Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

(Skkn 2023) rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần nói và nghe thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau ( bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống, ngữ văn 10)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 69 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2
======***=====

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10
QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN
ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI
THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10)

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN
Tên tác giả: 1. HOÀNG THỊ THU HUYỀN
2. CUNG THỊ THU
Tổ bộ môn: Ngữ văn
Năm thực hiện: 2022 -2023

SĐT liên hệ : 0343675101
0966512070

Yên Thành, tháng 4 năm 2023

1


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10
QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN
ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI
THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10)



LĨNH VỰC: NGỮ VĂN


MỤC LỤC

Trang
Phần I. Đặt vấn đề…………………………………………………………

1

Phần II. Nội dung nghiên cứu……………………………………………

6

Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài……………………………………..

6

1. Cơ sở lý luận………………………………………………………………

6

1.1. Khái niệm kỹ năng………………………………………………………..

6

1.2. Khái lược về tranh biện…………………………………………………...

6


1.3.Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018

11

1.4.Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong
chương trình GDPT Ngữ văn 2018…………………………………………..

12

2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………….

13

2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến……….

13

2.2.Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào
tranh biện trong giới trẻ hiện nay……………………………………………..

13

2.3.Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học…………………..

14

2.4.Kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018.............

16


Chương 2. Thực trạng dạy học kỹ năng tranh biện của GV Và HS
trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 ở trường THPT...................

18

1. Đánh giá thực trạng thông qua số liệu điều tra, khảo sát…………………..

18

2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng……………………………………...

18

3. Những thuận lợi khi rèn luyện KNTB cho HS trong Chương trình GDPT
2018 tại trường THPT Yên Thành 2

23

Chương 3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học
sinh lớp 10 THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề
xã hội có kiến khác nhau………………………………………………………

25

1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp………………………………………

25



2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học

27

sinh THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề xã hội có ý
kiến khác nhau…………………………………………………………………
2.1. Chiến lược xây dựng câu hỏi…………………………………………….

27

2.1.1. Xây dựng các chủ đề tranh biện phù hợp………………………………

27

2.1.2. Tạo cơ hội cho học sinh tranh luận thông qua hình thức trao đổi, thảo
luận nhóm với hệ thống bài tập có chủ định………………………………….

29

2.1.3. Tổ chức thuyết trình và tranh biện …………………………………….

30

2.2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận.............................................

32

2.2.1. Để có một lập luận tốt trong tranh biện, cần chú ý ba tiêu chí khi xây
dựng lập luận: tính liên quan, tính đúng đắn, tính quan trọng..........................


33

2.2.2. Để có một lập luận tốt trong tranh biện cần thiết lập một cấu trúc lập
luận chặt chẽ giữa Luận điểm, lý lẽ, dẫn chứng để đi đến một kết luận vững
chắc trước đối phương………………………………………………………...

34

2.3. Rèn luyện một số kỹ năng đi kèm để nâng cao hiệu quả tranh biện …….

37

2.3.1.Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện………………

37

2.3.2.Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh biện….

39

2.3.3.Rèn luyện kỹ năng sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và
phương tiện phi ngôn ngữ khi tranh biện…………………………………

39

2.3.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ thuật phản biện………

40

3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất…………….


49

4. Khả năng và ứng dụng của đề tài………………………………………...

53

Phần III. Kết luận………………………………………………………

55

Phụ lục
Tài liệu tham khảo


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

TT

Từ đầy đủ

1

KNTB

Kỹ năng tranh biện

2


GV

Giáo viên

3

HS

Học sinh

4

SGK

Sách giáo khoa

5

GDPT

Giáo dục phổ thông

6

THPT

Trung học phổ thông


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Các mối quan hệ trong xã hội dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống: từ
đạo đức, văn hóa, giáo dục… đến chính trị, khoa học, kinh tế, luật pháp…ln
ln làm nảy sinh, xuất hiện những tình huống phức tạp, chứa đựng những mâu
thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Đối thoại, tranh luận phản biện là cách giải quyết các
mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ - ngơn từ, là phương thức ơn hịa để hóa
giải mâu thuẫn, cân bằng các mối quan hệ, san bằng cách biệt, giúp tiếp cận và làm
sáng tỏ chân lý, tạo động lực để xã hội phát triển và là phương tiện giao tiếp không
thể thiếu trong thế giới tiến bộ. Là hình thức giao tiếp ngơn ngữ đặc thù, kỹ năng
tranh biện ln gắn bó tự nhiên, giao thoa và song hành cùng kỹ năng lập luận và
kỹ năng tư duy phản biện để hình thành nhóm kỹ năng tư duy - ngơn ngữ. Đây là
nhóm kỹ năng vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, trong đó có thể
coi kỹ năng tư duy phản biện là khối óc và kỹ năng lập luận, tranh biện là dịng
máu, là hơi thở để duy trì “sức sống” cho đối thoại, tranh luận.
Mặt khác, rèn luyện KNTB là cơ sở để hình thành và phá triển các kỹ năng
sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác, mà theo Diễn đàn kinh tế Thế giới
(WEF – 2015) đây là những kỹ năng hình thành nên nhóm kỹ năng hội nhập, là
hành trang của công dân trong thế kỷ XXI. Vì vậy, việc rèn luyện và nâng cao kỹ
năng lập luận và tranh biện là một trong những phương pháp hiệu quả để nâng cao
năng lực và giá trị bản thân, đó khơng chỉ là thước đo để đánh giá phẩm chất và
thái độ sống của mỗi người mà còn là “nguồn lực” để phát triển trong một thế giới
đầy biến động và bất định. Chính vì thế, trong mục tiêu chương trình GDPT 2018,
việc phát triển KNTB là hướng đi phù hợp đáp ứng được nhu cầu đổi mới của giáo
dục và phù hợp với xu thế của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
1.2.Thực tế trong học tập và trong cuộc sống hiện nay luôn chú trọng đến
hoạt động tranh biện. Trên các diễn đàn, chương trình truyền hình đã xuất hiện
những chương trình hình thành và rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh các
cấp như Trường Teen trên kênh VTV7, Thanh niên nói, Học thuật đồng đội(World
Scholars cup) hay những cuộc thi tranh biện bằng tiếng Anh. Khi HS tham gia các
cuộc thi trên đã phát triển tốt kỹ năng tranh biện cũng như phát triển tư duy logic

