Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện quảng trạch, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.62 KB, 57 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân được Đảng và Nhà nước ta xác định
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện
thành công sự nghiệp này trước hết cần xây dựng một CCKT, CCLĐ hợp lý. Do đó
CDCCLĐ là một trong những nội dung cơ bản của đường lối phát triển kinh tế do
Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo, nhằm đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH
đất nước và tạo điều kiện cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày
càng có hiệu quả.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, CCLĐ ở nước ta đã có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
lạm phát được đẩy lùi… Tuy nhiên, quá trình CDCCLĐ ở nước ta diễn ra còn chậm,
chưa đáp ứng được nhu cầu đề ra. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì việc CDCCLĐ đóng vai trò
quan trọng cần được nghiên cứu.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đất nước nói chung và của
huyện Phú Ninh nói riêng nên em đã chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động ở
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH cho đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đề
cập và tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau. Nhưng trên địa bàn huyện Quảng Trạch
hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về đề tài này dưới dạng luận văn khoa
học nhằm phân tích và đánh giá đúng thực trạng quá trình CDCCLĐ để từ đó đưa ra
các giải pháp mang tính thiết thực, thúc đẩy quá trình CDCCLĐ đáp ứng nhu cầu
CNH, HĐH của huyện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: làm rõ vị trí, vai trò, tiềm năng và thực trạng của CDCCLĐ ở huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng,
giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CDCCLĐ trên địa bàn huyện trong thời gian tới.
1
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về CDCCLĐ trong tiến trình


CNH, HĐH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CDCCLĐ trên địa bàn huyện Quảng
Trach, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2009-2013
- Đề xuất định hướng và những giải pháp khả thi nhằm đẩy nhanh CDCCLĐ ở
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là CDCCLĐ trên địa bàn huyện Quảng Trạch,
tỉnh Quảng Bình theo hướng CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Về không gian: Địa bàn huyện Quảng Trạch
+ Về thời gian: Giai đoạn 2009-2913
+ Về nội dung: Các nội dung chủ yếu của CCLĐ và CDCCLĐ theo hướng
CNH, HĐH.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thành đề tài này ngoài phương pháp chung là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tác giả còn sử dụng các phương
pháp cụ thể như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch,
phương pháp thu thập và so sánh số liệu.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về CCLĐ, CDCCLĐ, khẳng định
những xu hướng của quá trình CDCCLĐ trong tiến trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
- Đề tài này đã phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CDCCLĐ trên địa bàn huyện
Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình. Từ đó xây dựng phương hướng tiến hành CDCCLĐ phù
hợp với đặc điểm tự nhiên, KT - XH cũng như trình độ phát triển của huyện.
- Ngoài ra, đề tài còn có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm nghiên cứu vấn đề này, nhất là sinh viên ngành kinh tế chính trị.
2
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài có 3 chương
gồm 52 trang, 9 bảng và 6 biểu.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về CDCCLĐ
Chương 2: Thực trạng CDCCLĐ trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy CDCCLĐ theo
hướng CNH, HĐH ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU LAO ĐỘNG
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm về cơ cấu lao động
1.1.1. Khái niệm về cơ cấu lao động
LĐ bao giờ cũng là nguồn gốc của mọi của cải, là hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người nhằm tạo ra của cải để phục vụ cho con người và xã hội. Ở mọi
lúc, mọi nơi người ta đều tìm cách sử dụng có hiệu quả và hợp lý nguồn LĐ.
CCLĐ là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện tỷ lệ của từng bộ phận LĐ nào
đó chiếm trong tổng số, hoặc thể hiện sự so sánh của bộ phận LĐ này so với bộ phận
LĐ khác.
Hoặc, CCLĐ là một phạm trù kinh tế, phản ánh hình thức cấu tạo bên trong của
tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận
đó. Đặc trưng của CCLĐ là mối quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng và chất lượng LĐ theo
các tiêu chí nhất định.
Cũng có quan niệm cho rằng: CCLĐ là tổng thể các mối quan hệ tương tác giữa
các bộ phận LĐ trong tổng nguồn LĐXH và được biểu hiện thông qua những tỷ lệ
nhất định
1.1.2 Vị trí của chuyển dịch cơ cấu lao động
1.1.2.1 Sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu lao động
CDCCLĐ là sự thay đổi tăng, giảm trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu hướng vận
động của từng bộ phận trong tổng số lao động, trong một không gian, khoảng thời gian
và theo một chiều hướng nhất định.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước việc xác định chất lượng LĐ là vấn đề hết

