện nay, TQ cố gắng đào tạo đội ngũ quản lý dự trữ ngoại hối chuyên
nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế. Với các yêu cần an toàn, thanh khoản trong quản lý ngoại hối, dự trữ
được đầu tư vào các công cụ trái phiếu Chính phủ, tiền gửi các NH có tín nhiệm cao và một ít vào trái
phiếu công ty và theo đuổi các chiến lược đầu tư dài hạn chứ không theo đuổi việc đầu cơ ngắn hạn trên
thị trường ngoại hối.
3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc:
17

Từ giữa những năm 90 đến nay, công tác quản lý dự trữ của Hàn Quốc có nhiều thay đổi. Việc
quản lý dự trữ ngoại hối chủ yếu dựa vào các tiêu chuẩn đầu tư để xây dựng các chiến lược đầu tư và
các mô hình quản lý rủi ro, triển khai áp dụng các mô hình kinh tế (sử dụng IT system) để tính mức
sinh lời theo giá thị trường và tiêu chuẩn hóa việc đánh giá thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối.
Với mục tiêu thanh khoản, một phần dự trữ được đầu tư vào công cụ của thị trường tiền tệ bằng
đồng USD như tiền gửi, tín phiếu. Tuy nhiên, mức đầu tư ngắn hạn chỉ ở quy mô nhỏ, đủ để đáp ứng
nhu cầu để giảm chi phí cơ hội. Với mục tiêu sinh lời nhưng vẫn phải an toàn và thanh khoản, dự trữ
ngoại hối được đầu tư một cách đa dạng theo các đồng tiền mạnh như USD, EUR, JPY, GBP … và các
công cụ có lãi suất cố định như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu quốc gia, trái phiếu công ty do các tổ
chức tài chính phát hành, trái phiếu công ty do người nước ngoài quản lý. Và một phần dự trữ ngoại hối
được giao cho các nhà quản lý nước ngoài đầu tư là loại hình đầu tư gián tiếp vào các tài sản có mức
sinh lời cao và đi kèm có mức rủi ro cao đồng thời thông qua chiến lược này đào tạo cán bộ về kỹ năng
đầu tư và tham gia các chương trình đào tạo nước ngoài.
Về tiêu chuẩn đối tác đầu tư, thì Hàn quốc chỉ đầu tư vào các đối tác có xếp hạng tín nhiệm từ
AA trở lên. Về việc xác định cơ cầu đồng tiền trong dự trữ, cần xem xét các yếu tố như: cơ cấu đồng
tiền của nợ nước ngoài, cơ cấu đồng tiền trong thanh toán cán cân vãng lai, cơ cấu của các thị trường
trái phiếu toàn cầu chủ chốt. Cơ cấu đồng tiền này chỉ xem xét để thay đổi hàng năm và không thường
xuyên thay đổi và việc thay đổi cơ cấu đồng tiền chỉ diễn ra dần dần. Việc quản lý dự trữ còn được thực
hiện dựa vào việc phân bổ theo đối tác như Chính phủ, tổ chức tài chính và phân bổ dự trữ dựa vào
đường thu nhập và mục tiêu kỳ hạn.
Tại Hàn Quốc, các nhà quản lý dự trữ ngoại hối trực tiếp có thể được phép đầu tư trên nguyên

