Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Triết học mac lenin (72) llct130105 nhóm 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.36 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN

DỤNG QUY LUẬT NÀY VÀO VIỆC TÌM HIỂU CHỦ
TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC
Giảng viên: TS Nguyễn Khoa Huy
Mã lớp học phần: LLCT130105_21_1_72
Sinh viên thực hiện:

Mã số sinh viên

Trần Nguyên

21142333

Thái Thị Huỳnh Như

21142649

Võ Thanh Phong

21142345


Nguyễn Đại Phước

21142351

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1, năm 2022


ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GV:
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
________________________________________________________
TP.Hồ Chí Minh, Ngày…..Tháng….Năm 2022
Giảng Viên
( ký tên)

Nguyễn Khoa Huy



MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ………………………………………………………1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………..1
2. Phương pháp, đối tượng nghiên cứu……………………………………………….2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………2

PHẦN 2: NỘI DUNG……………………………………………………..3
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1.1 Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng………………………………………….3
1.2 Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng…………………………………….4
1.3 Nội dung quy luật của phủ định biện chứng………………………………………..5
1.4 Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng của phủ định…………………….6

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO TÌM HIỂU CHỦ
TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
NỀ VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
2.1 Chủ trương, đường lối của đảng về việc xây dựng nề văn hóa XHCN tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc ở Việt Nam…………………………………………………………….7
2.2 Đặc trưng của nền văn hóa XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay…………10
2.3 Đánh giá chung thực trạng việc xây dựng nền văn hóa XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc ở Việt Nam hiện nay………………………………………………………….11


2.3.1 Những kết quả đạt được………………………………………………………….12
2.3.2 Phần hạn chế……………………………………………………………………..19
2.4 Các giải pháp khắc phục hạn chế ………………………………………………….20

PHẦN 3: KẾT LUẬN…………………………………………………….25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..29



ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên con đường phát triển văn hóa, bắt đầu từ văn kiện đầu tiên "Đề cương văn hóa"
1943 ”, đảng và nước ta đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm lý luận dấu ấn
lịch sử, dấu ấn thời đại của tư tưởng văn hóa. Cùng với đường lối đúng đắn của Đảng, sự
đổi mới và tích cực trong cơng việc phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, từng bước đạt
được những kết quả đáng ghi nhận. Tự hào là: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa từng bước một xây dựng; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đất nước pháp quyền
do nhân dân làm chủ. Quá trình hội nhập kinh tế và hội nhập văn hóa, nếu hội nhập kinh
tế bị bỏ quên, các quốc gia sẽ chậm vươn lên thốt khỏi đói nghèo, nhưng nếu bị bỏ qn,
sự dung hợp văn hóa đơi khi nguy hiểm hơn vì nó có thể bị đồng hóa bởi một nền văn hóa
khác. Vì vậy chúng ta cần có những chiến lược phát triển các nền văn hố, có ý thức về
bản sắc văn hoá dân tộc theo sự phát triển kinh tế. Tất nhiên nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc khơng thể đóng cửa, mà cần chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại
để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của nước nhà.
Văn hóa ln là nền tảng quyết định của xã hội, và sự phát triển tồn diện và mạnh
mẽ nhất của một nền văn hóa để tồn cầu hóa và hội nhập, tồn cầu hóa đang trở thành
một xu hướng tất yếu. Có một điều chắc chắn rằng: Văn hóa là linh hồn của một quốc gia,
nếu một quốc gia không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì quốc gia đó sẽ bị lu mờ thậm
chí là quốc gia đó sẽ khơng được biết đến. Vì vậy, xây dựng và phát triển mơ hình, bản
sắc dân tộc văn hóa Việt Nam tiên tiến khơng chỉ là trách nhiệm của ngành văn hóa, mà
cịn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Kết lại, để xác định và làm rõ
các vấn đề, chủ đề mà nhóm chúng tơi quan tâm và lựa chọn là: " Quy luật phủ định của
phủ định và vận dụng quy luật này vào việc tìm hiểu chủ trương, đường lối của Đảng về
xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. " là chủ đề
của bài viết này. Bài viết này tập trung phân tích phủ định biện chứng và ứng dụng thực


tiễn của nó trong việc xây dựng bản sắc văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc.