và tư duy phản biện. Đồng thời rèn luyện được sự tự tin trong giao tiếp, sự sáng tạo
trong lập luận, kỹ năng làm việc nhóm và cả kỹ năng lãnh đạo. Khơng những thế,
để làm tốt hoạt động tranh biện thì HS phải tự kiến tạo tri thức, xây dựng được
chính kiến của bản thân, có khả năng đánh giá và phản biện đưa ra các lí lẽ sắc sảo,
cách lập luận chặt chẽ để phản bác lại quan điểm của người khác, bảo vệ quan
điểm của mình. Chính vì thế mà phát triển những sân chơi như thế đã thu hút đông
6


đảo học sinh tham gia và hưởng ứng tích cực.
Trong môi trường GD của nhà trường, việc phát triển kỹ năng tranh luận cho
HS mới chỉ dừng lại dưới hình thức giáo dục như trải nghiệm sáng tạo, hoạt động
ngoài giờ lên lớp để tạo môi trường thuận lợi cho các em rèn luyện kỹ năng này.
Thực tế cho thấy, phát triển kỹ năng tranh biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới
dạng tiềm năng, chưa được khai thác nhiều đặc biệt trong quá trình tổ chức dạy học
ở trên lớp.
1.3. Ngữ văn là mơn học mang tính cơng cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn:
giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và
hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng
để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngơn ngữ dân
tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống
nhân ái, vị tha...Thơng qua các văn bản ngơn từ và những hình tượng nghệ thuật
sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, mơn
Ngữ văn trong chương trình GDPT 2018 có vai trị to lớn trong việc giúp học sinh
hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để
sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ
năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xun suốt cả ba cấp học
nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính
chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức
phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt

động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện
các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.
Sách giáo khoa Ngữ văn 10 thuộc bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”
đã đáp ứng theo đúng yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, chú
trọng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho người học. Đặc biệt, bộ sách
đã thiết kế hoạt động Nói và nghe tương tác nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện
cho HS về các vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thông qua hai bài học:“Bài 3.
Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một
vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ
văn, tập 1); Kỹ năng này tiếp tục được lặp lại và đòi hỏi vận dụng cao hơn trong
chương trình học kỳ 2 trong “Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần
Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết
nối tri thức với cuộc sống” - Ngữ văn, tập 2). Năm học 2022 - 2023 là năm đầu
tiên thực hiện Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018. Thực tế cho thấy, trong
quá trình giảng dạy, một bộ phận khơng nhỏ giáo viên còn lúng túng trong khâu tổ
chức tranh biện cho HS, chủ yếu cung cấp kiến thức, chưa tạo cơ hội để học sinh
bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Mặt khác, ở các tiết học đó, một số giáo viên
lựa chọn các chủ đề quá cũ, không phù hợp với nhịp sống đang diễn ra sôi động
hiện nay nên thực sự không thu hút được sự quan tâm từ phía học sinh; đồng thời,
7


khi học sinh phát biểu hoặc trình bày vấn đề thì cịn mang tính chất một chiều;
thiếu sự tranh biện…Chính vì vậy, các giờ học này khá khơ khan, nhàm chán; chưa
phát huy được sự tích cực, chủ động từ phía người học.
Mặt khác, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ của
đồng nghiệp trong và ngồi trường, chúng tơi nhận thấy rằng việc sáng tạo trong
đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dạy học
phát triển năng lực cho người học đặc biệt là phát triển kỹ năng tranh biện rất cần
thiết, được xem như mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới.

Xuất phát từ các lý do trên, Chúng tôi đã nghiên cứu, áp dụng và từ đó đúc
rút kinh nghiệm để viết nên bản sáng kiến với đề tài:“Rèn luyện kỹ năng tranh biện
cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe:Thảo luận về một vấn đề xã hội
có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10).
Trong quá trình giảng dạy các tiết dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về
một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau - Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn 10
trong chương trình học kỳ 1 và 2, Chúng tôi đã vận dụng một số biện pháp dạy học
tích cực nhằm phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh như dạy học bằng cách
đưa ra chiến lược xây dựng câu hỏi gồm xây dựng các chủ đề tranh biện có tính
thời sự; hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận vững chắc; các biện pháp rèn
luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh luận, kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm
xúc khi tranh luận… để các em có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của mình.
Chúng tơi nhận thấy các tiết học sơi động hơn, học sinh thích thú, say mê; học sinh
thực sự chủ động, tích cực và sáng tạo; khơng khí học tập dường như sôi nổi hẳn
lên. Học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn
trong đời sống, rèn luyện kỹ năng sống; đặc biệt học sinh làm chủ suy nghĩ và biết
cách bảo vệ ý kiến của mình trước những thơng tin đa chiều; qua đó phát triển một
cách tồn diện về thể chất, trí tuệ và rèn luyện trở thành một con người năng động,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước những yêu cầu của thời đại mới.
Đồng thời, khi thực hiện các tiết dạy này, giáo viên sáng tạo hơn trong việc chuẩn
bị nội dung và thiết kế dạy học. Như vậy, việc thực hiện đề tài này đã thay đổi cách
dạy và học của giáo viên và học sinh, mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
2. Mục đích - Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các biện pháp rèn luyện và phát
triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thơng qua dạy học phần Nói và nghe :
Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức,
Ngữ văn tập 1,2). Đồng thời tạo ra một khơng khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp
phần làm nên sức hấp dẫn của tiết dạy, thực hiện đúng mục tiêu của Chương trình
GDPT Ngữ văn 2018.
Nhiệm vụ cụ thể mà chúng tôi tiến hành như sau:

8


- Nghiên cứu nhiệm vụ năm học 2022 – 2023 thơng qua các văn bản chỉ đạo
thực hiện Chương trình GDPT Ngữ văn 2018 của Sở giáo dục đào tạo Nghệ An.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về tư duy hùng biện, phản biện, tranh biện và các
biện pháp phát triển năng lực đó trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thơng.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về bài tập thực tiễn, các kỹ năng lập luận, phương
tiện ngơn ngữ và phi ngơn ngữ… và vai trị của nó trong việc phát triển kỹ năng
tranh biện cho học sinh.
- Nghiên cứu bài học: phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có
ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2)
- Đề xuất các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học
sinh lớp 10 thơng qua dạy học : phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội
có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2).
3. Phạm vi nghiên cứu và Đối tượng nghiên cứu
Đề tài bàn đến là giải pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS lớp 10 cấp
THPT. Nhưng trong khả năng của người viết, Chúng tôi chỉ xin đề xuất một số
cách rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học bài Nói và nghe
: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Sách giáo khoa Ngữ văn 10 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (Bùi Mạnh Hùng và cộng sự, 2022). Đây là 1
trong 3 bộ sách được Bộ GD - ĐT phê duyệt; trở thành một tài liệu lựa chọn giảng dạy
hữu ích trong nước. Việc lựa chọn bộ SGK này làm phạm vi nghiên cứu cho đề tài là
một việc làm thiết thực cho hành trang giáo dục sắp tới.
Đối tượng học sinh mà chúng tôi thực nghiệm và đối chứng kết quả là học
sinh lớp 10 trường THPT Yên Thành 2, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong
năm học 2022 - 2023 tại ba lớp chúng tôi trực tiếp giảng dạy 10A2, 10A5, 10A6.
Chúng tôi cũng sử dụng Kế hoạch dạy học của tổ Ngữ văn THPT Yên Thành 2 năm
học 2022 - 2023 để thực hiện sáng kiến này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm..
- Phương pháp so sánh…
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực tranh biện và hứng thú học tập môn Ngữ văn
của học sinh trường THPT Yên Thành 2
Bước 2: Soạn bài và dạy thể nghiệm theo hướng phát triển kỹ năng tranh biện ở
một số lớp mà chúng tôi trực tiếp giảng dạy.
9


Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết dạy.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
5. Tính mới, đóng góp của sáng kiến
- Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện
kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT; xác định những phương pháp, cách thức
tổ chức hoạt động trong dạy học bài Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội
có ý kiến khác nhau nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh.
- Đánh giá khách quan những thành tựu và tồn tại của việc rèn luyện kỹ
năng tranh biện trong dạy học Chương trình Ngữ văn 2018. Đó là cơ sở thực tiễn
để đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, đáp ứng yêu cầu
chương trình GDPT 2018.
- Đề xuất những biện pháp cụ thể như chiến lược xây dựng hệ thống câu hỏi/
bài tập, hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận và rèn luyện một số kỹ năng đi
kèm như kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện, kỹ năng sử dụng phương tiện ngôn
ngữ và phi ngôn ngữ…để nâng cao hiệu quả tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT.
Đây là những biện pháp mới đã được thực hiện có hiệu quả tại đơn vị cơng
tác, có khả năng áp dụng đối với các trường THPT.


10


PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài
1. Cơ sở lý luận
1. 1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh
vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những
hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm
vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép.
Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ khơng có cơ sở lý thuyết
nào tốt hơn hai lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế
cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ mà cá
nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là
phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi cá nhân tham gia
hoạt động thực tế của cuộc sống. Ví dụ: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ
được hình thành trong hoạt động cơng việc của cá nhân. Đa số kỹ năng mà chúng
ta có đều xuất phát từ việc rèn luyện, bồi dưỡng. Như vậy, nền tảng thành công
của con người trong cuộc sống là do 90% được đào tạo và tự đào tạo, chỉ có 2%
là kỹ năng bẩm sinh.
Có nhiều cách phân loại kỹ năng. Về cơ bản, kỹ năng có hai loại. Loại thứ
nhất là kỹ năng cứng. Đây là kỹ năng có tính nền tảng có được do đào tạo từ nhà
trường hoặc tự học. Loại thứ hai là kỹ năng mềm có được từ hoạt động thực tế. Kỹ
năng mềm gồm nhiều loại kỹ năng phong phú như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện…Để thành cơng, địi hỏi con
người phải trang bị cả kĩ năng cứng và kỹ năng mềm, phải vận dụng linh hoạt hai
loại kỹ năng cơ bản này trong học tập và cuộc sống. Trong đó, việc vận dụng các
kỹ năng mềm có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại nay.

1.2. Khái lược về tranh biện
Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vấn đề rèn luyện kỹ năng
tranh biện cho học sinh trong dạy học Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã
hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) thì trước hết
chúng ta phải tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tranh biện và phương
pháp tranh biện.
1.2.1.Kỹ năng tranh biện
11


Tranh biện có khi cịn được gọi là tranh luận (tranh luận – phản biện) là một
hình thức giao tiếp ngơn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống
giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận dùng lý lẽ, lập luận để
phân tích, luận giải nhằm xác định đúng/sai, phải/trái… về một quan điểm, một tư
tưởng, một vấn đề, một sự việc… nào đó. “Tranh biện” là một trong những hoạt
động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp,
Đức…, việc thực hành tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt
động giáo dục mà cịn qua các phương tiện truyền thơng và đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy phản
biện, nói trước cơng chúng, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép…
Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện.
Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa “Tranh” là
“giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”;
“Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận”.
Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương,
Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa trong cuốn “Từ điển Tiếng
Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”; “Tranh
luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với “tranh cãi”.
Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc
tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược”.

Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên cứu
và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa khác.
Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời”.
Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với những loại hình giao tiếp
bằng lời khác. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình
khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ
học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể hiện thông qua bảng sau: bảng 1.1.1
Loại hình
giao tiếp
Đối thoại

Ví dụ
Nói
chuyện

Phương
Mục đích
tiện chủ
chính
yếu
Trao đổi
thơng tin

Ứng
Đặc điểm
dụng chủ
nổi bật
yếu trong

Mọi hình Tự do,

thức của khơng hạn
lời nói
định

Biến thể
(nếu có)

Giao tiếp

12


Thảo luận Cuộc
họp

Thống
Giả thuyết Cần
nhất các ý Kết luận người
kiến
dẫn dắt
Cần
chương
trình định
trước
Tranh luận Các bài Tìm
Lập luận Chính xác
tranh
ra cái gì Kết luận cao độ
luận trên
tạp chí

khoa
học
Đúng
Phân biệt
rạch rịi
đúng sai

Giáo dục
Hội họp

Thương
thuyết

Giáo dục
luật

Phê Phán

Tranh biện Các bút Tìm ra ai Lập luận
chiến
đúng
trên báo

Nghệ
thuật
Tư tưởng
Giáo dục
Các vấn
đề xã hội


Có một giải
pháp “tối
ưu” hơn các
giải pháp
khác

Pháp
Khoa học

Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu
đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thơng tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp
các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngơn ngữ (thơng qua nói,
viết) hoặc khơng sử dụng ngơn ngữ (tự tranh biện – trong bản thân từng cá nhân).
Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung đột/ mâu
thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để phản đối trực
tiếp trên luận điểm của đối phương”
Từ đó, có thể định nghĩa: tranh luận (tranh biện) là hình thức giao tiếp ngơn
ngữ mang tính đối kháng, nảy sinh khi có sự khác biệt hoặc đối lập gay gắt về
quan điểm trước cùng một vấn đề, một sự viêc, một hiện tượng… trong đó hai bên
tranh luận đều nỗ lực dùng lý lẽ, bằng chứng và lập luận để bác bỏ quan điểm của
đối phương, đồng thời khẳng định chân lý, lẽ phải thuộc về mình.
Tranh biện cịn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác
rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết
luận của tranh biện mang tính tương đối, khơng có đúng nhất mà mang tính tạm
thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện.
13


Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước,
theo chúng tơi: Tranh biện là q trình giao lưu ngơn ngữ địi hỏi những người

tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống
các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ơn hịa nhất giúp mọi người cùng đi
đến một nhận thức chung.
Tranh biện cũng khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận và phản biện.
Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn
bạc và đưa ra hướng giải quyết”. Trong tranh biện, kiến nghị là vấn đề được đưa
ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định, một đề xuất, hay
một dự báo về một vấn đề nào đó.
“Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ”. Thảo luận sẽ
là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là q trình mọi người giao lưu, bàn bạc
để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết vấn đề mà chúng ta đang cần phải
tranh biện với nhau.
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục
định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải”. Như vậy,
mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng.
Cịn Phản biện là việc sử dụng một lý lẽ để chống lại một lý lẽ, chỉ ra điểm
yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm được đưa ra. Mục tiêu chính là
thiết lập sự cân nhắc đối với các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết
phục đối với quan điểm cá nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối
phương.
Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với
những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với nhau. Về
bản chất, tranh biện là q trình giao lưu ngơn ngữ địi hỏi những người tham gia
phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn. Đó là cách ngắn nhất và
ơn hịa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện được coi
là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hịn đá
mài sắc tư duy. Chính vì vậy, tranh biện là một kỹ năng thiết yếu của con người,
nhất là trong thời đại ngày nay.
1.2.2. Phương pháp tranh biện
Tranh biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên,

người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử
nghiệm tự nhiên vào việc này. Tuy nhiên, đối với những môn xã hội chẳng hạn thì
cách tiếp cận vấn đề hồn tồn khác. Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh
14


biện vừa là một hình thức tổ chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp
dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng…
Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào?
Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ,
đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, trái ngược nhau.
Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi,
bàn bạc, phản biện về vấn đề. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của
mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ,
bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm
giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.
Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong
việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và
kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là giáo viên đề
xướng, tổ chức còn học sinh chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng
tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả.
1.2.3. Mơ hình cấu trúc của lập luận trong tranh luận
Một cuộc tranh luận diễn ra giữa hai bên đối lập về quan điểm: bên khẳng
định và bên phủ định về một kiến nghị cụ thể, thuộc một chủ đề nhất định.
Mỗi bên trình bày hệ thống các lập luận trái chiều, được tổ chức sắp xếp một
cách hợp lý (có chiến thuật), trong đó mỗi lập luận đưa ra thường bao gồm:
- Luận đề là vấn đề gây ra những quan điểm đối lập dẫn đến tranh luận. Với mỗi
chủ đề tranh luận cụ thể, luận đề của lập luận thường bao gồm một số luận điểm.
- Bảo vệ cho các luận điểm là các luận cứ liên quan, bao gồm lý lẽ và bằng chứng.
Trong q trình tranh luận, các bên phải làm tốt cơng việc sau:

+ Trình bày lập luận và quan điểm của mình một cách rõ ràng, thuyết phục;
+ Phản biện lập luận và hệ thống luận điểm của đối phương.
+ Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Như vậy, lập luận được đưa ra khi tranh luận – để khẳng định hay phủ định
luận đề đang tranh luận.
Sức mạnh của lập luận phụ thuộc vào sức mạnh của các luận điểm. Sức
mạnh của các luận điểm lại được quyết định bởi các luận cứ, bao gồm: sự vững
vàng của các lý lẽ cũng như tính chính xác, đầy đủ, hiển nhiên, rõ ràng và có thể
cơng thức hóa thành phần của một lập luận dưới dạng: A = C + R + E
Trong đó: A: là lập luận; C: là lời khẳng định cho luận điểm được đưa ra
(cũng là tiêu đề cho luận điểm); R: là lý lẽ và E: là bằng chứng.
Có thể coi lý lẽ (R) và bằng chứng (E) là nguyên vật liệu để xây dựng nên
15