tắc tuân thủ các tiêu chuẩn đầu tư đã được quyết định (benchmarks) nhưng các tiêu chuẩn đầu tư này
thường được qui định theo biên độ trần để linh hoạt. Các tiêu chuẩn đầu tư được phân bổ chi tiết theo
khu vực như Chính phủ, đại lý, công ty và theo kỳ hạn dựa vào phân tích về đường cong lợi tức và xu
hướng lãi suất, loại chứng khoán và việc mua bán ngắn hạn trên thị trường ngoại hối. Ngoài ra, Hàn
quốc còn sử dụng nghiệp vụ cho thuê chứng khoán để có thêm thu nhập với rủi ro tối thiểu thông qua
việc sử dụng các công ty chứng khoán và Hàn quốc còn mở đại diện tại New York và London.
Về mô hình tổ chức, Hàn quốc phân tách rõ rệt 3 chức năng : giao dịch, phân tích và hạch toán
bằng việc thành lập front office, middle office và back office và đơn vị quản lý dự trữ ngoại hối tập
trung (Vụ Quản lý dự trữ) trong đó chú trọng và thành lập bộ phận phân tích kinh tế lượng dựa vào mô
hình kinh tế (middle office) và bộ phận xây dựng chiến lược đầu tư (front office) để tăng cường và
nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối, thuê chuyên gia có kinh nghiệm từ khu vực tư nhân để
quản lý dự trữ ngoại hối và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, vẫn còn có một số thách thức với Hàn quốc trong công tác
quản lý dự trữ ngoại hối như cần phải đa dạng hơn trong đầu tư dự trữ ngoại hối để có mức sinh lời cao
hơn, đặc biệt trong bối cảnh dự trữ ngoại hối vượt mức cần thiết như hiện nay để giảm thiểu chi phí cơ
hội. Nguyên tắc thanh khoản trong quản lý dự trữ sẽ hạn chế mức thu nhập. Trong bối cảnh dư trữ
ngoại hối toàn cầu gia tăng như hiện nay thì các công cụ đầu tư truyền thống như trái phiếu kho bạc Mỹ
chỉ tăng với khối lượng hạn chế. Do vậy, phải tính đến các công cụ không truyền thống như trái phiếu
công ty, chứng khoán của các nước phát triển, Quĩ bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán của thị trường
mới nổi và đặc biệt phải tính đến việc sử dụng các quĩ quản lý của nước ngoài khi đầu tư vào các công
cụ không truyền thống này.
Để có thể đáp ứng với những thay đổi và thách thức trong quản lý dự trữ ngoại hối, Hàn quốc đã
sử dụng các phần mềm vi tính hiện đại trong việc phân bổ cơ cấu dự trữ theo công cụ đầu tư mới như
18

trái phiếu công ty. Ngoài ra, để hỗ trợ, NHTW Hàn quốc đã nhận được sự trợ giúp của Ngân hàng thế
giới về các chương trình đạo tạo chuyên sâu về quản lý dự trữ ngoại hối từ tháng 6/2005 (chương trình
RAM P).
Hiện nay, Hàn quốc bắt đầu sử dụng chương trình quản lý tài sản nợ có (AM L). Trong đó mô
hình ALM đã sử dụng kịch bản đầu tư dựa trên một số giả định như biến động vĩ mô, thay đổi về cấu