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
a) Cơ sở lý luận:
Với tư cách là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật
phủ định của phủ định ln là nền tảng lí luận, kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn. Việc thiết kế, xây dựng được một xã hội mới về chất trên
nền tảng xã hội vốn có của xã hội cũ. Về thực chất, đó là quá trình vận dụng và thực hiện
quan điểm phủ định của phủ định biện chứng trong thực tế.
b)

Cơ sở thực tiễn:

Hiện nay bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải xây dựng một
nền văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu thời đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước. Ngày
nay xu thế tồn cầu hóa, hợp tác hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống giúp cho chúng
ta có cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu cho bản sắc văn
hóa của nước mình. Hơi nữa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì vấn đề
gìn giữ văn hóa mang đậm chất dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bên cạnh
những mặt tích cực thì những mặt trái của thị trường đã làm chao đảo nhiều giá trị tinh
thần nói chung và nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt một số giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một. Và hiện nay ở nước ta
còn tồn tại rất nhiều tàn dư của xã hội cũ như là lạc hậu , cổ hủ… chính vì vậy, việc xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản chất văn hóa dân tộc trên cơ sở quy luật phủ
định của phủ định của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một nhiệm vụ quan trọng của nước
ta. Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đã khẳng định ‘’ Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản chất dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế xã hội.


1


Với lí do trên chúng em chọn đề tài ‘’Quy luật phủ định của phủ định và vận dụng
quy luật này vào việc tìm hiểu chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc’’ cho tiểu luận của mình.
2. Phạm vi, phương pháp và đối tượng nghiên cứu
a) Phạm vi nghiên cứu
- Dựa trên giáo trình “Triết học Mác - Lênin”.
- Sử dụng các tài liệu tham khảo khác như: báo, tài liệu từ internet để tìm hiểu, làm rõ các
vấn đề liên quan.
b)

Phương pháp và đối tượng nghiên cứu

Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kết hợp khái quát và mô tả.
Phương pháp nghiên cứu tình huống: sử dụng lý thuyết của triết học Mác - Lênin nghiên
cứu các ví dụ trong thực tế ở phần liên hệ thực tiễn.
Đối tượng làm rõ quan điểm của triết học Mác - Lênin về quy luật phủ định của phủ định
và vận dụng quy luật này vào việc tìm hiểu chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng,
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc xây dựng nền văn hóa ở Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2



- Thành quả của việc vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc.Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất giải
pháp nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1.1 Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
Trong suốt lịch sử triết học, các nhà triết học và các trường phái triết học có những
quan niệm khác nhau về sự phủ định theo các thế giới quan và phương pháp luận khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong
thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật hiện tượng cũ
mất đi được thay thế bằng các sự vật hiện tượng mới. Thay thế hình thái tồn tại này bằng
hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật, hiện tượng khác trong quá trình của sự vận
động và phát triển. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự
vật và sự thay thế đó đã được triết học gọi là sự phủ định.
Ví dụ: Trong sự phát triển của bóng đèn, đèn led là sự phủ định đối với đèn sợi đốt. Trong
sự phủ định của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định cha. Từ xa xưa đã có
câu “Con hơn cha là nhà có phúc” là như thế.
3


Phủ định biện chứng được hiểu là chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự
phát triển. Phủ định biện chứng làm cho các sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế cho
các sự vật, hiện tượng cũ là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện
tượng mới. Phủ định biện chứng của sự vật hiện tượng là tự phủ định, tự phát triển là
“mắt xích” trong “sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật hiện tượng mới, tiến bộ
hơn phát triển hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Ví dụ: Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, Samsung s22 là sự phủ định đối với
Samsung s21. Khi trồng trọt, thì cây đậu là sự phủ định đối với hạt đậu. Trong chăn ni,

thì con vịt là sự phủ định đối với trứng vịt.
1.2 Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản chính là tính khách quan (sự vật, hiện
tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong nó gây ra),và tính kế thừa (loại bỏ các
yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ phù hợp để đưa và
sự vật hiện tượng mới). Ngoài ra cịn tính đa dạng, phong phú.
Thứ nhất, tính khách quan của phủ định biện chứng là nguyên nhân của sự phủ định
nằm ngay trong bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả của q trình giải quyết
mâu thuẩn tất yếu bên trong bản thân nó, tạo ra cái mới thay thế cái cũ (lượng thay đổi
dẫn đến chất cũng thay đổi, cái mới ra đời sẽ thay thế cho cái cũ). Nhờ việc giải quyết giải
quyết những mâu thuẫn mà sự vật ln phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng là một tất
yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Đương
nhiên, tuỳ thuộc vào mỗi sự vật sẽ có phương pháp phủ định riêng. Q trình đó hồn
tồn không phụ thuộc vào ý muốn, ý thức của con người. Con người chỉ có thể tác động
đến nhanh hay chậm.
Ví dụ: Hạt giống khi ta đem trồng hạt đậu và có đủ điều kiện về đất, nước, ánh sáng, độ
ẩm, chất dinh dưỡng, … tất yếu hạt sẽ nãy mầm thành cây con, do sự tác động chính của
các yếu tố bên trong hạt đậu( đó là mầm, thân, chồi,…) đó chính là cái vốn có của hạt đậu,
4