“bức tường” khẳng định (C). Nguyên vật liệu có chất lượng tốt sẽ đảm bảo sự vững
chắc, kiên cố của “bức tường”, khiến đối phương khó có thể phá vỡ.
Sự đối lập về quan điểm trong tranh luận tất yếu làm nẩy sinh mâu thuẫn,
xung đột. Đây vừa là trọng tâm cần giải quyết, vừa là “vẻ đẹp” của một cuộc tranh
luận. Một cuộc tranh luận tồi hay thất bại là một cuộc tranh luận hoặc không tạo ra
hoặc tạo ra những xung đột mờ nhạt.
1.3. Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018
Nói và nghe là 2 trong 4 kĩ năng giao tiếp cần rèn luyện cho HS. Các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước đều khẳng định tầm quan trọng của kĩ năng nghe nói. Họ cho rằng: Những đứa trẻ có thể diễn giải suy nghĩ và ý kiến của mình bằng lời
nói sẽ có thể thành cơng hơn trong học tập. Ngoài ra, một số tác giả nước ngoài cũng
khẳng định: Nghe khơng chỉ để hiểu mà cịn để học ngơn ngữ, sự phát triển của ngơn
ngữ nói là một trong những thành quả tự nhiên và ấn tượng nhất của mỗi đứa trẻ.
Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình
GDPT 2006 là sự chuyển hướng hồn tồn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến
thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng

Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định
rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình
dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp
học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng
lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và
nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu
đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp…Chương
trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở
cấp phổ thơng như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách
diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi
nói...Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp
các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,… Kĩ năng nói và nghe
tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy
định trong thảo luận, phỏng vấn,…
Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018, kĩ
năng nói được phát triển kết hợp với nghe và hoạt động nói - nghe tương tác. Chương
trình hướng đến mục tiêu ở cấp THPT là HS biết tranh luận về các vấn đề tồn tại các
quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hóa tranh luận phù hợp; có khả
năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết
trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học
một cách tự tin, thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm bắt được phương pháp, quy
trình tiến hành một cuộc tranh luận (Bộ GD-ĐT, 2018).
16


Ngồi ra, việc dạy nói - nghe khơng chỉ hướng tới mục tiêu rèn luyện kĩ năng nói và
nghe mà còn là cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa cho
HS. Như vậy, nói - nghe là những kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày, giúp
ích cho các HS trong quá trình hình thành các mối quan hệ và khẳng định bản thân trong
xã hội. Đặc biệt, thông qua việc tổ chức dạy học hoạt động Nói – Nghe tương tác sẽ rèn

luyện kỹ năng tranh biện cho HS. Chính vì thế, trong chương trình Ngữ văn 2018, Bộ
sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” ở tập1 đã dành thời lượng 1 tiết trong bài 3
“Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận” cho Hoạt động dạy học Nói và
nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” để rèn luyện kỹ năng
tranh biện cho HS. Kỹ năng này, tiếp tục được rèn luyện và vận dụng ở mức độ cao
hơn trong học kỳ 2 ở bài 6 “Nguyễn Trãi – Dành còn để trả nợ này. Phần Nói và
nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”.
1.4. Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong
chương trình GDPT Ngữ văn 2018.
Văn bản nghị luận là loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái
độ, quan điểm của người viết (người nói) để thuyết phục người đọc (người nghe)
về một vấn đề nào đó. Đặc điểm cơ bản của văn nghị luận là bao gồm luận đề, luận
điểm, luận cứ và lập luận. Luận đề là vấn đề tổng quát, bao trùm cần được làm
sáng tỏ, cần đem ra bình luận, đánh giá. Luận đề được triển khai, phân tách thành
nhiều luận điểm. Luận điểm là tư tưởng, quan điểm, ý kiến của người nói, người
viết về vấn đề nào đó được đặt ra. Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng làm sáng tỏ
cho quan điểm. Lập luận là cách sắp xếp, tổ chức phối hợp các luận cứ để chứng
minh cho luận điểm. Văn nghị luận xã hội trong nhà trường hiện nay thường chia
thành hai loại: nghị luận về tư tưởng, đạo lí và về một hiện tượng đời sống.
Chương trình giáo dục phổ thơng môn Ngữ văn 2018 nêu rõ yêu cầu cần đạt
dạy học hoạt động nói và nghe văn nghị luận xã hội ở lớp 10 như sau:
Nói: Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện
ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.
-

Nghe: Nghe và nắm bắt được nội dung thuyết trình, quan điểm của người nói,
biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình.
-

Nói, nghe tương tác: Biết tranh luận về một vấn đề có những ý kiến khác

nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào
đó; tơn trọng người đối thoại .
-

Như vậy, Tranh biện là hoạt động vận dụng tư duy, quan điểm về các kiến
thức, lĩnh vực xung quanh vấn đề bàn luận, sắp xếp các quan điểm, ý kiến, dẫn
chứng theo hệ thống lập luận nhất định để ra đưa quan điểm phản biện. Phát triển
17