trúc (tiền điện tử), biến động thị trường lớn hay khủng hoảng tài chính xảy ra để có những quyết định
kịp chiến lược trong công tác quản lý dự trữ ngoại hối và chính sách tiền tệ.
3.1.3. Kinh nghiệm của Chi lê và các nước tiên tiến khác:
Từ năm 2000 đến nay, NHTW Chilê đã thực hiện hiệu quả chính sách lạm phát mục tiêu hoàn
chỉnh với mục tiêu là lạm phát danh nghĩa (hay chỉ số CPI) hàng năm là 3% (với biên độ +/-1%). Để
đạt được mucj tiêu đó, Nhà nước Chi lê đã tiến hành việc không thực hiện việc kiểm soát các hoạt
động liên quan đến giao dịch tài chính quốc tế. Về nguyên tắc, mọi giao dịch chu chuyển vốn vào và ra
khỏi đất nước đều được tự do hóa. Tỷ giá hối đoái cũng được thả nổi. Đồng tiền bản tệ là đồng tiền tự
do chuyển đổi. Cụ thể:
Trong việc thi hành chế độ tỷ giá thả nổi, NHTW Chilê vẫn có quyền can thiệp trong trường hợp đặc
biệt. Chế độ tỷ giá linh hoạt cho phép NHTW Chilê có được sự độc lập hoàn toàn trong hoạch định
chính sách tiền tệ giúp neo kỳ vọng lạm phát; có hiệu quả hơn trong việc đối phó hiệu ứng chu kỳ;
Trong việc quản lý dự trữ ngoại hối của NHTW Chilê được thực hiện theo những nguyên tắc:
- Cơ cấu đồng tiền trong dự trữ ngoại hối căn cứ vào: (i) việc giảm thiểu ảnh hưởng đến giá trị bảng
cân đối tài sản của NHTW định giá bằng đồng tiền nội địa; (ii) yêu cầu ngoại tệ có tính thanh khoản
cao. Sử dụng cả hai nguyên tắc trên, NHTW đã xây dựng cơ cấu đồng tiền trong dự trữ ngoại hối như
sau: USD – 60% (+/- 5%); Euro – 40% (+/- 5%). Trên thực tế, NHTW Chilê đã duy trì cơ cấu đồng tiền
trong dự trữ ngoại hối không thay đổi trong giai đoạn 1999 – 2006.
- Dựa trên phương pháp Chi phí – Lợi ích để đánh giá mức độ dự trữ ngoại hối phù hợp, có tính đến
các đặc điểm riêng của Chilê. Phương pháp này dựa vào hai chỉ số: (i) chi phí biên: là chênh lệch giữa
thu nhập kỳ vọng với chi phí tài trợ, ví dụ mức chênh lệch lãi suất trong nước của Chilê; (ii) lợi ích
biên: tính bằng hiệu ứng ước lượng của một thay đổi dự trữ với xác suất xẩy ra và chi phí mất đi do 1
cuộc khủng hoảng tài chính.
Trong khi chi phí biên có thể xác định tương đối đơn giản thì lợi ích biên được xác định bằng một
mô hình phân tích phức tạp.Cuối năm 2003 kết quả của phép phân tích này dẫn đến NHTW Chilê bắt
đầu một chương trình giảm mức dự trữ ngoại hối (ngược lại với xu thế ở các nước đang phát triển là
tìm cách tăng dự trữ ngoại hối của NHTW).
- NHTW Chilê không có trách nhiệm giải trình trước Tổng thống, Quốc hội, Chính phủ khi dự trữ
ngoại hối thay đổi do tỷ giá thay đổi. Do thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi (NHTW chỉ điều tiết trong
trường hợp đặc biệt như sau vụ khủng bố 11/9/2002) dẫn đến đồng pêsô biến động mạnh, bảng cân đối

tài sản NHTW mất cân đối nghiêm trọng, phải dùng nguồn tiền bổ sung từ Bộ Tài Chính. Mặc dù vậy,
NHTW Chilê cho rằng đây là cái giá phải trả để đạt được mục tiêu của CSTT là lạm phát mục tiêu.
Ngoài ra điều quan tâm của các nhà hoạt động chính trị cũng như công chúng Chilê không phải là dự
trữ ngoại hối của NHTW mà là mức lạm phát, tốc độ phát triển kinh tế, chỉ số thất nghiệp.
Từ việc áp dụng chính sách trên, Chilê đã đạt được những thành quả quan trọng sau: trong thập
kỷ 90, Chilê là một trong những quốc gia tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới, thu hẹp chênh
lệch thu nhập tính theo đầu người giữa Chilê và các quốc gia phát triển 30% trong vòng 20 năm; Chilê
19