sức cấp thiết và quan trọng. CNH, HĐH đất nước là đưa đất nước từ tình trạng lạc hậu
với nền kinh tế tự cung tự cấp, dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế mở
với thế mạnh là công nghiệp và dịch vụ. Để thực hiện được cần phải có một đội ngũ
LĐ với trình độ chuyên môn cao, do đó cần thực hiện chuyển dịch cơ cấu chất lượng
4
lao động, nâng cao trình độ chuyên môn cho người LĐ là vấn đề hàng đầu cần được sự
định hướng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhà nước. Muốn CDCCLĐ thì cần
có những điều kiện nhất định.
Tiền đề cần thiết để CDCCLĐ:
Thứ nhất, năng suất LĐ trong nông nghiệp cao, bảo toàn được an ninh lương
thực, có tích lũy trong nông nghiệp.
Năng suất LĐ là kết quả, hiệu suất của lao động cụ thể, nó được đo bằng số
lượng giá trị sử dụng, được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay bằng lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm LĐ. Mức tăng năng suất LĐ là chỉ tiêu
quan trọng nhất nói lên tính chất tiến bộ của một phương thức tiến bộ của lực lượng
sản xuất. Nâng cao năng suất lao động có nghĩa là tiết kiệm lao động sống và lao động
vật hóa, tức là giảm bớt thời gian xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản hàng
hóa; hạ thấp giá trị cá biệt của nó. Đồng thời, tỷ lệ hao phí lao động sống giảm đi, còn
tỷ lệ hao phí lao động quá khứ thì tăng lên một cách tương đối, nhưng tăng ở mức như
thế nào để tổng số lao động hao phí chứa trong hàng hóa giảm xuống.
Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp luôn giữ vai trò quan trọng cung cấp
lương thực, thực phẩm, nhân lực và các nguồn lực khác cho các ngành công nghiệp và
dịch vụ, đảm bảo nguồn tiết kiệm trong nước và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc
gia. Vì thế, khi năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên, hao phí lao động trong
nông nghiệp giảm thì cả số lượng lao động và thời gian lao động thực tế giảm, dẫn đến
một bộ phận lao động thiếu việc làm trong khu vực nông nghiệp được thu hút vào khu
vực công nghiệp, dịch vụ.
Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp là cơ sở để tích lũy nguồn vốn cho CNH,
HĐH. Việc giải quyết đủ nhu cầu lương thực trong nước và có tích lũy chính là nền
tảng quan trọng nhất cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy

CDCCKT và CDCCLĐ ở nông thôn. Bên cạnh đó, nông nghiệp cũng là nhân tố chính
đóng góp vào sự phát triển kinh tế và giảm nghèo đói ở nông thôn. Cách thức hiệu quả
nhất để đạt được hai mục tiêu này chỉ có thể là nâng cao năng suất LĐ nông nghiệp.
Thứ hai, năng suất và thu nhập trong công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông
nghiệp nhằm thu hút LĐ từ ngành nông nghiệp sang các ngành này.
5
Đây là tiền đề cơ bản của sự PCLĐ xã hội. Năng suất và thu nhập là hai yếu tố
tiên quyết cho quá trình CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH và sản xuất hàng hóa lớn.
Các nhà khoa học cho rằng sự chênh lệch về thu nhập giữa LĐ ở các khu công nghiệp,
các nhà máy với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp là lý do cơ bản của sự CDCCLĐ.
Ở nước ta, mặc dù GDP khu vực nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay tăng
nhanh nhưng tốc độ thu nhận lao động lai có xu hướng giảm dần. Nguyên nhân là do
năng suất lao động trong khu vực này thấp hơn nhiều so với khu vực công nghiệp và
dịch vụ. Khoảng cách về năng suất lao động giữa ngành nông nghiệp và các ngành
công nghiệp, dịch vụ càng lớn chứng tỏ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt
động hạn chế hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác. Năng suất lao động, mức tăng
trưởng lĩnh vực nông nghiệp thấp hơn và tất yếu thu nhập của lao động cũng thấp hơn
nhiều so với lĩnh vực phi nông nghiệp và khoảng chênh lệch đó là ngày càng lớn.
1.1.2.2 Quan điểm của Đảng ta về chuyển dịch cơ cấu lao động
Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mối liên hệ biện chứng giữa quy mô và
CCKT, CCLĐ có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng phản ảnh cả hai mặt số lượng và chất
lượng của sự phát triển trong một tổng thể thống nhất và chúng cần được nhận thức
theo bản chất vận động và phát triển để phục vụ việc hoạch định chính sách và chỉ đạo
thực hiện.
Từ quan điểm còn đơn giản về công nghiệp hóa

những năm 1960, khi tiến hành
công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế, thật sự tôn
trọng các quy luật kinh tế khách quan. Thực tiễn trải qua các Đại hội Đảng, các quan
điểm về CDCCKT, CCLĐ ngày một hoàn thiện.

Trong Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng (1996) đã nêu nhiệm vụ công nghiệp
hóa, gắn phát triển và chuyển dịch cơ cấu GDP và CCLĐ. Tại Đại hội, lần đầu tiên đã
nêu ra cụ thể nhiệm vụ về chuyển đổi cơ cấu GDP và CCLĐ trong thời kỳ công nghiệp
hóa. Đây là vấn đề quan trọng khi Việt Nam là một nước nông nghiệp tiến hành công
nghiệp hóa với đại bộ phận là LĐ ở nông thôn và khoảng 60% làm nông, lâm, ngư
nghiệp. Đại hội đã nêu ra nhiệm vụ cụ thể về chuyển dịch cơ cấu GDP và CCLĐ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là “…công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ
trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội”.
6
Cũng từ Đại hội này, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn được đặt
ra và đã được nêu thành mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu là giảm tỷ trọng LĐ thuần
nông, có năng suất thấp sang LĐ trong các ngành công nghiệp và dịch vụ năng suất
cao hơn. Một bộ phận có thể chuyển ra thành thị và một bộ phận khác tuy tiếp tục ở
nông thôn nhưng chuyển sang làm các ngành nghề phi nông nghiệp khác. Như vậy,
khái niệm CDCCKT từng bước đã được quan niệm tổng hợp hơn, cả về kinh tế, phân
bố LĐ và sử dụng vốn đầu tư.
Tại Đại hội IX, vấn đề CDCCLĐ được đề cập trong mục tiêu tổng quát của kế
hoạch 5 năm 2001 – 2005 là : “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ”
Và cũng tại Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001), lần đầu tiên, CDCCLĐ được
đưa vào như một mục tiêu quan trọng của vấn đề CDCCKT: “Năm 2010, chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn
khoảng 50%”
Đến Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) nêu mục tiêu: “chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% vào
năm 2010. Tăng tỷ trọng lao động công nghiệp - xây dựng và đặc biệt lao động ở khu
vực dịch vụ trong tổng lao động xã hội”.
1.1.3 Nội dung của cơ cấu lao động
CCLĐ có nội dung đa dạng và được chia theo nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy

nhiên, CCLĐ thường được dùng phổ biến là: CCLĐ chia theo ngành kinh tế; CCLĐ
phân theo thành thị, nông thôn; CCLĐ chia theo giới tính, độ tuổi; CCLĐ chia theo
trình độ học vấn; CCLĐ chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật; CCLĐ chia theo loại
hình sở hữu.
 Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế:
Gắn với quá trình PCLĐ xã hội, nền sản xuất và LĐXH thường được phân chia
thành ba nhóm ngành lớn là: nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp), công nghiệp (công
nghiệp và xây dựng), dịch vụ (thương mại và du lịch, dịch vụ).
7
Theo xu hướng chung của toàn thế giới, tỷ trọng lực lượng LĐ trong nhóm ngành
nông nghiệp sẽ giảm mạnh và chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong GDP, trong khi đó tỷ
trọng LĐ trong nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên, đặc biệt là nhóm
ngành dịch vụ sẽ tăng với tốc độ cao nhất và chiếm tỷ trọng chi phối từ 60 – 70%
trong GDP quốc gia.
 Cơ cấu lao động chia theo khu vực thành thị, nông thôn:
Quá trình tăng trưởng và phát triển của các ngành kinh tế tất yếu dẫn đến quá
trình phân hóa, tập trung hóa và chuyên môn hóa lao động. Cùng với quá trình CNH,
HĐH, các khu công nghiệp mới, các vùng chuyên canh nông nghiệp mới, các thành
phố thị trấn mới dần mọc lên và mở rộng phạm vi hoạt động, dẫn tới sự chuyển dịch
và thay đổi rõ rệt cơ cấu nguồn LĐ giữa các vùng, địa phương, khu vực… đặc biệt là
giữa thành thị và nông thôn.
Thường thì khu vực thành thị có nhiều nhà máy xí nghiệp, công ty, kinh tế - xã
hội phát triển nên cuộc sống cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm lớn. Vì vậy, ở khu vực
thành thị thu hút được rất nhiều LĐ đến. Khu vực nông thôn thì ngược lại.
 Cơ cấu lao động chia theo nhóm tuổi:
Ở mỗi độ tuổi khác nhau sức khỏe, trí lực khác nhau theo đó khả năng LĐ sẽ khác
nhau. Vì vậy, khi xem xét về khả năng và hiệu suất lao động, các chuyên gia đặc biệt
quan tâm đến lứa tuổi của các nhóm LĐ khác nhau, trong đó lực lượng LĐ trẻ (nằm
trong độ tuổi 15 – 34) trong lực lượng LĐ người ta phân ra các nhóm luôn được đánh
giá là lực lượng nòng cốt và kế cận có khả năng phát huy sức mạnh sáng tạo, làm tăng

năng suất LĐXH. Có nhiều cách chia như: LĐ trong độ tuổi, LĐ ngoài độ tuổi… hoặc
người ta chia theo nhóm tuổi: nhóm từ 15 – 34 tuổi (lực lượng LĐ trẻ), nhóm từ 35 – 54
tuổi (lực lượng LĐ trung niên, nhóm từ 55 tuổi trở lên (lực lượng LĐ cao tuổi).
 Cơ cấu lao động chia theo trình độ học vấn:
Trình độ học vấn thể hiện được sự hiểu biết của con người, nền văn hóa văn
minh của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Trình độ học vấn là tiền đề để con người đi vào
tìm hiểu và khám phá lĩnh vực khác như khoa học, văn hóa nghệ thuật…
Ở nước ta, trình độ học vấn được chia như sau: cấp I, cấp II, cấp III. Ngày nay,
khoa học luôn luôn thay đổi, để có thể tìm được việc làm dễ dàng thì người LĐ cần
8
phải có kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, nhưng nền tảng của nó lại là một trình độ
học vấn nhất định.
Nhìn chung cả nước trình độ học vấn của lực lượng LĐ ngày càng được nâng
cao. Biểu hiện rõ nét là tỷ lệ người chưa tốt nghiệp cấp I không ngừng giảm xuống.
Trong khi đó, tỷ lệ người tốt nghiệp cấp II, cấp III ngày càng tăng lên, trong đó nhanh
nhất là số người tốt nghiệp cấp III. Đây có thể nói là kết quả cố gắng của Đảng và Nhà
nước ta trong công cuộc chăm lo sự nghiệp giáo dục.
 Cơ cấu lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Chuyên môn kỹ thuật thể hiện trình độ chuyên môn nghề nghiệp, tay nghề của
người lao động.
Nghề là một hình thức PCLĐ thể hiện ở những kiến thức lý thuyết tổng hợp và
thói quen thực hành để hoàn thành một công việc nào đó.
Chuyên môn là một hình thức PCLĐ sâu hơn do sự chia nhỏ của nghề và nó đòi
hỏi những kiến thức và thói quen thực hành hẹp hơn so với nghề. Vì vậy trong nghề có
nhiều chuyên môn khác nhau.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật người ta có thể chia như sau: Không có chuyên
môn kỹ thuật, công nhân kỹ thuật, trung học, cao đẳng, đại học trở lên [13;27].
1.1.4 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu lao động đối với sự phát triển kinh tế
Quá trình phát triển KT đồng thời là quá trình làm thay đổi cơ cấu của lực lượng
LĐ xã hội, kể cả những quan hệ tỷ lệ về số lượng và chất lượng. Sự thay đổi về CCLĐ