làm cho hạt đậu nãy mầm thành cây con. Khi đó cây con sẽ là phủ định của hạt giống,
hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý muốn hay ý thức của con người.
Thứ hai, tính kế thừa của phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của
của sự vật, nên nó khơng thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn của cái cũ. Tính kế thừa
ở chổ: phủ định biện chứng khơng phải là phủ định sạch trơn. Ngược lại, với phủ định
biện chứng, cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, chỉ loại bỏ những yếu tố lỗi thời lạc hậu, cản
trở sự phát triển của cái mới ở cái cũ, đồng thời giữ lại những cải biến những yếu tố tích
cực cho phù hợp với cái mới từ cái cũ.
Ví dụ: Trong bất kì các lồi sinh vật nào hay con người, các thế hệ con cái đều kế thừa

những yếu tố tích cực của cha mẹ bỏ qua những yếu tố lạc hậu.
Với những đặc điểm như vậy, thì phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục
cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng trở thành
vịng khâu, khuynh hướng tất yếu của sự liên hệ và phát triển.
1.3 Nội dung của quy luật phủ định
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẵng định chính nó. Trong q trình hoạt động của
sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế cho những nhân tố cũ, sự phủ định biện
chứng sẽ diễn ra. Sự vật đó khơng cịn nữa và sẽ bị thay thế bởi những sự vật mới, trong
đó có những nhân tố tích cực được giữ lại song cũng sẽ có những sự vật mới này sẽ bị phủ
định bởi những sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại song không phải là sự trùng lặp
hồn tồn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích
cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra hai lần thì sự
phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hồn thành một chu kì phát triển. Sự
phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất
hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do đó, thơng
qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
5


Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai doạn, một mắc câu, một nấc thang
trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần 1), cái mới cũng chứa
đựng trong mình xu hướng dẫn dến sự phủ định của phủ định ( lần 2).
Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong q trình phát triển vì chỉ thơng qua
phủ định của phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật hiện tượng mới, và như vậy phủ
định của phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển, đồng thời lại tạo ra một chu kỳ
phát triển tiếp theo. Số lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn (hai, ba,
bốn,…), tuỳ thuộc vào tính chất của q trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải
qua hai lần mới hoàn thiện.
Sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng đi lên

không ngừng – nhưng không theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Nhận xét về
con đường này, V.I. Lênin từng viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã
qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”) sự
phát triển có thể nói theo đường trịn ốc chứ khơng theo đường thẳng…”1
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật – xu
hướng phát triển. Song sự phát triển đó khơng diễn ra theo đường thẳng mà theo đường
“xoáy ốc”. Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu hiện rõ ràng, đầy đủ đặc trưng
của qua trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi
đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn phát triển hơn.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối quan hệ, sự kế thừa thông qua
khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định. Do có kế thừa nên phủ định biện
chứng không phải là phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội
dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái ban đầu
trên cơ sở mới cao hơn. Do vậy, sự phát triển có tính tiến lên khơng hẳn theo đường
thẳng , mà theo đường “xoáy ốc”.
1.4 Ý nghĩa phương pháp luận
6


Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự
vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi đã
trải qua các mắt xích chuyển hố, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát
triển.
Quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là một q trình
phức tạp, khơng đều, khơng va vấp, khơng có những bước lùi. Quy luật này giúp chúng ta
nhận thức đầy đủ hơn về sự vật hiện tượng mới ra đời phù hợp với sự phát triển.
Tuy sự vật hiện tượng mới thắng sự vật hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào đó
sự vật, hiện tượng cũ cịn mạnh hơn. Vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới tạo điều
kiện cho nó phát triển hợp quy luật. Biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp
lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự

vật, hiện tượng mới.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO TÌM HIỂU CHỦ
TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
NỀ VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
2.1 Chủ trương xây dựng nền văn hóa XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc ở Việt Nam
a. Khái niệm
- Văn hóa: là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy văn hóa bao
gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngơn ngữ, tư tưởng, giá trị và
các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,v.v. Cả hai khóa cạnh đều
cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
7


+Theo tổ chức giáo dục và khoa học của UNESCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
+ Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản
là "sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.

+ Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh
Theo nghĩa hẹp, Người viết “ Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý
đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng văn hóa
là kiến trúc thượng tầng”.
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người, điều này thể
hiện ở việc Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người dân phải đi học “ văn hóa”, xóa mù chữ,
nâng cao trình độ,…
Theo nghĩa rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra với phương thức là sử dụng chúng nhằm đáp ứng lẻ sinh tồn,
đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống lồi người.
Người viết: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ , chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn”2.

8


- Nền văn hóa: là biểu hiện cho tồn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát
triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống
trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lí
các hoạt động văn hóa.
- Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa: là một nền văn hóa được xây dựng trên cơ sở hệ giá trị tư
tưởng cách mạng của giai cấp cơng nhân; có sự kế thừa , tiếp thu chọn lọc đối với những tinh
hoa văn hóa đã được con người sáng tạo ra trong lịch sử.
- Nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc: Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ;
trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh , nhằm mục têu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự
nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đó là: lịng u thương nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lí; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng sử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng
cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm …
b.Chủ trương xây dựng nền văn hóa XHCN ở Việt Nam

Đảng đã khẳng định:” Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thức đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhầm xây
dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành
mạnh cho sự phát triển xã hội”3
Đảng tiếp tục khẳng định: “ Xây dựng nền văn hóa tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây
dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
9


năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống
có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.”4
Đảng quan niệm “ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những yêu cầu về tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách
con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan điểm về văn hóa từ
kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra yêu cầu đa dạng hóa các hình thức hoạt động của
phong trào “ Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” , xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ
thống thiết chế văn hóa, nâng cao hệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà
truyền thống …”5
Theo nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI Đảng khẳng định mục tiêu: xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và kha học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2 Đặc trưng của nền văn hóa XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Thứ nhất là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Thứ hai là: do nhân dân làm chủ.
- Thứ ba là: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp.
- Thứ tư là: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Thứ năm là: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển tồn
diện.
10


- Thứ sáu là: cả dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và cùng giúp
nhau phát triển.
- Thứ bảy là: có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Thứ tám là: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
{Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( 1991, bổ sung
và phát triển năm 2011)}
2.3 Đánh giá thực trạng việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt
Nam hiện nay
Văn hóa có vai trị rất quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Đảng ta đã nhấn mạnh
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Hiện nay, Chính phủ đang tiến hành tổng kết Chiến lược phát triển văn hóa Việt
Nam đến năm 2030. Vì thế, việc đánh giá chính xác, khách quan sự phát triển văn hóa thời gian
qua chính là cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách dối với lĩnh vực đặc thù này.
Bởi chính sự quan trọng này nên chúng ta cần làm rõ thực trạng việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay.
Phần lớn ý kiến cho rằng: “ Văn hóa của Việt Nam chúng ta đang xuống cấp một cách trầm
trọng”. Và có đúng như thế khơng? Để trả lời được câu hỏi này chúng ta cần phải dựa vào một
chuẩn mực nào đó. Nhưng chuẩn mực đó là gì và cái gì đã tạo nên chuẩn mực đó? Đây chính là
cái khó khăn của việc xem xét thực trạng của nền văn hóa nước ta hiện nay. Và trên thực tế thì
bức tranh văn hóa hiện nay vơ cùng là phức tạp, nó bao hàm những mâu thuẩn sâu sắc được

hình thành từ sự vận động nói chung của xã hội và của văn hóa nói riêng, vì vậy việc lí giải đơn
giản hay lí giải theo một chiều là khơng thích hợp. Và dưới đây là những kết quả đạt được cũng
như những hạn chế trong thực trạng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở
nước ta hiên nay mà nhóm chúng em đã nghiên cứu để từ đó chúng ta có thể nhìn nhận được

11


nguyên nhân và có những gải pháp khắc phục và phát triển của nước Việt Nam ta hiện nay trong
thời kì mới - thời kì Hội nhập và Phát triển.
2.3.1 Những kết quả đạt được
a.

