Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.94 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986), nền kinh tế nước ta
chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý và điều tiết của Nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho
hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, từ đó tăng cường khả năng khai
thác các nguồn lực trong và ngoài nước.Với một nước nghèo và kém phát triển
như Việt nam thì việc nhập khẩu phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước có
vai trò vô cùng quan trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Việt nam đang tiếp tục mở rộng hoạt
động thương mại theo hương đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng giao lưu kinh tế tạo thị trường thông suốt
trong và ngoài nước.
Để làm được điều đó Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp khuyến
khích nhất định. Nhờ thế mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng
lên, kéo theo nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Một thách thức
mới được đặt ra đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là: làm thế nào để có
thể đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt ?, câu
trả lời là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
kinh doanh là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô, đầu tư
cải tiến công nghệ và kỹ thuật trong kinh doanh và quản lý kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất tinh cho người lao động từ đó giúp doanh nghiệp đứng vững và
phát triển trên thị trường.
1
Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường ngày nay, sau một thời gian nghiên cứu tại trường kết hợp với
tình hình nghiên cứu thực tế tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y, cùng với
sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Phương Liên em đã chọn đề tài: “
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu
tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y” làm đêf tài nghiên cứu cho chuyên
đề tốt nghiệp. Nội dung đề tài gồm 3 phần:


Chương I: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại các
công ty xuất nhập khẩu trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương II: Tình hình nhập khẩu và hiệu quả nhập khẩu tại công ty Cổ phần
dược và vật tư thú y.
Chương III: Một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu và nâng cao
hiệu quả kinh doanh tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y.
2
CHƯƠNG I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU TẠI CÁC CÔNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
I. HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường .
Lịch sử đã chứng minh rằng không một nền kinh tế nào có thể phát triển
nếu nó thực hiện chính sách đóng cửa và cách biệt với thế giới xung quanh. Trên
thực tế cho thấy các nước có nền kinh tế phát triển đều dựa trên sự phát triển các
mối quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ với các
nước khác. Các mối quan hệ đó chính là hoạt đông xuất nhập khẩu .
Thương mại quốc tế ra đời trên các mối quan hệ trao đổi hàng hoá giữa
các nước trên thế giới. Thương mại quốc tế phát triển không những tạo điều kiện
cho kinh tế phát triển, mở rộng và nâng cao quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá của một nước nào đó mà còn tạo ra sự phát triển chung cho tất cả các nước
tham gia các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và nhà nước ta khẳng định:
“Không ngừng mở rộng, phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh
tế, khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, đó là những
đòi hỏi khách quan của thời đại’’ .
Trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh thương mại quốc tế có những nhiệm
vụ cơ bản sau:
* Tạo vốn cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất
của CNXH, thực hiên CNH-HĐH.

3
* Thông qua hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế phát huy và sử
dụng tốt hơn nguồn vốn lao động và tài nguyên của đất nước tăng thu nhập quốc
dân.
* Kinh doanh thương mại quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới
kinh tế nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động
* Mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng cao uy tín của nước ta
trên trường quốc tế góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của đất nước.
Toàn bộ nhiệm vụ của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm góp phần
tích cực thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới và xây dựng kinh tế của nước ta.
Kinh tế thi trường là một mô hình kinh tế hỗn hợp, sự quản lý nền kinh tế
và cơ chế vận động của nó chính là sự tác động của các quy luật kinh tế thị
trường kết hợp với sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nói đến thi trường ta
có thể hiểu theo hai giác độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng
hoá tiền tệ hay thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và tổng
khối lượng cung có khả năng đáp ứng. Cơ chế vận động của thị trường dựa vào
ba quy luật chủ yếu : quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Các
quy luật này tác động đến mọi đối tượng, mọi quan hệ diễn ra trên thị trường và
tự điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong thực tế sự tác động của nhà
nước ở tầm vĩ mô là rất cần thiết thông qua các công cụ quản lý như: lãi suất tiền
gửi, tiền vay, các chính sách thuế, hạn ngạch, tỷ giá ..
Với một cơ chế kinh tế như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu đòi hỏi phải
nhanh chóng phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Việc buôn bán giao lưu với nước
ngoài phải luôn xuất phát từ tình hình cung cầu trên thị trường. Đồng thời với cơ
chế kinh tế mới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải thường xuyên theo sát với
những chính sách pháp luật của nhà nước ban hành trong từng giai đoạn để đưa
4
ra những quyết định kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả. Trong điều kiện kinh
tế mới, hoạt động này có những đặc điểm sau:
- Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán

với nước ngoài nên nó phức tạp hơn buôn bán trong nước vì đối tượng giao dịch
là người khác quốc tịch, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, đồng tièn thanh toán
là ngoại tệ mạnh, buôn bán qua khâu trung gian chiếm tỷ trọng lớn, hàng hoá vận
chuyển qua cửa khẩu biên giới của các quốc gia khác nhau phải thông qua các
tập quán thông lệ quốc tế cũng như các địa phương.
- Thị trường trong và ngoài nước luôn biến động, luôn sẵn có các đối thủ
cạnh tranh có thế lực và gây không ít khó khăn cho chúng ta trong việc xâm
nhập và mở rộng thị trường.
- Hoạt động xuất nhập khẩu có liên quan trực tiếp đến quan hệ về chính trị
và kinh tế giữa nước ta với nước khác. Vì vậy, nền kinh tế mở cửa là cơ hội rất
tốt cho các doanh nghiệp có thể làm ăn hợp tác với nước ngoài.
- Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm nguồn hàng, bạn hàng, tự cân
đối về tài chính để tổ chức hoạt động nhằm đem lại hiệu quả cho đơn vị mình,
chứ không phải hoạt động dựa vào chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao, các đơn
vị phải tự tổ chức giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức thanh toán và
thanh lý hợp đồng.
2. Vai trò và đặc điểm hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường
2.1. Vai trò của hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường
Hoạt động nhập khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương. Nhập khẩu
chính là việc mua hàng hoá của nước ngoài đem bán trong nước phục vụ cho
5
những nhu cầu trong nước, vì vậy hoạt động này có vị trí rất quan trọng đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Thông qua hoạt động nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng trong nước. Khi mà nền kinh tế nước ta còn lạc hậu về kỹ thuật, vốn đầu tư
ít, trình độ quản lý còn hạn chế, thì việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư,
công nghệ là rất cần thiết để phát triển nền kinh tế đất nước hoà nhập với xu thế
phat triển chung của toàn thế giới.
- Nhập khẩu sẽ tranh thủ khai thác được mọi tiềm năng thế mạnh về hàng
hoá, công nghệ của nước ngoài cũng như thực hiện giao lưu văn hoá với nước

ngoài nhằm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
trên thương trường quốc tế.
- Ngoài ra nhập khẩu còn là bộ phận cấu thành nên cán cân xuất nhập
khẩu. Thông qua cán cân xuất nhập khẩu người ta có thể đánh giá khả năng phát
triển kinh tế của một đất nước.
Xem xét vị trí của hoạt động nhập khẩu có thể thấy nhập khẩu có vai trò
rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện ở:
- Thứ nhất là nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh
thương mại .
- Thứ hai là nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH .
- Thứ ba là nhập khẩu có vai trò nhất định trong việc cải thiện và nâng cao
mức sống nhân dân vì thông qua nhập khẩu, nhu cầu trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng, sách báo ... cũng như đầu vào cho sản xuất được thoả mãn và
6
đảm bảo từ đó đời sống nhân dân được cải thiện người lao động có việc là ổn
định, trình độ dân trí tăng.
- Thứ tư là nhập khẩu có tác dụng kìm giữ giá cả bình ổn thị trường và
kiềm chế lạm phát. Việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất
đủ để thoả mãn nhu cầu sẽ góp phần điều tiết quan hệ cung cầu về hàng hoá đó
trên thị trường do đó có tác dụng kìm giữ giá cả của mặt hàng đó. Như vậy nhập
khẩu có tác dụng nhất định trong việc ổn định thị trường và kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên nhập khẩu cũng có những hạn
chế nhất định ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước. Dưới đây là những
hạn chế tiêu biểu của nhập khẩu :
- Công tác nhập khẩu đòi hỏi một lượng ngoại tệ lớn (để mua hàng, chi phí
bảo hiểm, chi phí vận chuyển... ) trong khi đối với việt nam vốn dành cho nhập
khẩu lại rất eo hẹp. Vì thế sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu của nhà nước.
- Việc nhập khẩu hàng hoá là hàng tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến

sản xuất trong nước. Trong điều kiện sản xuất hiện tại Việt nam, giá hàng nhập
khẩu rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn sẽ khuyến khích nhu cầu hàng nhập khẩu gia
tăng và cùng với xu hướng đó nhu cầu về hàng nội sẽ giảm xuống. Sự cạnh tranh
tất yếu giữa hàng nhập khẩu và hàng nội sẽ gây khó khăn rất lớn cho các nghành
sản xuất trogn nước cũng như đối với các nhà quản lý. Vì vậy trong điều kiện
hiện nay, các nhà hoạch định chiến lược kinh tế ở tầm vĩ mô cần tính toán sao
cho có thể tranh thủ được lợi thế của nước ta trong từng thời kì để mở mang sản
xuất, nhằm mục đích vừa đáp ứng nhu cầu nội địa về số lượng và chất lượng,
vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ra nước ngoài.
2.2. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
7
Do hoạt động nhập khẩu diễn ra giữa hai quốc gia khác nhau nên nó có
những đặc thù riêng khác với mua hàng trong nước. Để hoạt động nhập khẩu đạt
hiệu quả cao cần xem xét các đặc điểm sau của hoạt động nhập khẩu :
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác
nhau như : Công ước quốc tế về ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu
quan, tập quán thương mại quốc tế...và phụ thuộc rất lớn vào đường lối chính
sách, quan điểm đối ngoại của Nhà nước, và mối quan hệ chính trị ngoại giao
của nhà nước với các nước khác.
- Các phương thức giao dịch thông thường trong hoạt động nhập khẩu là:
giao dịch qua trung gian, buôn bán đối lưu, giao dịch đấu giá, đấu thầu quốc tế,
giao dịch qua sở giao dịch, giao dịch tại hội trợ triển lãm.
- Mọi hoạt động nhập khẩu hàng hoá đều phải được tiến hành thông qua
hợp đồng kinh tế. Các bên tham gia ký kết hợp đồng đều phải tuân thủ nghiêm
ngặt các điều khoản của hợp đồng. Mọi vi phạm hợp đồng đều gây thiệt hại rất
lớn cho tình hình tài chính, uy tín, quan hệ ngoại giao và buôn bán lâu dài giữa
các doanh nghiệp, giữa các nước.
- Phương thức thanh toán trong hoạt động thương mại quốc tế nói chung
và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng rất đa dạng bao gồm các phương thức
như : phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ (L\C ), thanh toán