phản ánh trình độ và là kết quả của sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển tạo điều kiện cho quá trình PCLĐ một cách
sâu sắc và sự phát triển của PCLĐ đến lượt nó lại càng làm cho các mối quan hệ KT
càng củng cố, phát triển. Như vậy, sự thay đổi về số lượng và chất lượng của CCKT,
CCLĐ phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội và nó phản ánh kết quả quá
trình công nghiệp hoá đất nước.
Chính vì thế, ngày nay KT học phát triển xem CDCCLĐ là một trong những tiêu
chí phản ánh quan trọng của quá trình CDCCKT, mức độ phát triển của nền KT. Ở góc
phân tích KT vĩ mô, chỉ tiêu cơ cấu lực lượng LĐ đang làm việc trong nền KT là chỉ
tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt KT - XH của quá trình CNH,
9
HĐH. Bới vì công nghiệp hoá, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không chỉ đơn thuần là
sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà phải là quá trình CNH, HĐH
đời sống xã hội con người, trong đó cơ sở quan trọng nhất là số lượng LĐ đang làm
việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng
LĐ đang làm việc trong nền KT. Tầm quan trọng của CDCCLĐ thậm chí còn được
một số KT gia xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành công của
quá trình công nghiệp hoá trong nghiên cứu so sánh giữa các nền KT.
Quá trình CDCCLĐ là cơ sở để nâng cao năng suất LĐ, tạo ra giá trị mới ngày
càng dồi dào, khai thác hiệu quả tiềm năng của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Ở
nông thôn, đẩy mạnh PCLĐ xã hội chính là tiền đề để đưa KT nông thôn phát triển
theo hướng sản xuất hàng hoá lớn.
Và chúng ta cũng có thể hiểu CDCCLĐ có vai trò như sau:
- Quá trình CDCCLĐ càng sâu rộng càng tạo điều kiện cho người LĐ tích luỹ
kinh nghiệm và kỹ năng sản xuất, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức của họ,
phát triển các công cụ LĐ.
- CDCCLĐ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy việc hình thành và hoàn thiện
một CCKT hợp lý.
- CDCCLĐ giúp tiết kiệm chi phí và thời gian LĐ thúc đẩy công nghệ và nâng
cao tay nghề của người LĐ, là đòn bẩy tăng năng suất LĐ và thúc đẩy KT phát triển.

1.2 Những nhân tố cơ bản tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.1 Các yếu tố về hộ gia đình
- Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình và chênh lệch về thu nhập
giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp của LĐ là yếu tố trực tiếp
ảnh hưởng đến khả năng LĐ nông thôn trong quá trình chuyển dịch. Thu nhập nông
nghiệp cao thì khả năng chuyển dịch của LĐ nông nghiệp sang phi nông nghiệp giảm
xuống và ngược lại. Đây là một trong những yếu tố “kéo” cơ bản và có tác động lớn
đối với quá trình CDCCLĐ nông thôn. Tuy nhiên, nó có thể là lực đẩy, thu nhập nông
nghiệp cao hơn sẽ tạo tiền đề để đầu tư cho phi nông nghiệp. Các chính sách về tiền
lương, bảo hiểm xã hội và các lợi ích khác ở khu vực phi nông nghiệp, các chính sách
ở khu vực thành thị đều có ảnh hưởng không nhỏ đến CDCCLĐ.
10
- Yếu tố về nhân khẩu học của hộ gia đình
Việc chuyển dịch LĐ nông nghiệp sang phi nông nghiệp có đóng góp không nhỏ
của các yếu tố nội tại từng gia đình và yếu tố cũng có tác động trực tiếp đến CDCCLĐ
ở nông thôn. Với hộ gia đình có quy mô lớn hơn có thể có nhiều điều kiện hơn về LĐ
và vì thế dễ dàng chuyển đổi hơn, đồng thời quy mô hộ lớn trong sản xuất nông nghiệp
đồng nghĩa với sức ép về việc làm lớn hơn cho hộ gia đình vì vậy buộc hộ gia đình
phải đa dạng hoá sang phi nông nghiệp. Tương tự như vậy, số người ăn theo là tỷ lệ
giữa tổng nhân khẩu của hộ chia cho số LĐ thực tế đang làm việc, tỷ lệ này càng lớn
thì sức ép cho CCLĐ cũng càng lớn.
- Yếu tố đất đai, người LĐ có đất nông nghiệp lớn hơn có xu hướng chuyển dịch
LĐ nông nghiệp - phi nông nghiệp tăng lên khi đất đai sản xuất nông nghiệp của họ
quá hạn hẹp. Trong trường hợp này đất đai là yếu tố “đẩy” đối với quá trình chuyển
dịch LĐ. Việc cấp đất cố định, một mặt có tác dụng làm nông dân yên tâm hơn với sản
xuất nông nghiệp, vì vậy làm giảm khả năng chuyển dịch sang phi nông nghiệp, tuy
nhiên, mặt khác còn tạo điều kiện để nông dân có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
tốt hơn và vì thế có nhiều cơ hội hơn để đa dạng hoá sang hoạt động phi nông nghiệp.
1.2.2 Các yếu tố thuộc về cộng đồng
Các chính sách của nhà nước: trong bất kỳ mọi giai đoạn phát triển KT - XH

