Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.16 KB, 24 trang )

Những vấn đề đặt ra trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay
Mục lục
Mở đầu
Phần 1: Nhận thức chung về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
1.1Quan niệm về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước
1.2 Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
1.3 Thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước
Phần 2: Những vấn đề đặt ra trong đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện
nay
2.1Tiếp tục đổi mới, nhận thức về Đảng và Nhà
nước
2.2 Phân định rõ mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và mục tiêu hoạt động của Nhà nước
2.3 Thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước
2.4 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp, nhất là ở cấp chiến lược
2.5 Đổi mới về phong cách và lề lối làm việc của
cán bộ, đảng viên
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài


Trong hệ thống chính trị ở các nước trên thế giới
hiện nay đều có đảng và nhà nước; trong đó nhà nước
có vai trị quản lý xã hội, một hoặc vài đảng có vai trị
lãnh đạo. Trong sự lãnh đạo của đảng đối với nhà
nước, có hai phương diện quan trọng là nội dung lãnh
đạo và phương thức lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của
đảng là chủ trương của đảng về các vấn đề phát triển
của xã hội; còn phương thức lãnh đạo của đảng là cách
thức hiện thực hóa chủ trương của đảng. Để nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của đảng thì đảng khơng những cần
có nội dung lãnh đạo đúng mà cịn cần có phương thức
lãnh đạo đúng. Dù cho nội dung lãnh đạo đúng nhưng
nếu khơng có phương thức lãnh đạo đúng thì đảng
cũng khơng thể thực hiện tốt vai trị lãnh đạo đối với
nhà nước. Vì vậy, xác định đúng phương thức lãnh đạo
đối với nhà nước là việc làm quan trọng trong hoạt
động của các đảng cầm quyền.
Xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp về lý
luận, quan trọng và nhạy cảm về thực tiễn. Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng và chủ trương đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chủ trương này vẫn còn
nhiều hạn chế.
Trong những năm tới tình hình thế giới và trong
nước có nhiều biến động phức tạp với nhiều xu hướng
và vấn đề mới nảy sinh. Trước tình hình đó địi hỏi
Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo đối
với Nhà nước để nắm bắt thời cơ, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước tồn diện



đồng thời khắc phục khó khăn để đất nước phát triển
một cách bền vững.
Với những lý do trên, tôi xin chọn “Những vấn
đề đặt ra trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước hiện nay” làm đề tài tiểu luận thi kết
thúc học phần môn học Xây dựng Đảng.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Hiểu sâu, nắm vững nội dung liên
quan đến đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối
với Nhà nước, đưa ra những giải pháp để đổi mới
phương thức lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước hiện
nay.
Nhiệm vụ: khái quát nhận thức chung về đổi mới
phương thức lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước,
phân tích thực trạng thực hiện công tác này, đưa ra
những giải pháp để đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên thế giới quan phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các
quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí
Minh cùng với quan điểm của Đảng, Nhà nước về công
tác xây dựng và chỉnh đốn đảng. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: nghiên cứu tài liệu, phương pháp
tổng kết thực tiễn, so sánh, …
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo tiểu luận được cấu trúc thành hai phần:

Phần 1: Nhận thức chung về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Phần 2: Giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước hiện nay


Phần 1: Nhận thức chung về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
1.1Quan niệm về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là hệ thống các phương pháp, các hình thức, các
biện pháp mà Đảng tác động vào Nhà nước để hiện
thực hóa ý chí và mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc,
mục tiêu cao nhất của Đảng lãnh đạo Nhà nước là tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân bằng Nhà nước, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quá trình
xây dựng xã hội mới, nhằm làm cho mục tiêu của toàn
bộ sự nghiệp cách mạng nói chung, của từng thời kỳ
nói riêng được thực hiện có hiệu quả cao. Theo đó,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bị
quy định bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản
của hệ thống tổ chức nhà nước và tính chất lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phản ánh mối
quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt
mục tiêu, hay nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa chức
năng của hệ thống và cơ chế thực hiện.
1.2 Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Từ khi cầm quyền, đặc biệt là trong q trình
thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố và hoàn thiện
bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, và thực tế đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Thành tựu đó thể hiện sự phát triển, trưởng
thành của Nhà nước ta trong hoạt động quản lý và tổ
chức thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển


của tiến trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định
đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước, trong
đó có nội dung quan trọng là đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xác
định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong
điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý.
Đó là các nhiệm vụ: Thể chế hóa đường lối, chủ trương
của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể; xây dựng
chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hóa chiến lược đó
thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quản
lý hành chính - xã hội và hành chính - kinh tế; điều
hành các hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội
theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước
và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh;
kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát
hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để
khắc phục; thực hiện quy chế làm việc khoa học, có

hiệu suất cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất
lượng, với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị,
năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã
hội.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nêu rõ quan điểm cần
thiết sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ
máy hành chính, kiện tồn các cơ quan luật pháp để
thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước.
"Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền
lực, có sự phân cơng phân cấp, đồng thời bảo đảm sự
chỉ đạo thống nhất của Trung ương". "Nhà nước Việt


Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân cơng rành mạch ba quyền đó". Đại
hội VII cũng đã chủ trương cải tiến tổ chức và hoạt
động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sửa đổi cơ
cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ,
coi trọng bàn bạc tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm
và quyền hạn cá nhân của người đứng đầu Chính phủ,
đứng đầu bộ, ngành trong quản lý và điều hành. Tăng
cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi
mới hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp và Tịa án nhân dân các cấp.
Theo đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2
(12-1991), khóa VII, nhấn mạnh: "Đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng

nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất
lượng và có hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản
lý và điều hành của nhà nước có hiệu quả, pháp luật
được tơn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy". Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không làm thay
Nhà nước. Cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, ngày 15-41992, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp sửa
đổi, quy định những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (1-1995),
khóa VII, chủ trương tiếp tục xây dựng và hồn thiện
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng
tâm là cải cách một bước nền hành chính. "Tăng cường


pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa"
Nghị quyết Trung ương 3 (6-1997), khóa VIII,
đã khẳng định những thành tựu quan trọng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những đổi
mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, để vừa bảo đảm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ

động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trước thực
tế là tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề và chưa
thật sự trong sạch, vững mạnh; sự lãnh đạo của Đảng
chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức,
hoạt động của Nhà nước, Nghị quyết đã đề ra yêu cầu
là cần nắm vững và thực hiện tốt ba nội dung trọng yếu
về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể
chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật.
- Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ
máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng
viên trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (năm 1999),
khóa VIII, chủ trương tiếp tục hồn thiện bộ máy nhà
nước trong tổng thể bộ máy của hệ thống chính trị. Coi
cải cách hành chính là nhiệm vụ thường xuyên, ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác cải cách hành
chính.


Kết quả là, đã giảm dần sự can thiệp trực tiếp
của các cơ quan đảng đối với Nhà nước; khắc phục
phong cách hoạt động theo kiểu quan liêu, nặng về
mệnh lệnh hành chính, xem nhẹ sự thuyết phục, giáo
dục, nêu gương, kiểm tra của tổ chức đảng; cán bộ
đảng bị cơng chức hóa...; từng bước quy chế hóa mối

quan hệ lãnh đạo của các cơ quan đảng đối với các cơ
quan nhà nước tương ứng; từng bước dân chủ hóa mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Nêu cao vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng việc đưa ra
cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, chủ trương
và chính sách lớn về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc
phịng, an ninh... Chú trọng việc kiện tồn các tổ chức
đảng và giáo dục, rèn luyện đảng viên trong các cơ
quan nhà nước, tăng cường đào tạo cán bộ nhà nước...
Đồng thời về phía Nhà nước cũng đã hạn chế
dần, đi tới khắc phục tình trạng quản lý xơ cứng, giảm
tính thụ động, ỷ lại vào cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Các tổ chức trong hệ thống bộ máy nhà nước đã được
kiện toàn, củng cố và từng bước thực hiện tốt hơn chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội
dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước: "Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề
ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định
hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước...".
Việc khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng (Văn kiện Đại hội IX của Đảng
và Điều 2, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm
1992 sửa đổi, bổ sung) đã thể hiện bước phát triển mới