duy trì chính sách tài chính công vững mạnh, thặng dư ngân sách trong hầu hết 20 năm qua; phát triển
được hệ thống ngân hàng, thị trường vốn vững mạnh và có chiều sâu.
3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ngoại hối ở Việt Nam
3.2.1. Nguyên tắc quản lý chính sách ngoại hối
Xây dựng một chính sách quản lý ngoại hối tối ưu dựa trên kinh nghiệm của các nước và phù
hợp với tình hình thực tế của Việt Nam là một bài toán khó. Nếu áp dụng cơ chế tự do hóa Nhà nước
không kiểm soát các hoạt động liên quan đến các giao dịch tài chính quốc tế như ở Chile và các nước
công nghiệp phát triển tiên tiến khác như Mỹ, Canada, Đức, Anh thì sẽ thu hút được một khối lượng
vốn lớn phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế và hiện đại hoá đất nước, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp và doanh nhân có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn do việc phân bổ nguồn
vốn được thực hiện một cách hiệu quả nhưng nếu chưa xây dựng được những cơ sở kinh tế, tài chính,
pháp lý một cách đồng bộ thì sẽ đã phải đối mặt với những mặt trái của nó. Ví dụ như trong những
năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, một số nước công nghiệp
mới (NIC) như Hàn Quốc, Singapore, đảo Đài Loan và cả các nước đang phát triển thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế như Thái Lan, Malaysia và Indonesia trong khi chưa hoàn thiện được hệ
thống quản lý kinh tế, tài chính và pháp lý dẫn đến có một sự đổ ồ ạt luồng vốn ngắn hạn vào các nước
này và sau khi có biến động thì kéo theo sự chuyển vốn hàng loạt ra nước ngoài, gây nên cuộc khủng
hoàng tài chính tiền tệ năm 1997.
Tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa then chốt trong
quá trình tự do hoá hoạt động ngoại hối. Thực tiễn về việc tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế ở
các nước trải qua cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua là một bài học đắt giá. Trình tự tự

do hoá các giao dịch tài chính quốc tế mà quan trọng nhất là giao dịch vốn là một vấn đề quan trọng
nhưng rất phức tạp. Tuy vậy, để thực hiện việc tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế, cần xem xét,
cân nhắc một số nguyên tắc sau:
- Tự do hoá FDI là bước khởi đầu của tự do hoá giao dịch vốn: Mặc dầu FDI đôi khi làm nảy sinh
một số quan ngại về quyền sở hữu và sự kiểm soát của nước ngoài nhưng nó mang lại những lợi ích
đáng kể, trong đó có việc chuyển giao công nghệ và tập quán kinh doanh hiệu quả hơn. Nguồn vốn FDI
ít bị tác động khi có những biến động về tài chính dẫn đến việc ồ ạt chuyển vốn ra nước ngoài hơn là
nguồn vốn vay ngân hàng. Nếu có việc chuyển vốn ra nước ngoài thì bản thân nó không gây ra những
vấn đề khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như đầu tư tài chính hoặc vay nợ. Bởi vậy, việc tự do hoá
FDI là một bộ phận trong chương trình tự do hoá hoạt động giao dịch vốn có thể được thực hiện đầu
tiên;
- Lành mạnh hoá hệ thống tài chính - ngân hàng trước khi tự do hoá các giao dịch quốc tế: Sẽ là một
sai lầm nếu như tiến hành tự do hoá các giao dịch tài chính quốc tế khi một bộ phận quan trọng của hệ
thống tài chính - ngân hàng mất khả năng thanh toán hoặc có thể bị đẩy vào tình cảnh mất khả năng
thanh toán nếu Chính phủ tiến hành tự do hoá hoạt động tài chính. Do vậy, trước khi thực hiện tự do
hoá các giao dịch tài chính quốc tế, đặc biệt là tự do hoá các giao dịch vốn, thì phải đóng cửa các định
chế tài chính yếu kém, đồng thời phải tiến hành việc củng cố và làm lành mạnh các định chế tài chính
còn lại.
20

- Tự do hoá các giao dịch vốn phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính: Vì hệ thống Ngân
hàng có vai trò trung tâm trong các vấn đề về tài chính của các nước có thị trường mới nổi. Sự bảo lãnh
ngầm của Chính phủ khuyến khích nguồn vốn từ nước ngoài vào không bền vững và quá lớn so với sức
hấp thụ của nền kinh tế. Thực tế cho thấy một khối lượng vốn lớn từ bên ngoài đã chảy vào các nước có
sự bảo lãnh ngầm của Chính phủ. Hệ thống kế toán, kiểm toán và tính minh bạch yếu kém ở các nước
này đã làm suy yếu kỷ luật thị trường. Hơn nữa, khả năng thanh tra, phòng ngừa và quản lý yếu kém
đối với các định chế tài chính và thị trường đã nuôi dưỡng sự tham nhũng, tín dụng móc ngoặc và đầu
cơ. Đối với những nước mà ở đó những tệ nạn này ở mức nghiêm trọng thì cần phải tiến hành tự do hoá
các giao dịch vốn hết sức thận trọng và từng bước gắn với việc xoá bỏ các tệ nạn nói trên.
- Tạo lập hạ tầng cơ sở cho các thị trường trong nước trước khi tự do hoá các giao dịch tài chính