nào, vai trò quản lý của nhà nước luôn giữ một vị trí quan trọng. Ở từng giai đoạn khác
nhau, sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vào các quá trình KT
- XH là khác nhau. Bằng các chính sách cụ thể, nhà nước đã tác động trực tiếp và gián
tiếp nhằm thúc đẩy quá trình CDCCLĐ. Một số chính sách ảnh hưởng mạnh mẽ đến
quá trình CDCCLĐ như: chính sách đất đai, chính sách tài chính tín dụng, chính sách
đầu tư, các chương trình dự án về phát triển hạ tầng nông thôn, xóa đói giảm nghèo…
Thông qua hệ thống chính sách này sẽ thúc đẩy quá trình PCLĐ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đồng thời đẩy nhanh tốc độ CDCCLĐ. Sự tác động đó của nhà nước
có thể mang lại kết quả tích cực hoặc tiêu cực, nhưng xét ở góc độ vĩ mô nó phải tạo ra
sự chuyển dịch mang tính khách quan, tiến bộ hơn.
Cơ sở hạ tầng của địa phương cũng có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động. Những hộ gia đình được tiếp cận với các công trình hạ tầng nông thôn
11
sẽ có khả năng chuyển dịch LĐ lớn hơn những hộ không được tiếp cận. Những chính
sách thúc đẩy phát triển hạ tầng cơ sở nông thôn và cả những chính sách phát triển cơ sở
hạ tầng ở thành thị, đô thị hóa đều có tác động làm tăng khả năng CDCCLĐ.
Như vậy, yếu tố cơ sở hạ tầng nông thôn là một yếu tố “kéo” quan trọng thúc
đẩy CDCCLĐ.
Yếu tố công nghiệp hóa, đô thị hóa của địa phương cũng có tác động mạnh đến
CDCCLĐ.
Quá trình công nghiệp hóa gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp đặc
biệt là các ngành có hàm lượng khoa học cao. Việc phát triển các ngành sản xuất cả về
số lượng và chất lượng là một biểu hiện của sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế làm cho CCKT thay đổi mạnh mẽ do sự biến
đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự thay đổi CCKT tất yếu dẫn đến sự
thay đổi CCLĐ trong nền kinh tế.
Còn quá trình đô thị hóa một mặt làm giảm diện tích đất nông nghiệp, nhu cầu
LĐ nông nghiệp giảm dần; mặt khác, do sự phát triển về cơ sở hạ tầng, tâm lý người
LĐ và việc dư thừa LĐ nông nghiệp dẫn đến xu hướng phát triển các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Từ đó, làm cho tỷ trọng LĐ của các ngành này không ngừng tăng

lên. Có thể thấy rằng, đô thị hóa vừa tác động trực tiếp đến số lượng và tỷ trọng LĐ
của các ngành vừa gián tiếp tác động đến CCLĐ theo ngành thông qua sự biến đổi cơ
cấu ngành kinh tế.
1.2.3 Các yếu tố về đặc điểm của người lao động
Trình độ giáo dục đào tạo của bản thân người lao động: Trình độ giáo dục cũng
có ảnh hưởng đến khả năng chuyển dịch của lao động. Ở mức độ vĩ mô, chất lượng
của lực lượng LĐ nông thôn có tác động tương đối lớn đến tốc độ chuyển dịch. Xu
hướng chung là trình độ giáo dục của LĐ càng cao thì khả năng chuyển dịch của LĐ
càng lớn. Đặc biệt, yếu tố giáo dục có tác động nhiều hơn ở hình thức chuyển dịch từ
nông nghiệp thuần sang phi nông nghiệp làm thuê hơn là sang tự làm.
Tuổi của người lao động: có tác động đáng kể đến quá trình CDCCLĐ. Người trẻ
tuổi hơn có khả năng chuyển đổi nghề lớn hơn, tuy nhiên độ tuổi của người LĐ chỉ có
tác động lớn đối với loại hình LĐ làm thuê hơn là LĐ tự làm và loại hình chuyển sang
12
tiểu thủ công nghiệp hơn là loại hình dịch vụ. Như vậy, nếu các chính sách về tạo việc
làm tập trung vào độ tuổi trẻ hơn sẽ có tác động nhiều hơn tới CDCCLĐ ở nông thôn.
Giới tính của người lao động: Cũng có tác động thậm chí là tương đối lớn so với
các yếu tố khác, điều này cho thấy thị trường LĐ nông thôn có độ phân mảnh cao theo
giới tính. Nam giới dường như có nhiều khả năng chuyển dịch LĐ hơn nữ giới và đối với
hầu hết các loại hình chuyển dịch. Tuy nhiên đối với các loại hình LĐ tự làm quy mô hộ
gia đình ít có sự phân biệt về giới khi quyết định khả năng tham gia của người dân .
1.2.4 Các yếu tố khoa học – công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng có tác động to lớn đến chất
lượng của nguồn lao động, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, góp phần thúc đẩy
quá trình CDCCLĐ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm cho cơ cấu ngành nghề
thay đổi, những ngành nghề truyền thống ngày càng giảm xuống, nhiều ngành nghề
mới với hàm lượng khoa học công nghệ cao xuất hiện.
Áp dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất vừa tăng năng suất lao động,
tiết kiệm lao động, tăng thu nhập vừa giảm bớt LĐ thủ công, thu hút lực lượng LĐ đã
qua đào tạo phân bố giữa các vùng, các ngành kinh tế; thực hiện phân công lại lao