về quan điểm chính trị của Đảng ta; đồng thời cũng là

sự đổi mới có tính ngun tắc trong quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói
riêng. Nó đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục hồn chỉnh
cả về phía Đảng và cả phía Nhà nước.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X của Đảng nêu rõ: "Khẩn trương xây dựng, hoàn
thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc,
nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước
trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và
từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước". Đó chính
là sự đổi mới nhằm phát triển và tiếp tục hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội Đảng XI tiếp tục tinh thần của các đại
hội trước khi nhấn mạnh: “Khắc phục tình trạng bao
biện, làm thay hoặc bng lỏng lãnh đạo của Đảng với
các cơ quan nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung
vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng; đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng”.
Văn kiện Đại hội Đảng XII viết: “Nâng cao hiệu
quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc
biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng
các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa
các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách


và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới,
nâng cao chất lượng luật pháp, cải cách hành chính và
cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên
phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”;
“Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp
ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp”
1.3 Thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước
1.3.1 Những kết quả đạt được
Sau gần hơn 30 năm đổi mới, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có nhiều bước tiến
quan trọng: Có sự phân định ngày càng rõ hơn chức
năng lãnh đạo của Đảng với chức năng điều hành, quản
lý của Nhà nước. Cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” đang được cụ thể hóa bằng
các quy định pháp luật. Năng lực thể chế hoá đường lối
của Đảng thành các quy định có tính pháp lý và tổ chức
thực hiện có hiệu quả nhằm bảo đảm vai trị lãnh đạo
của Đảng và quyền lực thực sự thuộc về nhân dân từng
bước được nâng cao. Để phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Đảng tập trung vào việc xây
dựng đường lối chính trị, nâng cao tính khoa học, tính
thực tiễn và tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi để Nhà
nước thể chế và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Coi
trọng tự đổi mới, quy chế hoá, thể chế hoá mối quan hệ

giữa các cơ quan trong bộ máy của Đảng (Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư);
giữa bộ máy của Đảng với Quốc hội, với Chính phủ,
với Mặt trận TQVN, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong
quá trình hoạt động. Đảng không làm thay, không can
thiệp vào công việc điều hành, quản lý của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng trong phân công và phối hợp


giữa các cơ quan Nhà nước thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Cơng tác cán bộ trong bộ máy Nhà nước có
nhiều đổi mới, từng bước góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế...
Nhận định về thành tựu trong đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng XI
khẳng định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa
phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy
dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ
trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí
thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ
quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục
được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân
dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát”. Thành
tựu trong thực hiện chủ trương của Đảng (về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước) là
rất lớn. Bởi vì, so với thời kỳ trước đổi mới, tình trạng

Đảng bao biện, làm thay các cơ quan nhà nước đã giảm
bớt; việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ
quan Đảng và một số cơ quan nhà nước đã được quy
trình hóa, quy chế hóa. Ví dụ, nếu trước đây Quốc hội
chủ yếu hợp thức hóa các chủ trương của Đảng thành
quy phạm pháp luật của Nhà nước, thì hiện nay ở nhiều
vấn đề, Bộ Chính trị không quyết định trước mà chỉ
cho phương hướng để Quốc hội giải quyết (thậm chí có
những vấn đề Bộ Chính trị cũng phải thay đổi khi
Quốc hội có quyết định khác, nghĩa là Quốc hội càng
ngày càng có thực quyền hơn). Các cấp uỷ Đảng giảm
bớt sự áp đặt một cách không cần thiết vào công việc