Tư tưởng, đạo đức, lối sống có những chuyển biến quan trọng. Chủ nghĩa

Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh được qn triệt hình thành nền tảng tư tưởng,
chỉ đạo cuộc sống. Năng lực đổi mới của cán bộ, nhân dân được nâng lên
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề cập trong nhiều
văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII. Trong đó, tính tiên
tiến và bản sắc dân tộc được hịa quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu thành của nền
văn hóa, đảm bảo tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đồng
thời, nội hàm của tính tiên tiên và bản sắc văn hóa cũng được xác định rõ, phù hợp với
mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi lên CNXH. Theo đó, tiên
tiến trong văn hóa trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tất cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người,
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội; tiên tiến không chỉ
thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các phương tiện

chuyển tải nội dung.
Khống chế và từng bước chiến thắng đại dịch COVID 19
Đảng ta đã vận dụng thành công Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào trong thực tiễn cuộc sống. Cụ thể trong đại dịch Covid vừa qua, chúng ta có thể thấy
vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong định hướng và phát huy tinh thần của khối đại đồn
kết dân tộc. Đó là tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, vì chủ trương mà Đảng đã đề ra để
cùng nhau vượt qua cơn đại dịch, vững mình để vực dậy, giữ yên bình cho Tổ quốc và
giúp đỡ bạn bè năm châu.

12


Tuy chưa phải là chiến thắng cuối cùng, nhưng với tinh thần “chống dịch như chống
giặc”, Việt Nam đã chia ra các giai đoạn khác nhau và đã giành thắng lợi trên từng chặng
đường tính đến thời điểm này. Với những gì diễn ra hơn hai năm qua và đặc biệt là trong
bốn đợt chống dịch COVID 19 cho thấy những gải pháp và chiến thuật hiệu quả của nước
ta khi “ đánh giặc” vơ hình COVID 19. Nhân dân từ hoang mang lo lắng, hoảng loạn,
thậm chí sợ hãi đã nhanh chóng lấy lại cân bằng và an tâm tin tưởng hơn khi chúng ta
nhanh chóng khoanh vùng và cách ly những người nhiễm dịch cũng như các đối tượng
nghi nhiễm. Ngay khi có dịch bệnh bùng phát, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị đã vào cuộc quyết liệt, cùng với sự đồng lịng, đồn kết của tồn dân, tồn qn,
cơng tác phịng, chống dịch đã đạt kết quả tốt, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm sốt được
dịch bệnh. Đồng thời, đã có những chính sách kịp thời để từng bước hỗ trợ doanh nghiệp
và người dân vượt qua khó khăn của đại dịch COVID-19; các hoạt động của đời sống
kinh tế - xã hội đang được khơi phục; tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến
tích cực; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Chính phủ. Và cuối cùng sau bao cố gắng của
Đảng, Nhà nước, nhân dân thì chương trình tiêm chủng vaccine đã bắt đầu từ cuối năm
2020.
Đây chính là kết quả cuộc việc vận dụng tư tưởng vào đường lối, định hướng đúng

đắn của Đảng, làm cho nhận thức, đạo đức và lối sống nhân dân ngày càng văn minh,
trình độ dân trí ngày càng cao
Sức mạnh văn hóa trên lĩnh vực chính trị
Trong hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt tới một trình độ văn hóa vững vàng nhờ
đó xử lý được các quan hệ phức tạp của thế giới hiện đại, đứng vững trước mọi biến động
và không ngừng phát triển của khu vực và thế giới, thậm chí trong bối cảnh khủng hoảng
của xã hội chủ nghĩa. Việc xóa thế bao vây cấm vận của Mỹ, bình thường hóa quan hệ với
các nước lớn, chủ động gia nhập với các nước trong khu vực, thiết lập quan hệ với liên