kỹ năng tranh biện trong dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội sẽ giúp HS phát
huy tối đa năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, HS có thể thể hiện quan điểm cá
nhân của mình và phản biện quan điểm của người khác khi thảo luận về các vấn đề
xã hội có ý nghĩa thực tiễn.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến
Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các quốc gia có nền
giáo dục phát triển mạnh, cụ thể là các nước phương Tây, đều coi trọng kỹ năng
tranh biện. Ở Mỹ, người ta đề cao tính dân chủ trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người học phát huy khả năng tranh biện của học sinh THPT. Phó giáo sư lịch sử
Johann N. Neem thuộc Đại học Western Washington (Mỹ), trong một bài viết đăng
trên tạp chí The Chronicle of Higher Education, đã thúc giục nhà chức trách và
những nhà giáo dục Mỹ cần thực hiện tốt hơn việc giáo dục lịch sử dân tộc và phải
dạy với tinh thần tranh biện. Nước Anh coi dạy học kỹ năng tranh biện như xương
sống của nền giáo dục, trong kiểm tra đánh giá học sinh phải hồn thành hai nội
dung chính: “Sự đáng tin của dẫn chứng” và “Phát triển tranh luận”. Còn ở các
quốc gia Châu Á, cụ thể là Nhật Bản, một đất nước có nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới hiện nay. Văn hóa tranh luận được nhiều gia đình Nhật Bản áp dụng trong
cách ni dạy con cái. Việc dạy cho trẻ những kỹ năng tranh luận cần thiết sẽ giúp
trẻ hình thành nên tư duy phản biện từ sớm, từ đó biết phân tích và xử lý đối với

các vấn đề trong cuộc sống.
Như vậy, các nước tiên tiến đã coi trọng kỹ năng tranh biện trong dạy học,
đây là cơ sở đáng tin cậy để giáo dục Việt Nam mạnh dạn đưa tranh biện vào trong
dạy học ở các bậc Đại học và bậc THPT.
2.2. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào
tranh biện trong giới trẻ hiện nay.
Đối tượng học tập của trường THPT là những thanh thiếu niên độ tuổi từ 15
– 18, đang ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về tâm sinh lý, có
sự trưởng thành vượt bậc về phẩm chất và năng lực. Đây là thời kì mà có em có
khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về
những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những điều chưa được học.
Tính độc lập tư duy là một phẩm chất rất quý báu mà người thầy cần phải giữ gìn
và phát triển. Nếu như người giáo viên khơng đổi mới phương pháp thì sẽ không
đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. Phải làm thế nào để phát huy được
năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em phải tìm tịi, suy nghĩ
để tìm ra những lập luận, bằng chứng xác đáng để thuyết phục người khác và
chứng minh ý kiến của mình.
18


Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu bộc
lộ bản thân, nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ
được đề cao như hiện nay. Học sinh THPT có khát vọng, có chính kiến riêng, có
quan điểm và phán đốn của mình với những vấn đề chung, chưa hoàn toàn tin
tưởng vào uy quyền của cha mẹ, thầy cơ, sách vở, thường “tìm ra những cái sai
sót” trong lập luận của thầy cô giáo hoặc tài liệu, có xu hướng tranh chấp và phản
đối với hình thức rất quyết liệt. Các em mong muốn được thể hiện mình trước thầy
cơ, bạn bè, muốn khẳng định chính kiến của bản thân, muốn chứng minh sự tiến
bộ, trưởng thành của mình. Ngồi ra, ở độ tuổi 15 – 18 các em học sinh thường rất
hiếu động, ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá. Trong q trình đó, học sinh cần

có người định hướng cho mình cách làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ
nhận, chủ quan hoặc sai lầm.
Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của học sinh cũng là một cơ sở
để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng tranh biện cho các em.
Chính vì nhu cầu trên, Trong năm năm trở lại đây, tranh biện đang ngày
càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ Việt. Phong trào tranh biện bắt đầu du nhập
vào Việt Nam và nhanh chóng được các bạn trẻ ở các thành phố lớn như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh đón nhận. Nhìn chung, phong trào tranh biện đang ngày
càng được phát triển, lan rộng ở Việt Nam thông qua các chương trình tranh
biện như “Tơi lên tiếng”, “Trường Teen” phát sóng trên kênh VTV7. Nhiều câu
lạc bộ tranh biện được thành lập ở các trường THPT trong tỉnh Nghệ An như: câu
lạc bộ tranh biện PDC của trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Thunder Debate
Club của trường THPT chuyên Đại học Vinh hay H.D.C. Huỳnh Debate Club của
trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Tại các trường THPT ở huyện Yên Thành,
phong trào này chủ yếu diễn ra dưới hình thức cuộc thi trong hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp có sự phối hợp giữa Ban chun mơn với Đồn trường. Quan
trọng là các hoạt động này đều do các em học sinh tự điều hành từ cách thành
lập câu lạc bộ cho đến tổ chức các cuộc tranh biện với nhau. Do đó, dù tranh
biện là hoạt động mang lại rất nhiều mặt tích cực cho học sinh song chất lượng và
cả tính lâu dài của hoạt động này vẫn cịn tùy thuộc rất nhiều vào các thành viên
cốt cán của các câu lạc bộ. Đã đến lúc phong trào tranh biện cần được quan tâm
nhiều hơn để hướng phát triển theo chiều chất lượng và bền vững hơn. Từ đó giúp
các em có thêm nhiều cơ hội rèn luyện tư duy đa chiều, tư duy phản biện không chỉ
trong học tập mà còn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
2.3. Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học
2.3.1. Phát triển kỹ năng tranh biện là phát triển tư duy và năng lực phản biện
Lý do tư duy phản biện đứng đầu trong các lợi ích mà tranh biện đem lại –
khả năng đưa ra những lập luận hợp lý và suy nghĩ thấu đáo bên cạnh việc đặt ra
19