của cơ quan nhà nước (không quyết định các chỉ tiêu,
biện pháp cụ thể; các cơ quan nhà nước tự quyết định
phương án, biện pháp tiến hành). Sinh hoạt của Quốc
hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân các cấp giảm bớt tính thụ động (tính thụ động này
biểu hiện ở chỗ chỉ bày tỏ sự nhất trí với chủ trương
của Đảng). Đối với khơng ít vấn đề, tuy cấp uỷ Đảng
đã dự kiến nhưng các cơ quan nhà nước vẫn bổ sung
thêm những giải pháp mới hoặc điều chỉnh một số chỉ
tiêu; các cán bộ nhà nước được bầu và bổ nhiệm theo
đúng quy định của Nhà nước
1.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập: Việc phân
định về chức năng, nhiệm vụ; về thẩm quyền, trách
nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành giữa

cơ quan Đảng và Nhà nước còn chưa cụ thể, rõ
ràng. Đối với Quốc hội, việc bầu và phê duyệt các chức
danh cấp cao của Nhà nước chưa được đổi mới theo
hướng mở rộng dân chủ, có nhiều ứng cử viên hơn thay
vì chỉ đưa ra một ứng cử viên duy nhất dẫn tới quyền
lựa chọn của Quốc hội sẽ bị hạn chế, việc bầu cử của
Quốc hội trong các trường hợp này dường như chỉ
mang tính hình thức. Việc thơng tin cho Quốc hội
trong khơng ít trường hợp chưa thật sự cởi mở. Vì thế,
nhiều khi Quốc hội cũng gặp khó khăn khi quyết định
một số vấn đề quan trọng của đất nước. Đối với Chính
phủ, nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý cán bộ cần được cụ thể hóa, cần có một
chế độ trách nhiệm rõ ràng cho Ban Cán sự đảng và
người đứng đầu các cơ quan Chính phủ trong quản lý,
sử dụng cán bộ. Quyền và trách nhiệm của Thủ tướng
Chính phủ trong việc lựa chọn, bổ nhiệm chủ tịch và


phó chủ tịch UBND các tỉnh chưa thật rõ. Sự lãnh đạo
của cấp uỷ đảng địa phương với các cơ quan tư
pháp trong một số trường hợp chưa được đúng đắn,
dẫn đến cơ quan tư pháp không phát huy được hiệu quả
hoặc thậm chí thực hiện sai chức năng, nhiệm vụ mà
pháp luật quy định. Nhiều chủ trương quan trọng của
Chiến lược cải cách tư pháp chưa được nhận thức
thống nhất, thông suốt. Một số nội dung cải cách tư
pháp chưa được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thống
nhất, chưa tạo ra được sự đồng thuận. Hoạt động giám
sát của một số cơ quan dân cử địa phương đối với cơng

tác tư pháp vẫn cịn mang tính hình thức. Đối với chính
quyền địa phương, phân cấp, phân quyền chưa cụ thể.
Quyền hạn, trách nhiệm chỉ đạo, quản lý của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với chính quyền địa
phương cịn chồng chéo. Chức năng, nhiệm vụ của các
bộ phận trong bộ máy chính quyền địa phương chưa
được xác định rõ. Cơng tác cán bộ chưa tạo được
những chuyển biến tích cực. Đội ngũ cán bộ chưa
ngang tầm nhiệm vụ. Đáng lo ngại là “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ nguyên tắc...”
như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay nêu, đã và đang
làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là thách thức đối
với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế
độ.


Tình trạng tổ chức đảng bao biện, làm thay hoặc
bng lỏng lãnh đạo chính quyền, khơng phát huy
được vai trị lãnh đạo, thậm chí bị cơ quan chính quyền
lấn sân vẫn còn khá phổ biến. Nhiều cấp ủy và tổ chức
đảng chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng quy
chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong
tổ chức đảng, giữa tổ chức đảng với chính quyền, với