bằng hàng, thanh toán trực tiếp bằng tiền, séc...Nhưng phương thức thanh toán
phổ biến nhất hiện nay là phương thức tín dụng chứng từ (L\C ).
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thông thường là ngoại tệ mạnh có sức
chuyển đổi như USD, JPY, DM...
- Điều kiện cơ sở giao hàng hiện nay có rất nhiều nhưng ở Việt nam có 2
điều kiện được sử dụng phổ biến nhất đó là điều kiện CIF và FOB. Thông
8
thường các doanh nghiệp của ta nhập khẩu theo điều kiện CIF còn xuất khẩu thì
theo điều kiện FOB...
- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn
rộng, thủ tục phức tạp qua nhiều khâu, nấc. Do đó thời gian chu chuyển chậm
hơn rất nhiều so với kinh doanh trong nước.
- Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức kinh doanh
trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, kinh nghiêm kinh doanh ngoại
thương ngoài ra nó còn phụ thuộc vào sự am hiểu thị trường trong và ngoài
nước, vào sự tiếp nhận một cách chính xác nhanh nhạy các thông tin trên thị
trường.
- Do có sự cách xa nhau về mặt địa lý nên trong hoạt động nhập khẩu có
thể xảy ra rất nhiều rủi ro, có những rủi ro thuộc loại rủi ro hàng hoá (do gặp
thiên tai, hoả hoạn nhất là vận chuyển đường dài), những rủi ro thuộc loại rủi ro
thanh toán như chính sách tín dụng của các quốc gia có sự thay đổi đột ngột,
phía đối tác không chịu thanh toán khi nhận được hàng hoặc tìm cách kéo dài
thời hạn thanh toán... Nhằm đề phòng các rủi ro nói trên các công ty có thể mua
các loại bảo hiểm tương ứng. Chi phí bảo hiểm có thể do đơn vị hay khách hàng,
chủ hàng trả tuỳ thuộc vào điều khoản của hợp đồng.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và cho phép các thành phần kinh
tế cùng tham gia vào mọi hoạt động kinh tế của đất nước. Trong kinh doanh
nhập khẩu Nhà nước quy định tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, nếu được thành lập một cách hợp pháp, đúng ngành nghề đăng ký kinh

doanh và có vốn lưu động ít nhất là 200.000 USD đều có thể được cấp giấy phép
kinh doanh ngoại thương. Song không phải tất cả các doanh nghiệp đó đều được
9
nhập khẩu trực tiếp mà chỉ có một số doanh nghiệp nhất định có ccs điều kiện
như có tư cách pháp nhân, có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu, có vốn tại ngân hàng.
Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động nhập khẩu
dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước là một điểm mới trong hoạt động ngoại
thương. Kinh doanh nhập khẩu không còn là một lĩnh vực độc quyền của các
công ty xuất nhập khẩu Nhà nước nữa. Điều này buộc các tổ chức kinh tế thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau phải cạnh tranh và hợp tác với nhau. Cạnh
tranh buộc các công ty xuất nhập khẩu phải quan tâm đến hiệu quả của hoạt động
nhập khẩu.
Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước đã tạo điều kiện cho các đơn vị năng
động hơn trong kinh doanh từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động
nhập khẩu.
Bảo đảm quyền tự chủ trong kinh doanh tài chính củ các tổ chức kinh
doanh nhập khẩu đi đôi với sự tăng cường quản lý thống nhất của Nhà nước
cũng tạo điều kiện cho các công ty hoạt động thuận lợi hơn nhưng cũng buộc cac
công ty phải quan tâm đến việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả hơn.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Những đặc điểm này đã ảnh
hưởng xuyên suốt quá trình kinh doanh của các đơn vị kinh doanh nhập khẩu.
Do đó khi phân tích tình hình nhập khẩu và đánh giá hiệu quả nhập khẩu trong
các đơn vị kinh doanh nhập khẩu cần lưu ý đến các đặc điểm trên.
II. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH HÀNG NHẬP KHẨU TRONG CÁC
CÔNG TY KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU .
10
1. Khái niệm về hiệu quả .