động xã hội. Từ đó, tạo tiền đề vật chất để di chuyển một bộ phận lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác làm CDCCKT và CCLĐ ở nông thôn.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự phát triển của một quốc
gia phụ thuộc nhiều vào nguồn lực con người với trí tuệ và trình độ tay nghề là chủ
yếu thay vì chỉ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên như trước đây. Đặc biệt sự phát
triển của nền kinh tế tri thức là giai đoạn mới của lực lượng sản xuất, chuyển từ việc
sử dụng nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ và làm thay đổi bản tính của lao
động. Từ đó làm cho tỷ trọng LĐ trực tiếp sẽ giảm mạnh và LĐ được đào tạo chuyên
sâu, tỷ trọng LĐ gián tiếp và dịch vụ tăng lên.
Cuộc cách mạng lần thứ ba xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ XX hay là
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo tiền đề cho ngày nay thế giới bước vào
kỷ nguyên của “cuộc cách mạng công nghệ mới” với những biến đổi sâu sắc trong các
lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và con người với tri thức của mình sẽ ngày
càng đóng vai trò trung tâm của sự phát triển. Chính cuộc cách mạng khoa học công
13
nghệ đã đưa vai trò các yếu tố lợi thế so sánh truyền thống như: tài nguyên, vốn và
công nghệ xuống hàng thứ yếu so với thông tin và tri thức.
Nước ta tiến hành CNH, HĐH với điểm xuất phát thấp nên những yếu tố khoa
học và công nghệ có tác động mạnh mẽ đến việc đào tạo nguồn LĐ có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao. Chính vì thế, Đảng ta đã xác định chiến lược CNH, HĐH cần kết
hợp với những thành tựu khoa học công nghệ nhằm đào tạo nguồn LĐ có chất lượng
cao với cơ cấu hợp lý để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Đảng ta khẳng
định : “phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với
giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy
nhanh và phát triển kinh tế tri thức”.
1.3 Một số kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu lao động
1.3.1 Kinh nghiệm của thế giới
1.3.1.1 Trung Quốc
Trung Quốc là nước dẫn đầu thế giới về dân số và lao động. Vì vậy, sức ép tạo
việc làm và tăng thu nhập cho người LĐ luôn là một vấn đề nhức nhối và được chính

phủ Trung Quốc hết sức quan tâm.
Để xây dựng CCLĐ hợp lý, Trung Quốc đã tiến hành cải cách hệ thống quản lý
LĐ để CDCCLĐ theo hướng CNH, HĐH đất nước từ năm 1978. Nó bao gồm cải cách
hệ thống sắp xếp lao động, sử dụng LĐ tại các xí nghiệp, kế hoạch hoá lao động.
Trung Quốc đã thực hiện đường lối “Kết hợp cả 3 khu vực” trong lĩnh vực sắp xếp
việc làm. Nội dung của việc kết hợp cả 3 khu vực là: chuyển từ đường lối sắp xếp việc
làm dựa vào xí nghiệp quốc doanh là duy nhất sang mở rộng các kênh sắp xếp việc
làm khu vực nhà nước, tập thể và cá thể. Đường lối sắp xếp việc làm này được phát
triển mạnh ở thành phố và nông thôn. Trung Quốc đã có một thời kỳ mất cân đối
nghiêm trọng giữa CCLĐ với CCKT. Điều này thể hiện rõ ở tỷ lệ LĐ làm dịch vụ và
hai ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.
Trong chiến lược thay đổi cơ cấu này, Trung Quốc đã thực hiện liên tục, đồng bộ
các chính sách sau đây:
+ Thay đổi lại cơ cấu giáo dục đào tạo, chú trọng đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng lao động, thay đổi cơ cấu giáo dục sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển các
14
ngành nghề kinh tế. Đồng thời đầu tư thích đáng nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục
cho tương lai.
+ Do tình hình di chuyển dân cư từ nông thôn ra đô thị lớn một cách lộn xộn,
Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách phân bố lại LĐ dân cư để hạn chế sự gia tăng
tối đa dân số tại các đô thị lớn, phát triển các đô thị vừa và nhỏ, kiểm soát tối đa dòng
di chuyển nông thôn ra thành thị.
+ Triển khai xây dựng các thị trấn nông thôn, phát triển công nghiệp tại các thị
trấn để thu hút LĐ nông thôn, giải quyết và phát triển các ngành nghề truyền thống
nhằm thu hút và sử dụng LĐ tại chỗ.
+ Xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế tại các huyện nhằm một mặt công
nghiệp hoá nông thôn, mặt khác thu hút LĐ nông thôn vào làm việc.
+ Cùng với việc làm thiết thực đó Trung Quốc còn đưa ra bộ luật riêng cho người
lao động, tạo cho người LĐ biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình giúp cho họ yên
tâm làm việc tạo nên năng suất LĐ cao.

Trước các chính sách về việc làm và LĐ đã tạo cho Trung Quốc có được sự
chuyển dịch LĐ trong các ngành nghề, và tạo ra được đội ngũ LĐ có trình độ chuyên
môn cao phục vụ tốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
1.3.1.2 Các nước ASEAN
Sự phát triển của các nước ASEAN trong 30 năm qua là kết quả của quá trình tìm
tòi, thử nghiệm để cuối cùng tìm ra chiến lược phát triển và chính sách kinh tế vĩ mô
thích hợp với điều kiện trong và ngoài nước. Tuy mỗi nước có chiến lược phát triển
riêng nhưng mỗi quốc gia đều được dựa trên nền tảng là con người. Chính vì thế họ đã
có những chiến lược tận dụng tối đa nguồn LĐ của mình, định hướng một CCLĐ hợp
lý. Dưới đây là những kinh nghiệm chung trong lĩnh vực CDCCLĐ theo hướng CNH,
HĐH của các nước này.
+ Phát huy yếu tố con người - động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước
ASEAN thường xuyên quan tâm đào tạo để tạo ra được CCLĐ phục vụ tốt quá trình
CDCCKT. Điều này được thể hiện như ở Thái Lan, sự nghiệp đào tạo ngành nghề đã
trở thành một hệ thống phục vụ đắc lực cho nền kinh tế quốc dân. Ngoài hệ thống đào
tạo chính quy, chính phủ Thái Lan còn tổ chức ra nhiều trường kỹ thuật hỗn hợp để
15
đào tạo cho thanh thiếu niên theo những khoá học ngắn hạn, đồng thời thành lập ở các
địa phương những trung tâm đào tạo nghề.
Ở Singapo chủ yếu nhờ vào đội ngũ LĐ được trải qua quá trình đào tạo cẩn thận,
có tri thức chuyên môn và kỹ năng cao, mà Singapo từ những năm 60 đến đầu thập kỷ
80 đã giữ được tốc độ phát triển ở mức 9%. Singapo chú trọng hợp tác với các công ty
đa quốc gia hoặc chính phủ nước ngoài lập ra các trung tâm đào tạo nghề nghiệp, bồi
dưỡng đào tạo chuyên môn mà nền công nghiệp mới phát triển của nước này đòi hỏi.
+ Chuyển mạnh nền kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại, nông nghiệp sang
công nghiệp và xúc tiến dịch vụ qua các chính sách ưu tiên, coi đó là động lực phát
triển kinh tế giải quyết việc làm ở mỗi nước.
Cụ thể, các nước ASEAN đã kết hợp chặt chẽ việc phát triển nông nghiệp truyền
thống, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp tận dụng nguồn LĐ dồi dào như
dệt, may mặc, nhưng vẫn phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật

cao và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Nếu như ASEAN trước đây chủ yếu xuất
khẩu nguyên liệu thì những năm 80 đã chuyển sang xuất khẩu thành phẩm kỹ thuật
cao. Đó chính là con đường cơ bản để các nước ASEAN sử dụng hợp lý nguồn LĐ và
tạo ra sự CDCCLĐ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
+ Phát triển mạnh mẽ các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, thực tiễn những
năm qua các nước ASEAN đã khẳng định rằng việc phát triển các xí nghiệp vừa và
nhỏ trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, không những tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho người LĐ mà còn góp phần chuyển dịch LĐ ngay tại nông
thôn, giảm bớt sự chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị.
1.3.2 Kinh nghiệm trong nước
1.3.2.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Qua 7 năm 2001 - 2007, cả nước đã tạo việc làm cho 10,85 triệu lao động, giai
đoạn 2001 - 2005 là 7,5 triệu LĐ (tăng 25% so với giai đoạn 1996- 2000); riêng năm
2006 là 1,65 triệu LĐ và năm 2007 ước tính 1,68 triệu lao động. Trong đó, tạo việc
làm thông qua các chương trình phát triển KT - XH là hơn 8 triệu lao động, tạo việc
làm thông qua Quỹ quốc gia về việc làm là 2,37 triệu lao động, xuất khẩu LĐ theo hợp
16
đồng 456 nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm dần: năm 2001 là 6,28% đến
năm 2006 còn 5,1%.
CCLĐ đã có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực: Năm 2001: nông lâm
ngư nghiệp: 62,7%; công nghiệp - xây dựng: 14,5%; thương mại - dịch vụ: 22,8%;
năm 2006: nông lâm ngư nghiệp: 55,7%; công nghiệp - xây dựng: 19,1%; thương mại
- dịch vụ: 25,2%.
Chất lượng LĐ được nâng lên, thể hiện qua số lượng LĐ đã qua đào tạo và đào
tạo nghề. Trình độ học vấn phổ thông của LĐ trong độ tuổi ngày càng được nâng cao.
Đến năm 2006, khoảng 26,85% LĐ từ 15 tuổi trở lên tốt nghiệp trung học cơ sở và
23,46% tốt nghiệp trung học phổ thông. LĐ qua đào tạo nghề tăng, giai đoạn 2001 -
2006 dạy nghề cho 6,6 triệu người (tăng bình quân 6,5%/năm), trong đó dạy nghề dài
hạn cho 1,14 triệu người (tăng bình quân 15%/năm); lực lượng LĐXH qua đào tạo

năm 2006 đạt 31,5%, trong đó, có 20% qua đào tạo nghề (năm 2001 là 13,4%), đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế; góp phần tạo cơ hội việc làm cho người lao động,
thúc đẩy quá trình CDCCLĐ, CCKT theo hướng CNH, HĐH.
1.3.2.2 Kinh nghiệm của Tỉnh Vĩnh Phúc
Trong những năm gần đây tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu trong
CDCCLĐ. Những năm trước 1997 kinh tế còn nhiều khó khăn, mức tăng trưởng chậm,
phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, thu ngân sách của tỉnh mới chỉ đạt trên dưới 100
tỷ đồng, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 47,8% bình quân cả nước. Sau hơn 10
năm phát triển, Vĩnh Phúc đã trở thành một tỉnh công nghiệp với CCKT: công nghiệp
– xây dựng chiếm tỷ trọng: 57,9%, nông nghiệp chiếm 16,3%, thương mại – dịch vụ
chiếm 25,8%.
CDCCKT thường kéo theo CDCCLĐ, sự chuyển dịch LĐ của Vĩnh Phúc đã trải
qua nhiều giai đoạn: Từ năm 1997 – 2000: CCLĐ trong nông-lâm-ngư nghiệp là 79,3%,
công nghiệp –xây dựng 9,3 %, dịch vụ 11,4%; từ 2000 – 2005 tỷ lệ nông giảm xuống
còn 59,9%, công nghiệp-xây dựng tăng 17,4%, dịch vụ tăng 22,6%, từ năm 2005 – 2007
nông – lâm – ngư nghiệp tiếp tục giảm xuống 55%, công nghiệp – xây dựng tăng lên
21% và dịch vụ tăng lên 24%. Đến hết năm 2008 tỷ lệ này đã đạt mức: nông – ngư –
ngư nghiệp giảm xuống còn 52%, công nghiệp – xây dựng 21%, dịch vụ 27%.
17
Tỷ lệ thời gian có việc làm của LĐ trong độ tuổi ở nông thôn còn thấp. Theo con
số điều tra được từ chính những người nông dân Vĩnh Phúc thì trong một năm thời
gian sản xuất chỉ dùng đến 60% quỹ thời gian LĐ còn lại là 40 % nông nhàn. Một số
xã có làng nghề như Triệu Đề chuyên đan thúng mủng thì tuy thời gian nông nhàn
được người dân sử dụng vào đan nhưng hiệu quả chưa thực sự nhiều chưa mang lại thu
nhập cao cho người lao động. Hiện nay xu hướng CDCCLĐ của Vĩnh Phúc diễn ra
khá đa dạng, tuy nhiên chủ yếu là những xu hướng sau:
Chuyển một bộ phận LĐ có thu nhập thấp sang phát triển một số ngành nghề có
thu nhập cao như công nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ, chuyển LĐ cơ bắp
sang LĐ chất xám, chuyển LĐ ở những vùng đông LĐ không cân đối với tài nguyên
sang vùng ít lao động, nhiều tài nguyên, tăng nhanh LĐ ở thành thị sẽ làm thay đổi