mặt trận. Nhiều nơi vẫn thiên về lãnh đạo bằng nghị
quyết, chưa coi trọng khâu tổ chức thực hiện nghị
quyết và công tác kiểm tra. Cách thức điều hành chủ
yếu bằng hội họp dẫn tới nhiều chủ trương, đường lối
của Đảng chậm hoặc không được tổ chức triển khai kịp
thời, có hiệu quả trong thực tiễn.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước luôn là một vấn đề lớn, khó và phức tạp bởi
nó gắn chặt với một đối tượng lãnh đạo ln biến đổi.
Có nhiều ngun nhân dẫn tới tình trạng trên.
Thứ nhất, khơng phân biệt rõ phương thức lãnh
đạo của Đảng với phương thức quản lý của Nhà nước
(đồng nhất chức năng lãnh đạo của Đảng với chức
năng quản lý của Nhà nước, đồng nhất chủ trương của
Đảng với pháp luật của Nhà nước). Xét về nội dung,
mọi quy định pháp luật do Nhà nước ban hành đều là
cụ thể hóa chủ trương của Đảng. Nếu Đảng không
đồng ý một quy định pháp luật nào đó thì quy định
pháp luật ấy khơng thể được Nhà nước thơng qua. Vì
thế, thành cơng của Nhà nước cũng là thành công của
Đảng; khuyết điểm của Nhà nước cũng là khuyết điểm
của Đảng. Tuy vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng
khác với phương thức quản lý của Nhà nước. Chủ thể
ra quyết định quản lý là các cơ quan của Nhà nước.
Chủ thể ra quyết định lãnh đạo là các cơ quan của
Đảng. Đối tượng thực hiện quyết định quản lý của Nhà


nước là công dân. Đối tượng thực hiện quyết định lãnh
đạo của Đảng là đảng viên. Cách thức tổ chức thực

hiện quyết định quản lý của Nhà nước là bắt buộc công
dân. Cách thức tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo
của Đảng là thuyết phục (không cưỡng bức) đảng viên
(vì đảng viên tự nguyện thực hiện quyết định lãnh đạo
của Đảng, nếu đảng viên nào không thực hiện quyết
định lãnh đạo của Đảng thì đảng viên đó sẽ bị Đảng kỷ
luật với hình thức cao nhất là khai trừ khỏi Đảng).
Thứ hai, đồng nhất quyết định của Đảng với
quyết định của Nhà nước, từ đó áp dụng quyết định của
Đảng cho mọi cơng dân ngay cả khi nó chưa được cơ
quan Nhà nước thảo luận và thông qua để trở thành
pháp luật. Dù cho quyết định của Đảng sớm hay muộn
cũng sẽ được cơ quan nhà nước thảo luận và thông qua
thành pháp luật của Nhà nước, nhưng khi quyết định
của Đảng chưa được cơ quan nhà nước thảo luận và
thơng qua thì các cơng dân khơng phải đảng viên
khơng có trách nhiệm thực hiện quyết định của Đảng.
Thứ ba, đề cao vai trò và quyền lực của chức
danh lãnh đạo Đảng các cấp hơn vai trò và quyền lực
của chức danh lãnh đạo cơ quan nhà nước cấp tương
ứng (trong việc giải quyết các vấn đề của xã hội). Xét
về lý thuyết, một đảng viên (dù đó là đảng viên giữ
chức vụ cao trong Đảng) nếu không kiêm một chức vụ
nào trong cơ quan nhà nước thì khơng có trách nhiệm
giải quyết trực tiếp các cơng việc thuộc thẩm quyền
của cơ quan Nhà nước (cán bộ Đảng có thể giải quyết
các công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước
một cách gián tiếp thông qua đảng viên trong cơ quan
nhà nước). Tuy nhiên, một số người lại đề cao vai trò