quốc tế: Thị trường trong nước và hạ tầng cơ sở tài chính cho việc đầu tư gián tiếp vào các cổ phiếu và
công cụ nợ tại các nước có thị trường mới nổi chưa được phát triển. Do vậy, việc tạo dựng cơ sở hạ
tầng tài chính cho các thị trường trong nước là vấn đề rất cần thiết trước khi mở cửa những thị trường
này cho bên ngoài. Nền kinh tế cũng sẽ hưởng lợi từ việc phát triển các thị trường tài chính trong nước
khi các luồng vốn chu chuyển thông qua các thị trường này và không quá phụ thuộc vào hệ thống ngân
hàng.
- Tự do hóa các giao dịch vốn dài hạn trước khi tự do hóa các giao dịch vốn ngắn hạn: Do những
vấn đề đặc thù của vay nợ nước ngoài ngắn hạn, có thể tiến hành tự do hoá các giao dịch vốn dài hạn,
đặc biệt là các giao dịch liên quan đầu tư trực tiếp, trước khi tự do hoá các giao dịch vốn ngắn hạn.
3.3. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối của Việt Nam.
3.3.1. Kiến nghị trong việc dự trữ ngoại hối:
Áp dụng phương pháp, kỹ thuật quản lý hiện đại trong việc đầu tư dự trữ ngoại hối để có được
cơ cấu dự trữ ngoại hối hợp lý những vẫn tối đa hoá mức sinh lời trong vùng rủi ro cho phép.Tuân thủ
ba nguyên tắc cơ bản của quản lý dự trữ theo thứ tự ưu tiên: An toàn (security), Thanh khoản
(Liquidity) và Có lợi nhuận.
Áp dụng mạng dịch vụ, hệ thống thông tin hiện đại để phù hợp với tình hình quản lý hiện tại của
Việt Nam, các hệ thống mạng dịch vụ và thông tin sau đây có thể sử dụng gồm: (i) Hệ thống Reuter
Dealing 2000; (ii) Hệ thống Bloomberg; (iii) Hệ thống TTRS (Telerate Trading Room System); (iv) Hệ
thống SWIFT; (v) Hệ thống PORTIA và (vi) Hệ thống quản lý rủi ro.
Công khai khóa số liệu dự trữ ngoại hoisok các mức rủi ro có thể chấp nhận được và các báo
cáo kết quả kinh doanh ngoại hối để tăng tính minh bạch trong quản lý dự trữ ngoại hối, tạo lập niềm
tin của dân chúng vào việc ổn định tỷ giá và tăng cường việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
3.3.2. Kiểm soát các giao dịch vốn quốc tế:
Theo nghiên cứu của KcKinnon: Tự do hóa giao dịch vốn sẽ được thực hiện ở giai đoạn cuối
của quá trình cải cách thị trường tài chính. Trong đó, quá trình tự do hóa giao dịch vốn được thực hiện
theo trình tự sau: FDI, đầu tư cổ phiểu, đầu tư trái phiếu chính phủ, và tría phiếu công ty, công cụ thị
trường tiền tệ, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng à phi ngân hàng, các công cụ tiền tệ, phi tín
dụng thương mại và các công cụ phái sinh. Theo khuyến nghị của OECD, tự do hóa FDI sẽ được tiến
21