Do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau mà có nhiều quan
điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây người ta coi hiệu quả là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Viện nghiên cứu
khoa học thuộc uỷ ban Nhà nước Liên xô cũ đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ
tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả đồng
nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ
tăng các chỉ tiêu đó. Ngày nay quan điểm này không còn phù hợp, kết quả sản
xuất có thể tăng lên do quy mô sản xuất được mở rộng, cùng một kết quả sản
xuất mà có 2 mức chi phí khác nhau thì sẽ có hiệu quả khác nhau nhưng nếu theo
quan điểm trên thì chúng có hiệu quả bằng nhau. Hơn nữa, điều kiện sản xuất
năm hiện tại khác với năm trước các yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh
tế có những ảnh hưởng khác nhau việc chọn năm gốc so sánh có ảnh hưởng lớn
đến kết quả so sánh.
Như vậy hiệu quả kinh doanh theo ý nghĩa chung nhất được hiểu là các lợi
ích kinh tế, xã hội đạt được từ quá trình sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác
hiệu quả kinh doanh bao gồm hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong
đó hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định.
Hiệu quả kinh tế: là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp hoặc xã hội để đạt được kết quả cao
nhất. Hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra (hoặc
so sánh giữa kết quả đầu ra và yếu tố đầu vào) để đạt được kết quả đó. Hiệu quả
kinh tế chủ yếu được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận đạt được từ quả trình
kinh doanh.
11
Hiệu quả xã hội phản ánh những lợi ích về mặt xã hội đạt được từ quả
trình kinh doanh. Hiệu quả xã hội của hoạt động thương mại là việc cung ứng
hàng hóa ngaỳ càng tốt hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, văn hóa tinh thần
cho xã hội, góp phần vào việc cân đối cung cầu, ổn định giá cả thị trường, mở
rộng giapo lưu kinh tế giữa các vùng hoặc các nước, là việc giải quýêt công ăn
việc làm cho người lao động và thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiệu quả xã hội

trong kinh doanh thương mại còn biểu hiện thông qua việc thực hiện các chính
sách xã hội của Nhà nước, đảm bảo cung ứng hàng hóa kịp thời và đầy đủ, nhất
là những mặt hàng thiết yếu cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, và những vùng bị
thiên tai, bão lụt.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng
và tác động lẫn nhau. Nó vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau ở từng nơi,
từng lúc. Hiệu quả kinh tế dễ xác định, có thể đo lường bằng các chỉ tiêu để đánh
giá hiệu quả ở mức tổng hợp hoặc đặc thù. Hiệu quả xã hội thì khó xác định
bắng các chỉ tiêu cụ thể mà chỉ có thể đánh giá thông qua những biểu hiện của
đời sống xã hội của một địa phương, vùng lãnh thổ hoặc trong phạm vi nền kinh
tế quốc dân. do vậy đối với các doanh nghiệp khi đánh giá hiệu quả thường chỉ
đề cập đến hiệu quả kinh tế. Hiệu quả xã hội chỉ được kết hợp đánh giá đan xen
cùng hiệu quả kinh tế.
Từ khái niệm trên hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả với chi phí ta
có thể hình thành được 2 công thức so sánh:
Hiệu quả = kết quả - chi phí (1)
Hoặc
12
Kết quả
Hiệu quả = (2)
Chi phí
Nếu hiểu theo công thanh so sánh hiệu số thì hiệu quả được hể hiện bằng
chỉ tiêu lợi nhuận và kết được thể hiện bằng chỉ tiêu doanh thu. Trong trường
hợp này đã làm đồng nhất khái niệm hiệu quả và kết quả.
Với cách so sánh hiệu số đã làm lợi nhuận mang hai nội dung vừa là chỉ
tiêu phản ánh kết quả vừa là chỉ tiêu phản ánh hiêụ quả. Nếu coi lợi nhuận là chỉ
tiêu hiệu quả thì nó không đủ khả năng đế đánh giá chất lượng hoạt động giữa
các doanh nghiệp, trong khi đó chỉ tiêu hiệu quả được coi là chỉ tiêu cơ bản để
đánh giá chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp. Nếu sử dụng công thức so
sánh theo dạng thương số thì khắc phục được những hạn chế của công thức

(1).đồng thời nó phân biệt rành rọt giữa chỉ tiêu kết quả và hiệu quả. Hiệu quả
phải là một số tương đối. Kết quả đánh giá quy môi. Hiệu quả đánh giá chất
lượng. Sử dụng công thức thương số có thể xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu
đánh giá kết quả ở mức tổng hợp hoặc đặc thù, đủ khả năng để so sánh hiệu quả
kinh tế giữa các doanh nghiệp. Do vậy, ta có thể kết luận hiệu quả kinh doanh là
một số tương đối phản ánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. đó là sự so sánh
giữa kết quả đầu ra và chi phí đầu vào.
Như vậy, nếu kết quả kinh doanh đạt được càng nhiều với chi phí bỏ ra
càng ít thì hiệu quả kinh tế càng cao. Trong đó :
- Kết quả kinh doanh được xác định bằng chỉ tiêu thể hiện mục tiêu kinh
doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận, thu nhập... đối với hoạt động
nhập khẩu thì kết quả kinh doanh là: doanh thu hàng nhập khẩu, lợi nhuận nhập
khẩu ...
13
- Chi phí được xác định bằng các chỉ tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu
đối tượng phân tích. Cụ thể là khi phân tích hiệu quả nhập khẩu thì chi phí chính
là các khoản chi phí liên quan đến hoạt động nhập khẩu như chi phí mua hàng,
vận chuyên, bốc xếp, chi phí trả lãi vay, lưu kho...
2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh hàng nhập
khẩu
2.1. Hiệu quả của từng hợp đồng nhập khẩu.
2.1.1. Ý nghĩa của việc phân tích hiệu quả từng hợp đồng.
Bất kỳ hoạt động nhập khẩu nào cũng phải tiến hành thông qua các hợp
đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế là một văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm và
nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Việc một
bên đơn phương phá bỏ hợp đồng sẽ bị phạt theo luật kinh tế. Để hạn chế các
khoản phạt do vi phạm hợp đồng, tăng lợi nhuận mang lại từ việc thực hiện hợp
động, công ty trước khi giao dịch cần phải tính toán xác định hiệu quả của từng
hợp đồng mà công ty sẽ ký kết để khi đã đặt bút ký hợp đồng nào là chắc chắn sẽ
được thực hiện và mang lại lợi nhuận cao cho công ty