và quyền lực của chức danh lãnh đạo Đảng các cấp hơn
vai trò và quyền lực của chức danh quản lý cơ quan
nhà nước cấp tương ứng. Đối với một số việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan nhà nước
nhưng khi cần chỉ đạo giải quyết thì họ lại xin ý kiến
chỉ đạo trực tiếp của bí thư cấp ủy, chứ không cần xin
ý kiến chỉ đạo trực tiếp của chính quyền.
Phần 2: Những vấn đề đặt ra trong đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện
nay
2.1Tiếp tục đổi mới, nhận thức về Đảng và Nhà
nước
Sự khác nhau đó quy định những điểm khác biệt
về chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phương pháp
hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng với các
tổ chức, đồn thể chính trị - xã hội khác. Nếu khơng
phân biệt rõ ràng, thấu đáo những khác biệt đó và đặc
biệt là không kiên quyết, mạnh dạn chuyển biến từ đổi
mới nhận thức sang đổi mới tổ chức và hoạt động của
Đảng và cả Nhà nước thì khơng tránh khỏi tình trạng
đã xảy ra là "Nhà nước hóa Đảng" và "hình thức hóa
Nhà nước" làm cho Đảng trở nên hành chính hóa, quan
liêu hóa kiểu nhà nước và Nhà nước thì khơng có thực
quyền, vừa thụ động vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý.
Thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng phải được thể
hiện ở sức mạnh, hiệu lực thực tế của Nhà nước. Để
quản lý, Nhà nước buộc phải dùng đến sức mạnh của
tổ chức và hành chính cũng như sức mạnh cưỡng chế
của luật pháp.

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, nghị
quyết, bằng công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra việc
Nhà nước thực hiện chấp hành đường lối, nghị quyết


như thế nào, thông qua tổ chức đảng trong các cơ quan
nhà nước và thông qua các cơ quan chuyên trách của
hệ thống đảng. Là lực lượng lãnh đạo chính trị, Đảng
quyết định những vấn đề chính trị thuộc về chiến lược
phát triển, về đường lối, chủ trương, quan điểm,
nguyên tắc đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước
nhưng Nhà nước lại tổ chức quyền lực, thực thi vai trò,
chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật. Do đó, Đảng khơng can thiệp sâu vào hoạt động
quản lý của các cơ quan nhà nước có tính chất đặc thù
của khoa học quản lý. Đảng cũng không thể lấn sân,
bao biện, làm thay những công việc của chính quyền
các cấp trong hệ thống quản lý hành chính... Điều đó
chẳng những khơng hạ thấp và làm suy giảm vai trò
lãnh đạo của Đảng, mà trái lại, còn làm tăng thêm sức
mạnh bảo vệ và tự bảo vệ của Đảng, tránh cho Đảng
rơi vào tình trạng độc đoán, lạm quyền, vi phạm pháp
luật và vi phạm dân chủ.
2.2 Phân định rõ mục tiêu lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và mục tiêu hoạt động của Nhà nước
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là
phát huy vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hóa,
tổ chức thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ đạo
của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phịng, đối ngoại. Mục tiêu quản lý của

Nhà nước là biến toàn bộ quan điểm chỉ đạo của Đảng
trên các phương diện tương ứng nói trên trở thành hiện
thực.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý
của Nhà nước có nội dung tương tự như nhau, nhưng
nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục
tiêu đó lại có nhiều điểm khác nhau. Điều đó được bộc


lộ ở sự khác biệt giữa nhiệm vụ của Đảng với nhiệm vụ
của Nhà nước. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng
đề ra các chủ trương, đường lối, quan điểm có tính
chiến lược và lãnh đạo việc tun truyền, cổ động quần
chúng thực hiện; mặt khác, Đảng lãnh đạo các cơ quan
nhà nước thể chế hóa, tổ chức thực hiện các đường lối,
chủ trương, quan điểm, chính sách đó. Đảng không
trực tiếp giải quyết các công việc của Nhà nước
Nhà nước bằng quyền lực của mình có nhiệm vụ
"bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về
mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng
đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện".
2.3 Thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước
Trong quan hệ quyền lực chính trị giữa Đảng với
Quốc hội, Chính phủ, vấn đề lớn hiện nay là nghiên
cứu, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa

Đảng với Quốc hội, Chính phủ để giải quyết tốt mối
quan hệ giữa lãnh đạo (định hướng về nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo; bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực
tiếp, tuyệt đối) và chỉ đạo, thực hiện (quyền quyết định,
quản lý, điều hành) về những vấn đề trọng đại nhất của
đất nước như kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phịng, nhân sự cấp cao... Cụ thể:
Đối với Quốc hội. Để Quốc hội trở thành một cơ
quan có thực quyền, cần bố trí lại cơ cấu nhân sự của
Quốc hội. Trong các quyết định phê chuẩn nhân sự cấp
cao, Bộ Chính trị và Ban Bí thư nên đưa ra nhiều
phương án nhân sự khác nhau để Quốc hội rộng đường
lựa chọn. Trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, có


thể thành lập một Hội đồng tư vấn lập pháp (hay chính
sách). Hội đồng có chức năng tư vấn cho Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về các vấn đề liên quan đến hoạt động lập
pháp, chính sách của Quốc hội. Thể chế hoá sự lãnh
đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các đạo luật nhằm
bảo đảm cho các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội cần được
tổ chức lại theo hướng chuyên nghiệp bằng việc tăng
số đại biểu chuyên trách, chỉ một bộ phận nhỏ là kiêm
nhiệm. Các ủy ban của Quốc hội tổ chức theo hướng
chuyên sâu, đảm nhiệm tốt việc chuẩn bị, thảo luận và
thông qua các đạo luật trong phạm vi lĩnh vực phụ
trách, các phiên họp toàn thể chủ yếu là cân nhắc về
mặt chính trị và biểu quyết thơng qua.
Đối với Chính phủ. Nhất thể hố một số chức

danh, một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng
và Chính phủ để tạo điều kiện cho bộ máy hoạt động
một cách thống nhất, thông suốt, hiệu quả. Trong khi
nghiên cứu việc nhất thể hoá một số chức danh lãnh
đạo cấp cao, một số tổ chức, cơ quan tham mưu, giúp
việc, cần làm tốt việc tổng kết chủ trương nhất thể hoá
một số chức danh lãnh đạo ở cấp huyện, xã và tương
đương, đồng thời đổi mới, hồn thiện thể chế, cơ chế
kiểm sốt quyền lực phù hợp theo Hiến pháp 2013.
Cần nghiên cứu, tổ chức lại mơ hình Ban Cán sự đảng
phù hợp với đổi mới về tổ chức bộ máy và công tác cán
bộ của Chính phủ.
Đối với các cơ quan tư pháp. Trong điều kiện
một đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với
các nhánh quyền lực Nhà nước, trong đó có tư pháp. Vì
vậy, cần thể chế hố sự lãnh đạo của Đảng đối với các
cơ quan tư pháp thành các điều luật, quy phạm pháp
luật để tránh sự lãnh đạo, chỉ đạo mang tính chủ quan,


tùy tiện của cấp uỷ đảng các cấp. Cần quy định rõ ràng
và cụ thể: Việc gì cần xin ý kiến cấp uỷ, việc gì cấp uỷ
khơng cần can thiệp? Trách nhiệm chính trị và trách
nhiệm pháp lý của cấp uỷ đến đâu khi tham gia vào
quá trình xét xử?... Khắc phục sự can thiệp, cho ý kiến
trực tiếp hay gián tiếp của cấp uỷ vào hoạt động của cơ
quan tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN khẳng
định vị thế vơ cùng quan trọng của cơ quan tư pháp. Vì
vậy, cần cơ cấu Chánh án Toà án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân trong cơ cấu BCH đảng

bộ các cấp; coi trọng xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ ngành tư pháp.
2.4 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp, nhất là ở cấp chiến lược
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, trước hết cần có đội ngũ cán bộ có trình độ
cao, phong cách tốt. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới tư
duy, cách làm, khắc phục có hiệu quả những bất cập,
hạn chế, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đánh giá, quản
lý cán bộ. Cụ thể hố vai trị, quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu trong cơng tác cán bộ. Hồn thiện
chế độ bầu cử, mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới
thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn. Hoàn thiện
cơ chế tuyển chọn cán bộ, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm; cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia
giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Kết hợp giữa quy
hoạch cán bộ với thi tuyển cán bộ vào các chức danh
lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ ở các tỉnh, thành phố, các
bộ, ngành ở Trung ương... Đặc biệt, chú trọng nâng cao
chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ và mặt trận là yếu tố quyết



×