13


minh Châu Âu, đa phương và đa dạng hóa quan hệ với thế giới đã tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong bối cảnh Đông Nam Á chao đảo trong khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhân dân
ta đã đề cao tư tưởng phát huy nội lực, kết hợp sức mạnh quốc tế, mở ra các giải pháp
đúng đắn đưa nước ta vượt lên khó khăn, đạt tới sự phát triển mới. Như vậy, những sức
mạnh văn hóa có tính tổng hợp, nhất là trên lĩnh vực chính trị, khơng ngừng được tích lũy
đã tạo cho nước ta những khả năng vượt lên khó khăn thử thách, thúc đẩy q trình phát
triển đất nước, bắt kịp những yêu cầu của thời đại. Đó là một thành tựu đáng kể. Đầu tư
cho sự nghiệp văn hóa khơng chỉ được coi trọng từ nguồn ngân sách nhà nước mà còn thu
hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa; Đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa khơng
ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao;
phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa được mở rộng và từng bước đi
vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng
lớp nhân dân.
b. Giữ gìn và phát huy bản sắc nền văn hóa dân tộc
Trước tiên, có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch
sử, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên kết tinh và lắng đọng
được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống u nước và lịng dũng cảm, khả năng thích

ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái,
lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được
bạn bè quốc tế biết đến như một đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động,
một thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hịa bình và phồn vinh
chung trên tồn cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt Nam,
sự “va đập” giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt
Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống,
đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân chủ, hiện đại, nhân văn,
khai phóng, khoan dung, rộng mở.
14


Phát huy tinh thần tương thân tương ái
Ta chỉ cần nhìn vào thực tế, trong thời gian vừa qua, nhân dân ta đã phát huy rất tốt tinh
thần tương thân thương ái, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn hoạn nạn. Truyền
thống quý báu này là một văn hóa đẹp mà cha ông ta đã truyền lại cho thế hệ sau, là một
truyền thống mà ít dân tộc nào trên thế giới phát huy hết sức mạnh của nó. Đó là những
cuộc giải cứu nơng sản, giải cứu hàng hóa trong bối cảnh người nơng dân khơng tìm được
lối ra cho sản phẩm do dịch COVID 19, đó là những chuyến hàng cứu trợ cho miền Trung
thân yêu trong đợt bão lũ lịch sử vừa qua. Càng những lúc khó khăn thì tinh thần tương
thân tương ái lên cao hơn. Hơn lúc nào hết, trong những lúc khó khăn thì con người
chúng ta càng thấm thía hơn đạo lý tốt đẹp “Thương người như thể thương thân”, “ Một
miếng khi đói bằng một gói khi no” của dân tộc ta.
Lời kêu gọi tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lịng
Ngày 30/3, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi toàn thể
dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức
để chiến thắng đại dịch COVID-19. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu
rõ: “Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tơi kêu gọi tồn
thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngồi hãy đồn kết một
lịng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của

Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mỗi
người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh”6. Những quyết định lịch
sử “chống dịch như chống giặc” và Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng làm chúng ta nhớ lại những giai đoạn trong lịch sử đã từng có. Những tháng
năm dân tộc ta bừng bừng khí thế, làm theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “hễ cịn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta cịn phải chiến đấu qt sạch nó
đi”7. Nhưng đấy là cuộc chiến đấu mà thời đó, mỗi chúng ta nhận rõ hình hài kẻ thù là
bọn đế quốc xâm lược, nên mỗi người dân đất Việt bừng bừng khí thế “cả nước ra trận”.
Các chiến sĩ quân đội của chúng ta nêu khẩu hiệu: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Các
15


trường học sơ tán về nông thôn hoặc miền núi tiếp tục những giờ lên lớp. Nhưng hôm nay,
cuộc chiến đấu chống dịch COVID-19 - một kẻ thù vơ hình, đã và đang làm đau đầu các
nhà lãnh đạo, các chuyên gia và nhà khoa học không chỉ ở nước ta mà cả thế giới vì chưa
xác định được hình hài của nó. Bầu trời khơng có tiếng gầm rú của máy bay thù; và mặt
đất không rung chuyển bởi đạn bom, khơng có cảnh đầu rơi máu chảy, nhưng loại virus
này đang lặng lẽ hoành hành, chỉ vài tháng khởi phát đã cướp đi sinh mạng của hàng chục
nghìn người, tốc độ lây lan đang tăng lên chóng mặt, nguy cơ tử vong có thể là cấp số
nhân, nếu chúng ta không kịp thời điều chỉnh, bổ sung nhiều giải pháp hữu hiệu. Lời hiệu
triệu chính là bằng chứng cho thấy tinh thần đồn kết và lịng u nước đang chảy trong
mỗi người con đất Việt.
c.

Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa

Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình thành qua hàng nghìn
năm lịch sử. Nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dồi dào, đa dạng về loại hình và có giá
trị cao trên nhiều phương diện, được công nhận cả ở tầm khu vực và quốc tế là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú,

cảnh quan kỳ vĩ và thơ mộng là những tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành
những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng
như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam. Chính phủ rất quan tâm trong
việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Ngày 24/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 36/QĐ-TTg lấy ngày 23-11 hàng năm là Ngày Di sản văn hóa Việt
Nam nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động
trên lĩnh vực di sản văn hóa, động viên và thu hút mọi tầng lớp xã hội tham gia tích cực
vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Đảng và nhà nước ta còn
ban hành nhiều bộ luật, nghị định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới có ý nghĩa đối với cộng đồng xã hội và quốc tế...
d. Giao lưu, tiếp thu văn hóa nước ngoài

16


Chúng ta không chỉ giữ được những truyền thống tốt đẹp, những lễ hội, phong tục,
tập quán ý nghĩa mà cha ơng truyền lại, mà cịn đồng thời cởi mở tiếp nhận những làn
sóng văn hóa hiện đại để phù hợp hơn với thế giới mới. Việt Nam luôn chủ động tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật nước ngồi để làm mới, phong phú thêm bức tranh văn
hóa trong nước. Chúng ta tiếp thu khá đa dạng ở các khâu một cách tích cực, từ cơ chế
quản lý, quảng bá, phát hành cho đến nội dung hay hình thức nghệ thuật. Trong lĩnh vực
âm nhạc, các thể loại như: Jazz, Disco, Pop, Rock, Rap, Blues… đã trở nên quen thuộc rồi
phổ biến trong giới trẻ. Hiện nay, các tác phẩm cổ điển của Mozart, Bethoven, Chopin,
Tchaikovsky, Bach… được người Việt tiếp nhận thường xuyên ở các nhà hát, chứng tỏ
trình độ thưởng thức nhạc kinh điển của bộ phận công chúng đã nâng cao rất nhiều. Đặc
biệt, vào những năm 2000 giới trẻ gần như phát cuồng với làn sóng Hallyu8 và những
ngơi sao Kpop9, sau đó phong trào thần tượng đã phát triển nhanh chóng, các fanclub ủng
hộ cho idol cũng dần trở nên phổ biến. Hay mới gần đây nhất, chúng ta có cuộc thi hấp
dẫn thu hút nhiều sự quan tâm của khán giả: RAP VIỆT, King Of Rap, văn hóa Rap đã du
nhập và tạo thành trào lưu mới trong giới trẻ.

Những làn sóng này cũng mang lại nhiều cái hay như:
+ Các fan club10 làm từ thiện dưới danh nghĩa thần tượng
Ví dụ: VEU – cộng đồng fan Super Junior tại Việt Nam quyên góp 425 triệu đồng chống
dịch Covid 19 và hạn mặn miền Tây, cộng đồng fan BTS tại Việt Nam góp 159 triệu đồng
để xây cầu ở Đồng Tháp
+ Một số người hâm mộ coi thần tượng là động lực học tập, cải thiện bản thân.
e.

Xóa bỏ các hủ tục, định kiến phong kiến

Trong sự vận động chung của xã hội thì có những truyền thống khơng cịn phù hợp
với thời đại hiện tại. Vì vậy cần loại bỏ đi những suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu, khơng cịn phù
hợp; đề cao quyền tự do thể hiện cá nhân thay vì những suy nghĩ hà khắc kiểu phong kiến.
Nạn tảo hôn, thách cưới,… của các dân tộc thiểu số.
17


Vấn đề này được nhiều đại biểu Quốc hội đưa ra thảo luận trong các kỳ họp đại
biểu Quốc hội, báo cáo Quốc hội. Trước đây, Quảng Ngãi là một trong những địa phương
có tình trạng tảo hơn và hơn nhân cận huyết lên đến hàng ngàn cặp. Theo báo cáo của các
cơ quan chức năng, trước năm 2016, 6 huyện miền núi của tỉnh là Ba Tơ, Minh Long, Sơn
Hà, Sơn Tây, Tây Trà và Trà Bồng, cùng với một số xã miền núi của huyện Bình Sơn,
Nghĩa Hành có đến 462 cặp tảo hơn. Độ tuổi tảo hơn từ 14 - 17 tuổi. Cá biệt, có 10
trường hợp tảo hôn ở độ tuổi 12 - 14, làm ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, mất cơ hội
học tập; cơ hội cải thiện điều kiện sống và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nòi giống và sức
khỏe sinh sản của đồng bào. Nhận thức được những hệ lụy do tảo hôn và hôn nhân cận
huyết, những năm gần đây, Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ngãi đã phối hợp với các sở, ban
ngành, địa phương triển khai thực hiện Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hơn và hơn nhân
cận huyết thống. Đồng thời, triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó đẩy mạnh cơng
tác tun truyền, tập huấn; tổ chức các hội thi sân khấu hóa trong các trường dân tộc nội