hành trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách, dần dần đến những hạng mục sau, và cuối cùng là các
công cụ phái sinh.
Đối với luồng vốn FDI, chính phủ cần có sự kiểm soát tính khả thi và hiệu quả các dự án FDI
nhằm đảm bảo sự tương đồng giữa lượng vốn cam kết và lượng vốn thực hiện, cũng như giảm thiểu độ
trể của luồng vốn này. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng nguồn vốn FDI cần phải sắp xếp lại
và đổi mới công nghệ nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với luồng vốn gián tiếp: không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn của
bên đối tác nước ngoài, kèm theo những ràng buộc về hình thực đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử
dụng lao động để duy trì sự kiểm soát của nhà nước với thị trường tài chính.
Để quản lý các luồng vốn chu chuyển ra vào Việt Nam, Nhà nước cần xây dựng một cơ quan
chuyên trách để đảm bảo tính thống nhất trong việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Đồng thời xây
dựng một hành lang qui phạm pháp luật để có những chế tài cụ thể đối với các hành vi vi phạm.
3.3.3 Quản lý tỷ giá và thị trường tiền tệ:
 Quản lý thị trường tiền tệ:
Để củng cố lòng tin của người dân về VNĐ và ổn định sức mua của đồng tiền nội tệ, giảm thiểu tình
trạng đô la hóa nền kinh tế, NHNN có thể áp dụng giải pháp chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm bằng
ngoại tệ song song với việc giải phóng lãi suất nội tệ và giải phóng tỷ giá, tạo điều kiện cho các chủ thể
nắm giữ ngoại tệ bán cho các NHTM. Tiến hành minh bạch hóa nguồn gốc ngoại tệ nắm giữ góp phần
chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý công tác ngoại hối.
 Quản lý tỷ giá hối đoái:
Nhà nước cần xây dựng hoàn thiện thị trường ngoại hối nhằm đạt được mục tiêu tỷ giá phản ánh
cung cầu ngoại tệ của toàn bộ thị trường. Biên độ tỷ giá tiến tới ngày càng nới lỏng và tiến tới xóa bỏ
trong dài hạn. NHNN cần nâng cao “tính thị trường” của tỷ giá trong khuôn khổ cơ chế thả nổi có điều
tiết. Mặt khác, chúng ta cũng cần nâng cao khả năng điều tiết của NHNN thông qua thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng trên cơ sở tính toán tỷ giá mục tiêu của nền kinh tế bằng các mô hình định lượng hiện
đại.
Khuyến khích đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như giao dịch kỳ hạn, giao dịch
hoán đổi, và giao dịch tương lai theo tiêu chuẩn quốc tế.
Các thủ tục hành chính, cấp phép, xin cho cần tiếp tục được xoá bỏ và thay thế bằng cơ chế tập
trung các hoạt động ngoại hối thông qua các TCTD, chế độ báo cáo, khai báo. Các chế tài, thiết chế xử

lý vi phạm cần phải được nhấn mạnh và quy định rõ kết hợp với cơ chế phân cấp quản lý rõ ràng, đồng
bộ trên cơ sở gắn trách nhiệm trực tiếp.
Quản lý thị trường vàng:
Thị trường vàng cần quản lý theo quy luật cung – cầu trên cơ sở liên thông, gắn kết với thị
trường vàng thế giới. Tuy nhiên, do vàng là tài sản quốc gia và là hàng hóa mang tính tiền tệ đặc biệt
nên Nhà nước có cơ chế quản lý sao cho huy động tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển và
bình ổn kinh tế vĩ mô, có thể điều tiết được thị trường khi cần.
Cùng với quá trình tự do hoá thị trường tài chính, thị trường vàng cũng cần tự do từng bước
nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của thị trường tài chính. Theo kinh nghiệm của nhiều nước
trong đó có Trung Quốc, tiến trình tự do hoá thị trường vàng nên bắt đầu từ tự do hoá thị trường vàng
22