2.1.2. Các chỉ tiêu
*Chỉ tiêu 1: Lãi trên một đơn vị ngoại tệ nhập khẩu
Để thấy được kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu cần phải phân tích theo
lô hàng trên cơ sở so sánh giữa các chỉ tiêu doanh thu bán hàng nhập khẩu với
những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện lô hàng đó.
Công thức :

14
D - C x T
C
H’
nk
=

Trong đó :H’
nk
: lãi trên một đơn vị ngoại tệ nhập khẩu
D: Doanh thu bán hàng nhập khẩu dự kiến (VNĐ)
C : chi phí của lô hàng nhập khẩu dự kiến (USD)
T: Tỷ giá hối đoái VNĐ/USD
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ bỏ ra một đơn vị ngoại tệ ra king doanh nhập khẩu
thì sẽ mang lại cho đơn vị bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có ưu điểm là
nó cho phép đơn vị ngay từ đầu xác định được nên ký kết hợp đồng nào bởi vì
mỗi hợp đồng sẽ có mức lãi lãi trên một đơn vị ngoại tệ khác nhau. Nếu hợp
đồng nào có mức lãi lớn hơn tỷ giá thì đơn vị lên ký kết và thực hiện nó.
Chỉ tiêu 2: Tổng lợi nhuận hợp đồng nhập khẩu.

- -
Trong đó : Doanh thu bán hàng nhập khẩu tăng sẽ làm tăng lợi nhuận và
ngược lại. Việc tăng giảm doanh thu phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: Khối

lượng và giá cả hàng hoá tiêu thụ.
Khi bán hàng nhập khẩu, việc xác định giá vốn của hàng bán tiêu thụ được
tính theo phương pháp đích danh.
15
Lợi
nhuận
HĐNK
Doanh thu
tiêu thụ
từng lô
h ng NKà
Trị giá vốn
lô h ng NKà
CPBH CPQL
= - - -
Giá mua
tại cửa
khẩu
Thuế, lệ phí
phải nộp ở
khâu NK
Giá vốn
lô h ng =à
nhập khẩu
+
+ Nếu hàng hoá của doanh nghiệp nằm trong danh mục hàng hoá tiêu thụ
đặc biệt trong biểu thuế xuất nhập khẩu thì thuế nộp ở khâu nhập khẩu của doanh
nghiệp sẽ là : Thuế nhập khẩu + Thuế tiêu thụ đặc biệt.
+ Nếu hàng hoá của doanh nghiệp không nằm trong danh mục hàng hoá
tiêu thụ đặc biệt thì thuế nộp ở khâu nhập khẩu sẽ là : Thuế nhập khẩu + Thuế

giá trị gia tăng (với doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp ).
Doanh thu bán hàng tỷ lệ thuận với lợi nhuận nhập khẩu, còn các yếu tố
như: chi giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, thuế, lệ phí phải nộp ở khâu
nhập khẩu là các nhân tố tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Dựa vào yếu tố đó để tìm
biện pháp nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu này cũng chưa
đủ để đánh giá hiệu quả của hợp đồng nhập khẩu. Bởi vì có thể hai hợp đồng
nhập khẩu có tổng lợi nhuận hợp đồng bằng nhau nhưng vốn kinh doanh từng
hợp đồng lại khác nhau thì hiệu quả của 2 hợp đồng sẽ khác nhau. Do đó, nếu
dừng lại ở chỉ tiêu 2 thì chưa thể xác định được hợp đồng nào có hiệu quả cao
hơn.
Chỉ tiêu 3: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh.

Chỉ tiêu này cho biết khi bỏ ra một đồng Việt Nam để kinh doanh lô hàng
nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao kinh
doanh càng có hiệu quả.
Khi đánh giá hiệu quả của từng hợp đồng ký kết nên xem xét cả 3 chỉ tiêu.
Tuy nhiên không phải cả 3 chỉ tiêu này bao giờ cũng thống nhất, có khi tổng lợi
nhuận thấp nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh cao hoặc ngược lại. Khi
16
Tỷ suất lợi nhuận
trên chi phí kinh doanh
Lợi nhuận hợp đồng nhập khẩu
Vốn kinh doanh
x 100=
đó phải cân nhắc nhưng nên chú ý đến chỉ tiêu tổng lợi nhuận của hợp đồng, tỷ
suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh nhập khẩu quá nhỏ.
2.3.2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu sau một thời kỳ kinh
doanh
Sau mỗi kỳ kinh doanh công ty nhập khẩu phải tiến hành đánh giá hiệu
quả nhập khẩu nhằm mục đích tìm ra ưu nhược điểm trong kinh doanh nhập

khẩu, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt tới nhập khẩu từ đó đề ra
những phương hướng và biện pháp khắc phục.
Chỉ tiêu 1 : tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