những câu hỏi về tính xác thực của những kết luận. Tư duy phản biện cịn giúp bạn
tìm ra chìa khóa cho những khúc mắc trong cuộc sống mà vẫn giữ được thái độ,
chuẩn mực cá nhân mình. Thậm chí nó cịn giúp bạn trở nên khiêm tốn hơn! Hãy
ghi nhớ rằng bạn không phải lúc nào cũng đúng!
2.3.2. Phát triển kỹ năng tranh biện là song hành với việc nâng cao khả năng diễn
đạt suy nghĩ của bạn
Bạn có từng cảm nhận rằng bạn không thể diễn đạt suy nghĩ của mình ra
bằng lời. Tranh biện có thể giúp bạn giải quyết vấn đề không chỉ diễn đạt đầy đủ
suy nghĩ mà củng cố lập luận để thuyết phục người nghe trong nhiều chủ đề khác
nhau: từ những phương trình tốn học phức tạp đến cốt truyện của cuốn sách yêu
thích của bạn. Tranh biện giúp bạn xác định đối tượng nghe để chọn ngơn từ giải
thích phù hợp.
2.3.3. Giữ đúng chuẩn mực
Trong bất kỳ cuộc tranh biện nào cho dù bạn cho bạn có khơng đồng ý với
quan điểm đó thì thái độ cũng vơ cùng quan trọng: hãy giữ bình tĩnh và duy trì giao
tiếp bằng ánh mắt đã được chứng minh là kỹ thuật tranh biện vô cùng hiệu quả.
Một người tranh luận tốt sẽ ghi nhớ tất cả những điều này ngoài các yếu tố cốt lõi
họ có được thơng qua giáo dục (đọc và tìm nguồn tư liệu, soạn thảo bài phát biểu,
nói một cách tự tin và biết lắng nghe) hữu ích cả trong và ngoài lớp học.
2.3.4. Trở thành người hiểu biết rộng hơn
Tranh biện khơi dậy cho bạn cảm giác mong muốn tìm tịi và khai thác lỗ
hổng trong những lập luận của người khác để tạo lợi thế phản biện lại quan điểm
đối lập. Xây dựng cho bản thân kiến thức sâu về nhiều vấn đề để trả lời những câu
hỏi và những nhận xét từ người khác là những yếu tố cần thiết để tranh biện thành
công. Việc hiểu biết sâu rộng sẽ giúp bạn luôn vững vàng trước mọi thử thách
trong cuộc sống nhất là trong những hoàn cảnh cần đưa ra quyết định nhanh chóng,
dứt khốt.
2.3.5. Giải quyết xung đột
Tranh biện giúp bạn luôn tập trung vào vấn đề mà bạn đang tranh biện,

thông qua những buổi tranh biện bạn sẽ học được cách chấp nhận sai lầm của bản
thân, điều này cũng vô cùng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Việc
học cách thua và thuyết phục được người nghe một cách lịch sự sẽ giúp xóa bỏ
những xung đột khơng đáng có trong cuộc sống.

20


2.3.6. Kiểm sốt cảm xúc của bạn
Thơng qua những buổi tranh biện sẽ giúp bạn kiểm soát cảm xúc của bản
thân tốt hơn, giúp bạn luôn sẵn sàng khi đối mặt với những thử thách khó khăn bạn
gặp phải trong cuộc sống. Kỹ năng này không dễ để thành thục nhưng có thể rèn
luyện một cách dễ dàng nhờ tranh biện.
2.3.7. Xây dựng tư duy logic cho những tình huống phức tạp
Trong tranh biện, bạn cần xây dựng bài phát biểu/phản biện của mình một
cách khoa học, logic, bài bản để thuyết phục người nghe với đối thủ. Không những
thế đây còn là kỹ năng cực kỳ quan trọng để giải quyết những vấn đề phức tạp
trong cuộc sống, phân tích vấn đề một cách thận trọng và khoa học sẽ giúp bạn
vượt qua mọi thử thách đơn giản hơn.
2.3.8. Nâng cao sự tự tin của bản thân
Khi tham gia buổi tranh biện cho dù luận điểm bạn có đúng hay sai nhưng
diễn giải và tranh biện cho quan điểm trước đám đông cũng giúp bạn mạnh dạn
hơn tự tin trong cuộc sống. Thành thục kỹ năng diễn thuyết trước đám đơng cũng
là những lợi ích mà tranh biện mang lại cho bạn, là hành trang quan trọng để thành
công hơn trong các lĩnh vực cuộc sống trong hiện tại và tương lai.
2.3.9. Mở rộng tầm nhìn của bạn
Khi tham gia tranh biện về một vấn đề mới đòi hỏi bạn phải đào sâu tìm hiểu
vấn đề từ nhiều góc nhìn khác nhau để tìm ra được lập luận phù hợp cho quan điểm
của bạn về vấn đề đó. Khi bạn tìm hiểu sâu hơn về một vấn đề bạn cũng sẽ nhận ra
nhiều kiến thức và góc nhìn mới mẻ mà trước đây bạn chưa từng thấy.

Tóm lại, tranh biện là một kỹ năng cực kỳ quan trọng trong chương trình
giáo dục. Những nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới coi đây là một nội dung
chính. Ở Việt Nam hình thức này cũng đã bắt đầu được quan tâm trong thời gian
gần đây, nhiều trường THPT trên địa bàn Hà Nội như Newton Grammar School
trong năm học 2020 – 2021 đã đưa Tranh biện trở thành một mơn học trong
chương trình giáo dục và đã xây dựng kế hoạch dạy học cho bộ môn này.
2.4. Kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018.
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, giáo dục là một nhân tố quan trọng góp
phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Luật Giáo dục Việt Nam năm 2019 đã
xác định: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có
đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng
lực và ý thức cơng dân; có lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý
21


tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo
của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.
Ngữ văn là mơn học có nhiều ưu thế giúp học sinh (HS) rèn luyện và phát
triển kỹ năng tranh biện. Thơng qua q trình tìm kiếm thơng tin, tranh biện với
bạn bè, thầy cô, các em sẽ tạo được kiến thức, kỹ năng. Sách giáo khoa Ngữ văn
10 thuộc bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” đã đáp ứng theo đúng u cầu
của Chương trình GDPT mơn Ngữ văn 2018, chú trọng mục tiêu phát triển năng
lực và phẩm chất cho người học. Đặc biệt, bộ sách đã thiết kế Hoạt động Nói và
nghe tương tác nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS về các vấn đề xã hội có
ý kiến khác nhau thơng qua hai bài học:“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn
nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác
nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ văn tập 1); kỹ năng này tiếp
tục được lặp lại và đòi hỏi vận dụng cao hơn trong chương trình học kỳ 2 với “Bài
6. Nguyễn Trãi Dành cịn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn

đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống).