trú, trung học phổ thông ở các huyện miền núi. Qua đó, góp phần ngăn chặn kịp thời
nhiều trường hợp tảo hôn. Sau 3 năm thực hiện Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hơn và
hơn nhân cận huyết thống, tình trạng tảo hơn đã giảm mạnh, hơn nhân cận huyết thống
cũng chấm dứt hoàn toàn.
Định kiến trọng nam khinh nữ
Hàng nghìn năm qua, người Việt Nam vẫn đau đáu với quan niệm “ Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vơ” và dường như nó đã ăn sâu vào tâm thức rất nhiều người trong
chúng ta. Bởi lẽ đó là nỗi đau của hàng ngàn người cả nam và nữ giới khi không sinh
được con trai nối dõi. Quan niệm đó đã đẩy một nửa thế giới – những người phụ nữ đáng
được trân trọng, yêu thương vào thế yếu và khiến biết bao người trong số đó trở thành
nạn nhân của tư tưởng trọng nam khinh nữ - một tư tưởng phân biệt đối xử theo giới tình,
trong đó nam giới được coi trọng hơn nữ giới. Ngày nay khi xã hội ngày càng văn minh,
những hủ tục lạc hậu đang dần được xóa bỏ tuy tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ăn
sâu trong ý thức của rất nhiều người thời hiện đại, nhưng một phần nào đó đã giảm bớt
18


khi mà phụ nữ đang dần cởi bỏ đi lớp vỏ bọc yếu đuối vẫn được mặc định từ bao lâu nay
và góp phần vào sự phát triển của xã hội.

2.3.2 Những hạn chế
Sau hơn 30 năm “đổi mới”, nước Việt Nam ta hiện nay đã thoát kiếp sống lạc hậu,
bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Đã bước một thời đại mà những người ngày trước ở
thời kì bao cấp có nằm mơ cũng khơng thể ngờ được. Đất nước đã có những tịa nhà chọc
trời, những chung cư cao cấp, xe thì khơng đủ chỗ chạy cịn người đi bộ thì đếm trên đầu
ngón tay. Con người khơng cần tự tay gặt lúa, đập lúa,….Đó là những thứ đã là dĩ vãng.
Bây giờ thì chỉ cần một cỗ máy là có thể bao hàm tất cả những cơng việc cực lực ấy. Con
cái thì được đi học đầy đủ, phát triển mọi mặt, cơm no áo ấm, sau này thì đi làm ngồi mát
máy lạnh. Cuộc sống đúng thật là trong mơ cũng chưa thấy được của những con người
thời trước. Và bên cạnh đó, nền văn hóa của đất nước Việt Nam, một đất nước đậm đà

bản sắc dân tộc đã có những biến thể, những sự lai tạp từ văn hóa các nước (1000 năm độ
hộ giặc Tàu, 1000 năm đô hộ giặc Tây). Càng làm cho nền văn hóa của con người Việt
Nam có những chuyển biến rõ rệt về nhiều phương diện khác nhau tạo nên một nền văn
hóa lẫn lộn (Tàu-Tây-Ta). Và cũng như bao nước khác, nước ta cũng đã phát triển rõ rệt
như trong quy luật phủ định của phủ định. Một nền kinh tế mới, một nền văn hóa mới đã
sinh ra, kế thừa những cái vốn có và đã phát triển lên hồn tồn. Đó chính là hồn cảnh
của đất nước ta hiện nay. Và theo sự vận động khơng ngừng của q trình phủ định của
phủ định đó, theo khuynh hướng vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao một
cách vô tận theo hình “xốy ốc” ấy thì nền văn hóa của nước ta đang đi về đâu? Đúng vậy,
nền văn hóa vận động phát triển hoàn toàn theo như quy luật phủ định của phủ định, đã
sinh ra một nền văn hóa mới. Nền văn hóa mà có người cho rằng đây là hiện đại, là tiếp
thu tinh hoa của những nền văn minh phát triển tiên tiến. Nhưng thực chất có là phát triển
19


×