vật chất, sau đó đến kinh doanh vàng tài khoản và cuối cùng là từng bước xoá bỏ kiểm soát đối với hoạt
động xuất nhập khẩu vàng.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) là đầu mối quản lý thị trường vàng và điều tiết thị trường này
theo quy luật cung cầu thị trường. Quản lý của NHTW cần phải hướng tới việc kiểm soát được việc
kinh doanh, đầu tư vàng của đối tượng đầu tư, tiêu dùng. Muốn vậy, NHTW cần xây dựng cơ sở pháp
lý đảm bảo đối tượng đầu tư, tiêu dùng chỉ có thể mua, bán vàng trên mạng lưới mà NHTW thiết lập
(như các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, sàn/sở giao dịch vàng,…). Từ đó,
Chính phủ không cần thiết phải cấm người dân mua, bán và tích trữ vàng miếng mà vẫn quản lý được
nguồn lực tài chính quốc gia, đủ năng lực và công cụ để đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm
ổn định và điều tiết thị trường khi cần.
Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Sở giao dịch hàng hoá trong đó có giao dịch vàng
(trên cơ sở vàng được coi như một loại hàng hóa đặc biệt) như mô hình của Sở giao dịch vàng Thượng
Hải để đưa thị trường vàng trong nước liên thông với thị trường vàng quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc
gia khác cho thấy, việc đưa hoạt động kinh doanh vàng vào quản lý theo thị trường tập trung mang lại
hiệu quả cao về kinh tế, xã hội.

KẾT LUẬN
Quản lý ngoại hối trong bối cảnh đất nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường và ngày càng

hội nhập vào nền kinh tế thế giới có một vai trò hết sức quan trọng. Quản lý ngoại hối là một trong
những công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết nền kinh tế thị trường, nhằm kiểm soát, giám sát, ,
hạn chế các rủi ro , biến động thị trường ngoại hối, các tác động cung cầu ngoại tệ, cán cân thương mại,
hỗ trợ thực thi chính sách tiền tệ, phát triển thị trường ngoại hối, các công cụ phòng ngừa rủi ro.
Tiểu luận: “Chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Kinh tế Quốc tế” đã đi sâu vào nghiên cứu kinh nghiệm quản lý ngoại hối của các nước trên thế giới và
các chính sách Quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam qua đó tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế và nâng cao chất lượng Quản lý ngoại hối của NHNN VN trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, công tác quản lý ngoại hối là một phạm vi rộng lớn và mang tính chất vĩ mô.
Trong khuôn khổ tiểu luận với điều kiện hạn chế cả về thời gian, thông tin, kiến thức khó có thể bao
quát được toàn bộ nội dung chính sách nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý của cô giáo để bài tiểu luận này được hoàn chỉnh hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!




23

































24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Vụ Quản lý Ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Báo cáo chính sách điều hành tỷ
giá năm 2009 và 4 tháng đầu năm 2010.
2.
Nguyễn Văn Tiến (2009), Giáo trình Tài chính – Tiền tệ - Ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội.
3.
Nguyễn Văn Tiến (2006), Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh, NXB

Thống kê, Hà Nội.
4.
Nguyễn Thị Nhung (2004), Cơ chế quản lý ngoại hối hướng tới hội nhập kinh tế Quốc tế, Vụ
quản lý ngoại hối.
5.
Nguyễn Văn Tiến (2002), Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
Quốc tế , NXB Thống Kê, Hà Nội
6.
Bài viết: “Quản lý vốn nước ngoài và ổn định kinh tế vĩ mô - Kinh nghiệm của Trung Quốc”
xuất bản ngày 15/8/2013- Tạp chí chứng khoán số 8 tháng 8/2013
7.
Bài viết: “Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng và huy động vàng của Ấn Độ”, TS Tô Ánh
Dương – Viện kinh tế Việt Nam.
8.
Bài viết “Tự do hóa các giao dịch tài chính quốc tế trong điều kiện hội nhập”, Nguyễn Quang
Thép, Tạp chí ngân hàng số 13/2006
9.
Khóa luận: “Chính sách quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu
khủng hoảng tài chính”

…………


×