22


Chương 2: Thực trạng dạy học kỹ năng tranh biện của GV Và HS trong
chương trình GDPT Ngữ văn 2018 ở trường THPT Yên Thành 2
1. Đánh giá thực trạng thơng qua các số liệu điều tra, khảo sát
Để có cái nhìn đầy đủ, chính xác về thực trạng r è n l u y ệ n kỹ năng
tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 với Bộ sách “Kết nối tri thức
với cuộc sống” thông qua bài học“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị
luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”
(Ngữ văn tập 1) chúng tơi đã tiến hành điều tra, khảo sát. Tháng 11/2022, chúng tôi
đã phát phiếu khảo sát với đối tượng là 450 học sinh khối 10 và 10 giáo viên phụ
trách môn Ngữ văn của trường THPT Yên Thành 2. Nội dung chủ yếu hỏi về nhận
thức của học sinh và giáo viên về tầm quan trọng của kỹ năng tranh biện cũng như
thực tế rèn luyện kỹ năng này tại nhà trường THPT hiện nay khi vừa mới thực hiện
xong bài học “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và
nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri
thức với cuộc sống”, Ngữ văn tập 1) của chương trình GDPT Ngữ văn 2018.
Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng là điều tra qua hệ thống câu hỏi
nhanh. Đối tượng khảo sát trả lời hoặc đánh dấu vào phương án lựa chọn.
1.1. Khảo sát, đánh giá với học sinh
Về phía học sinh, chúng tơi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu mức độ
hiểu biết và hứng thú của các em đối với hoạt động tranh biện và thông tin về thực
tế dạy học kỹ năng này qua tiết dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị
luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”
(Ngữ văn tập 1). Kết quả như sau:
Bảng 2.1.1
Câu hỏi


Số
lượng

Tỷ lệ
%

45/450

10

270/450

60

C. Bình thường

135/450

30

A. Chưa

70/450

15

B. Biết nhưng chưa hiểu rõ

255/450


58

Phương án trả lời
A. Dễ dàng

1. Khi thuyết phục người khác
B. Khó khăn
em cảm thấy thế nào?

2. Em đã từng biết đến hoạt

23


động tranh biện chưa?

C. Hiểu rõ

125/450

27

360/450

80

30/450

7


C.Là hình thức bảo vệ đến 60/450
cùng quan điểm cá nhân

13

A. Rất cần thiết

410/450

85

40/450

15

0

0

115/450

25

290/450

65

45/450


10

45/450

10

270/450

60

135/450

30

7. Khi tranh biện đã biết cách A. Chưa biết
kết hợp phương tiện ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ để tranh biện B. Đã biết
đạt hiệu quả cao?

315/450

70

45/450

10

C. Biết sơ sơ

90/450


20

A. Là hình thức tranh luận
văn minh
3. Theo em, tranh biện là hoạt
B. Bản chất là tranh cãi
động như thế nào?

4. Theo em, có cần thiết rèn
B. Cần thiết
luyện kỹ năng tranh biện cho
học sinh khơng?
C. Khơng cần thiết
A. Có
5. Chủ đề tranh biện mà GV
B. Khơng
đưa ra có hấp dẫn khơng?
C. Bình thường
6. Khi tranh biện không làm A. Không làm chủ
chủ được cảm xúc của bản
thân dẫn đến cãi lộn không có B. Có làm chủ
điểm dừng?
C. Bình thường

24


Bảng số liệu 2.1.1 cho thấy, đa số học sinh nhận thức được tầm quan trọng
của khả năng thuyết phục, đàm phán đối với thành công của mỗi người trong cuộc

sống. Tuy nhiên 60% học sinh thấy gặp khó khăn khi thuyết phục người khác đồng
tình với ý kiến của mình. Các em cảm thấy lúng túng khi trình bày quan điểm cá
nhân, đặc biệt là khi nói trước đám đông. Nhiều em đã biết đến hoạt động tranh
biện nhưng chưa hiểu rõ (68%). Nhận thức đó là một hình thức tranh luận văn
minh (80%), phần lớn các em khẳng định việc rèn luyện kỹ năng tranh biện là rất
cần thiết (85%). Tuy nhiên, khi được hỏi thêm về bản chất của tranh biện, nhiều
em còn tỏ ra mơ hồ trong phân biệt kỹ năng thuyết trình và kỹ năng tranh biện. Khi
được hỏi “Tranh biện có gì khác với thuyết trình?”, một số em cịn nhầm lẫn hoặc
đánh đồng hai kỹ năng này.
Ở câu hỏi về việc tổ chức hoạt động tranh biện trong tiết học“Bài 3. Nghệ
thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề
xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1), 75% học sinh bày tỏ mong muốn các
chủ đề tranh biện cần đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với độ tuổi và có tính thời sự để
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng như việc thể hiện
quan điểm của mình trước những vấn đề xã hội đang nổi cộm; HS chưa biết cách
lập luận như tạo luận điểm, kết hợp giữa lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục đối
phương.
Trong q trình thực hiện tranh biện Có khoảng 85% số HS không làm chủ
được cảm xúc, hành vi của bản thân dẫn đến cãi lộn, tức giận, có thái độ “hơn
thua” nên chưa đi đến thống nhất được ý kiến của hai bên; 60% số HS vẫn chưa
phát huy được hiệu quả của giá trị ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để thuyết phục được
đối phương.
1.2. Khảo sát, đánh giá đối với giáo viên
Về phía giáo viên, chúng tơi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức và
những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện rèn luyện kỹ năng tranh biện cho
học sinh qua tiết dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói
và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1) .
Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.1.2
Câu hỏi

1. Theo thầy /cơ có cần thiết rèn luyện

Phương án trả
lời
A. Rất cần thiết

Số
lượng

Tỷ lệ
%

8/10

80
25


×