=
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ thực hiện một đồng donh thu bán hàng nhập
khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Chỉ tiêu 2 : Tỷ suất lợi nhuận trên trị giá vốn hàng nhập khẩ đã bán


Trong đó :

17
Tỷ suất lợi nhuận
trên trị giá vốn h ng à
nhập khẩu đã
bán
Tổng lợi nhuận bán h ng nhà ập khẩu
Tổng trị giá vốn h ng nhà ập khẩu
=
Tỷ suất lợi nhuận

bán h ng NKà
Lợi nhuận bán h ng nhà ập khẩu
x 100
Doanh thu bán h ng nhà ập khẩu
=
Thuế nộp
ở khâu
tiêu thụ

h ng NKà
Tổng lợi
nhuận bán
h ng nhà ập
khẩu
Doanh thu
bán h ng à
nhập khẩu
=
Trị giá
vốn h ng à
nhập khẩu
Chi phí
bán
h ngà
Chi phí
quản

-
-
- -
Đơn giá
tính thuế
Thuế
nhập
khẩu
Số lượng
h ng nhà ập
khẩu
Thuế suất

thuế nhập
khẩu
= x x
Đơn giá thuế nhập khẩu là đơn giá mua thực tế tại cửa khẩu (giá CIF )
Chỉ tiêu 3 : Tốc độ chu chuyển của hàng nhập khẩu
Tốc độ này được xác định bằng số vòng ( lần) chu chuyển hàng nhập khẩu
trong kỳ kinh doanh hay thời gian để hàng nhập khẩu quay được một vòng.

Trong đó :
L : Số vòng chu chuyển của hàng nhập trong kỳ
Mnk : Doanh thu tiêu thụ hàng nhập khẩu trong kỳ
Nnk : Số ngày chu chuyển một vòng của hàng nhập khẩu
Dnk : Dự trữ hàng hoá nhập khẩu bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ kinh doanh hàng nhập khẩu chu chuyển
được bao nhiêu vòng.
Sau khi tính toán các chỉ tiêu trên ta tiến hành so sánh giữa thực hiện với
kế hoạch, kỳ này với kỳ trước, xác định mức độ hoàn thành và chênh lệch. Riêng
đối với chỉ tiêu lợi nhuận có thể xác định được các nguyên nhân ảnh hưởng làm
tăng giảm lợi nhuận trong kỳ.
18
Mnk
Dnk
Nnk
Mnk
Dnk
L = =
x số ng y trong kà ỳ
Ngoài ra chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển hàng tồn kho nhanh hay
chậm còn nói lên việc nhập hàng có phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước
hay không.

III. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH HÀNG
NHẬP KHẨU
1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu
trong các công ty xuất nhập khẩu .
Hiệu quả nhập khẩu cũng là hiệu quả kinh doanh nhưng nó bó hẹp trong
phạm vi nhập khẩu. Nó là sự so sánh giữa kết quả thu được từ hoạt động nhập
khẩu và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động đó.
Nâng cao hiệu quả nhập khẩu là vấn đề thể hiện chất lượng của công tác
nhập khẩu , không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu là một nhiệm
vụ quan trọng trong công tác quản lý kinh tế ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của mọi người lao động.
Trong điều kiện hiện nay nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu là một nhiệm
vụ cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong ngành thương mại.
Thứ nhất : Nâng cao hiệu quả là yêu cầu của quy luật tiết kiệm , tiết kiệm
để đẩy mạnh sản xuất và không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tiết kiệm
tăng năng suất lao đồng xã hội là quy luật, nói khác đi nó là quy luật bắt buộc đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển. Về cơ bản có thể nói
giữa tiết kiệm và nâng cao nâng cao hiệu quả kinh tế có mối quan hệ biện chứng.
Lý do buộc doanh nghiệp phải tiết kịêm cũng chính là lý do buộc xã hội phải
nâng cao hiệu quả kinh tế vì thế thực chất hiệu quả kinh tế được thể hiện tập
chung ở năng suất lao động. Nâng cao hiệu quả kinh tế cũng chính là con đường
nâng cao năng suất lao động.
19
Thứ hai : Nâng cao hiệu quả nhập khẩu là con đường quan trọng để các
công ty xuất nhập khẩu thắng lợi trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay.
Vận động theo cơ chế thi trường có sự điều tiết của Nhà nước mọi thành phần
kinh tế đều bình đẳng như nhau trước pháp luật. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp
phải năng động và nhạy bén hơn để chuyển kịp với cơ chế thị trường. Để đạt
được điều đó các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm ra các biện
pháp mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất

nhập khẩu.
Thứ ba : Hiện nay nền kinh tế nước ta đang cần rất nhiều vốn để có thể
vươn lên theo kịp với các nước khác trong khu vực, nhưng nền kinh tế nước ta
đang trong tình trạng ‘‘đói” vốn cho nên việc tạo lập vốn cho sản xuất kinh
doanh là vô cùng quí giá và cần thiết nhưng nó cũng rất khó khăn. Thêm vào đó,
hiện nay khoa học kỹ thuật đang phát triển rất nhanh chóng làm cho nhiều máy
móc có năng lực sản xuất rất nhanh chóng bị lạc hậu lỗi thời. Do đó nâng cao
hiệu quả hoạt động nhập khẩu là con đường có lợi nhất để thu được kết quả cao
từ hoạt động nhập khẩu mà không cần hoặc cần ít vốn đầu tư. Tất cả những điều
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải khẩn trương tìm mọi biện pháp sử dụng triệt
để các nguồn năng lượng, tài sản cố định, sức lao động để nâng cao hiệu qủa
kinh doanh hàng nhập khẩu của doanh nghiệp.
Thứ tư : Sự cần thiết của nâng cao hiệu quả nhập khẩu còn được đặt ra bởi
hiệu quả nhập khẩu hiện nay còn rất thấp so với tiềm năng có thể đạt được.
Nhiều công ty nhập khẩu các mặt hàng chậm luân chuyển gây ứ đọng vốn, tăng
lãi vay ngân hàng nên hiệu quả thấp.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu có ý nghĩa có
ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.Nó
20
là điều kiện cơ bản để các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển như thực hiện
tái sản xuất mở rộng, cải thiẹn đời sống người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ
với Nhà nước ...
Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, nâng cao hiệu quả nhập khẩu sẽ góp
phần thúc đấy sản xuất phát triển, tăng nhanh quá trính tái sản xuất xã hội, mở
rộng hợp tác quốc tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân cả về số lượng
chất lượng thời gian phục vụ...
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu
Hiệu quả nhập khẩu trong các công ty xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố khác nhau, các nhân tố này có thể tác động một cách khách quan
hoặc do chủ quan của công ty.Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu

quả nhập khẩu là việc làm cần thiết đối với các công ty xuất nhập khẩu. Nó giúp
các nhà quản lý doanh nghiệp tìm hiểu những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự
tăng giảm của hiệu quả nhập khẩu. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp phát huy
những mặt hiệu quả nhập khẩu.
*Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả nhập khẩu.
2.1. Các nhân tố khách quan.
- Tình hình quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác.
Hoạt động nhập khẩu vận động trong mọt khung cảnh rộng lớn là nền kinh
tế thế giới, thị trường quốc tế với đối tượng hợp tác đa dạng. Vì vậy phải có
chính sách mở rộng các mối quan hệ chính trị, ngoại giao trên bình diện quốc
gia.
- Chế độ, chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu.
21
Đó là các chính sách về thuế quan, hạn nghạch xuất nhập khẩu , quy định
về vệ sinh dịch tễ đối với hàng nhập khẩu, quy định về kích cỡ bao bì...
+ Thuế quan: Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là quản lý các hoạt
động nhập khẩu góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, hướng dẫn
tiêu dùng trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách. Thực chất của biện pháp
thuế quan là quy định những thuế suất khác nhau để điều tiết hoạt động nhập
khẩu. Nhà nước đánh thuế thấp đối với các mặt hàng khuyến khích nhập và đánh
thuế cao đối với các mặt hàng hạn chế nhập. Việc đánh thuế vào hàng nhập khẩu
càng cao càng làm cho trị giá mua thực tế hàng nhập khẩu cao. Do đó ảnh hưởng
tới lợi nhuận kinh doanh hàng nhập khẩu.
+ Hạn ngạch nhập khẩu: Đây là chính sách nhằm bảo vệ sản xuất trong
nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và thực hiện chính sách thị trường.
Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng, giá trị
của một số mặt hàng hoặc một nhóm hàng được nhập khẩu nói chung hoặc từ
một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định.
Thường hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập
khẩu cho một số công ty. Ví dụ, ở nước ta, các mặt hàng có liên quan đến các

cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân đều có quy định hạn ngạch nhập khẩu như
xăng dầu, xi măng, phân bón, sắt thép, đường...Chỉ có một số doanh nghiệp được
phép phân bổ cho một số lượng tối đa các mặt hàng trên trong một năm.
Cũng như chính sách thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu cũng ảnh hưởng
đến quy mô kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu của doanh
nghiệp.
Ngoài ra, còn có những biện pháp điều tiết nhập khẩu như:
22
- Biện pháp ký quỹ: Nhà nước quy định chủ hàng nhập khẩu phải đặt cọc
một số tiền tại ngân hàng trước khi được cấp giấy phép nhập khẩu.
- Hệ thông thuế nội địa: Đó là thuế VAT(Value Added Taxes), thuế tiêu
thụ đặc biệt.
- Cơ chế quản lý tỷ giá. Có hai hình thức quản lý tỷ giá, đó là:
+ Quản lý ngoại hối: là hình thức Nhà nước đòi hỏi tất cả các khoản thu
chi ngoại tệ phải được thực hiện thông qua ngân hàng hoặc cơ quan quản lý
ngoại hối để Nhà nước kiểm soát được các nghiệp vụ thu chi thanh toán ngoại tệ
của các đơn vị kinh doanh nhập khẩu mà qua đó điều tiết nó.
+ Nâng hay phá giá đồng tiền nội địa: Khi nâng giá nội tệ sẽ có tác dụng
khuyến khích nhập khẩu và ngược lại.
Nhân tố sức mua và cấu thành sức mua: Nhân tố này thể hiện nhu cầu của
thị trường về cac mặt hàng với số lượng và chất lượng như thế nào. Sức mua và
cấu thành sức mua chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: thu nhập, giá cả hàng hoá,
tập quán tiêu dùng, yếu tố mốt...Bản thân sức mua và cấu thành sức mua lại ảnh
hưởng tới số lượng và cơ cấu hàng nhập khẩu. Mà mỗi mặt hàng kinh doanh lại
có mức hiệu quả riêng. Cho nên khi sức mua và cấu thành sức mua thay đổi sẽ
làm cho khối lượng và cơ cấu hàng nhập khẩu thây đổi do hiệu quả chung thay
đổi.
Giá cả của hàng hoá nhập khẩu: bao gồm giá mua và giá bán.
Giá mua hàng nhập khẩu ảnh hưởng tỷ lệ nghịch đến hiệu quả nhập khẩu.
Giá bán hàng nhập khẩu ảnh hưởng tỷ lệ thuận đến hiệu quả nhập khẩu. Giá bán

hàng nhập khẩu và là nhân tố khách quan do thị trường điều tiết. Đó là các nhân
23
tố như tình hình giá cả hàng hoá nhập khẩu trên thị trường, tình hình cạnh tranh,
cung cầu, lạm phát...
- Giá phí ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí. Chi phí ảnh hưởng tỷ lệ nghịch
đến lợi nhuận kinh doanh, do đó giá phí tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh, do đó giá phí tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả kinh doanh như tỷ susaats lãi vay...
- Tỷ gía hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nhập khẩu. Nếu tỷ giá
thấp thì việc nhập khẩu là có lợi, còn tỷ giá cao thì ngược lại. Mặc dù yếu tố tỷ
giá tăng giảm là khách quan song việc theo dõi sát sao sự biến động của tỷ giá để
có những quyết định kịp thời sẽ có tác động rất lớn đến hiệu quả nhập khẩu.
- Nhân tố thời vụ: sản xuất và tiêu dùng luôn mang tính chất thời vụ. Tính
thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng quyết định cơ cấu mặt hàng kinh doanh tại
đơn vị trong từng thời điểm do đó ảnh hưởng đến công tác nhập khẩu và hiệu
quả kinh doanh nhập khẩu.
- Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc: đây là một nhân tố rất quan
trọng ảnh hưởng đến việc ra quyết định kinh doanh nhập khẩu và do đó ảnh
hưởng tới hiệu quả nhập khẩu.
2.2. Các nhân tố chủ quan.
- Nhân tố con người bao gồm các yếu tố như trình độ quản lý, trình độ am
hiểu thị trường trong nước và ngoài nước, khả năng tiếp thị, kinh nghiệm kinh
doanh, trình độ ngoại ngữ...Kinh nghiệm năng lực kinh doanh của cán bộ là một
yếu tố quan trọng đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Do kinh doanh
nhập khẩu phức tạp hơn kinh doanh trong thị trường nội địa vì nó liên quan đến
cả thị trường trong và ngoài nước nên những thiếu sót dù là nhỏ cũng gây hậu
quả lớn, những điểm không chặt chẽ trong ký kết hợp đồng cũng có thể gây ra
24
những tranh chấp làm thiệt hại đến hiệu quả kinh doanh. Để hạn chế những ảnh
hưởng không có lợi này đơn vị cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty, bố trí cán bộ hợp lý ở
từng khâu phù hợp với năng lực sở trường của họ.
- Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật trong công ty xuất nhập khẩu là nhà cửa,
kho tàng... dùng làm nơi bán hàng, bảo quản, đóng gói, giữ gìn giá trị và giá trị
sử dụng hàng hoá các phương tiện vận tải, trang thiết bị phục vụ cho các doanh
nghiệp kinh doanh. Nếu công ty có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì sẽ có rất
nhiều thuận lợi trong việc kinh doanh như tiết kiệm chi phí bảo quản, vận
chuyển ..., nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Nhân tố uy tín kinh doanh của công ty.
Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu nhất là
trong giai đoạn hiện nay việc công ty tạo được uy tín cao trong kinh doanh sẽ
tăng khả năng xâm nhập thị trường kinh doanh trong và ngoài nước. Có uy tín
cao công ty có rất nhiều thuận lợi và ưu đãi trong quan hệ với bạn hàng.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế thường phức tạp hơn các hoạt
động trong nước vì nhiều lẽ, chẳng hạn như: thị trường rộng lớn, bạn hàng ở xa
nhau, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật pháp, hệ thống tiền tệ
khác nhau... do đó, đơn vị kinh doanh phải chuẩn bị chu đáo trong hoạt động
nhập khẩu.
Ngoài việc nắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách, luật lệ
quốc gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, đơn vị kinh doanh xuất
nhập khẩu cần phải nhận biết hàng hoá kinh doanh, nắm vững thị trường và nhận
biết khách hàng.
25

×