số lượng và CCLĐ. Đây chính là xu hướng tất yếu của quá trình CDCCLĐ
Thực hiện phân công lại LĐXH, sẽ làm CDCCLĐ giữa các ngành, các khu vực,
các vùng và trong nội bộ ngành, vùng sẽ thay đổi. CDCCLĐ nhằm nâng cao năng suất
lao động, nâng cao đời sống của người LĐ khiến cho sản xuất và đời sống của nhân
dân được nâng cao, có điều kiện tích luỹ vốn, kiến thức và kinh nghiệm để tiếp tục
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và CCLĐ, tức “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
1.3.2.3 Kinh nghiệm của Thành Phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng với nguồn LĐ trên 300 ngàn người những năm gần đây đã
có nhiều giải pháp trong việc CDCCLĐ theo hướng phù hợp với cơ cấu kinh tế đã
được xác định, hợp lý hơn so với những năm trước đây. Cụ thể:
- Phát triển mạnh sản xuất công nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Đây là một
trong những biện pháp nhằm tạo ra nhiều chỗ làm việc mới trong lĩnh vực công nghiệp
thu hút LĐ từ các ngành khác chuyển sang đặc biệt là LĐ nông nghiệp nông thôn góp
phần đẩy mạnh quá trình CDCCLĐ từ nông – lâm – ngư nghiệp sang công nghiệp -
xây dựng.
- Bên cạnh việc đầu tư cho phát triển nhanh các dịch vụ mà thành phố có thế
mạnh như vận tải đường sắt, cảng biển, sân bay quốc tế, tài chính, và đặc biệt là du
lịch, thành phố đã đầu tư mạnh vào đào tạo nghề cho lực lượng LĐ trong khu vực này
nhằm tận dụng và phát huy lợi thế so sánh trong chiến lược đầu tư và phát triển.
18
- Thành phố đã có những định hướng trong thu hút đầu tư và hướng đến ưu tiên
đầu tư phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động, đặc biệt coi trọng phát triển
kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến thủy hải sản. Do tốc độ đô thị hóa quá nhanh
làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh, vì vậy cần ban hành và thực hiện tốt
các chính sách khuyến khích học nghề, đặc biệt là đối với lực lượng LĐ nông nghiệp
trước đây.
- Thành phố đã có những chính sách nhằm khuyến khích phát triển các cơ sở dạy
nghề trong doanh nghiệp và gắn với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thành phố còn chú
trọng đào tạo nghề ở trình độ cao để đáp ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất,

khu công nghệ cao và một phần cho xuất khẩu lao động, đồng thời phổ cập nghề cho
số LĐ đại trà ở trình độ thấp.
1.3.2.4 Kinh nghiệm của một số huyện
* Huyện Núi Thành, Tỉnh Quảng Nam:
Năm 2008, thông qua các chương trình phát triển KT - XH toàn huyện đã tạo
việc làm cho 5.541 lao động. Trong đó, LĐ trong lĩnh vực nông - lâm - ngư là 1.190,
LĐ trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng là 2.881, LĐ trong lĩnh vực thương mại -
dịch vụ là 1.470, tạo việc làm thông qua các chương trình mục tiêu như chương trình
120 là 327 lao động, xuất khẩu LĐ đi các nước là 17 LĐ .
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của cả tỉnh, CCLĐ ở Núi Thành cũng đã có
sự chuyển biến theo hướng tích cực. Số LĐ trong công nghiệp - xây dựng; Thương
mại - dịch vụ ngày càng tăng, LĐ trong lĩnh vực nông - lâm - ngư ngày càng giảm.
Chất lượng LĐ được nâng lên, thể hiện rõ ở số LĐ thông qua đào tạo và đào tạo lại,
trình độ học vấn phổ thông của LĐ trong độ tuổi cũng ngày càng được nâng lên (dạy
nghề ngắn hạn năm 2008 là 3.723 lượt người, tăng 21,42% so với năm 2007; dạy nghề
dài hạn là 197 người, giảm 11% so với năm 2007). LĐ trên địa bàn Núi Thành cũng đã
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế, góp phần tạo cơ hội việc làm cho người lao
động, thúc đẩy quá trình CDCCLĐ, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Để đạt
được kết quả đó thì huyện đã nỗ lực thực hiện các giải pháp sau:
- Giải pháp quan trọng và mang tính quyết định nhất đó là nâng cao chất lượng
nguồn LĐ thông qua đào tạo và dạy nghề. Việc phát triển dạy nghề trong doanh
19
nghiệp và gắn với doanh nghiệp được phát huy, các doanh nghiệp có sự liên kết với
các trường dạy nghề để đào tạo, kiểm tra, đánh giá trình độ, cấp bằng nghề, bậc nghề.
Thiết lập một hệ thống kết nối giữa Nhà nước (địa phương ) - Dạy nghề - Tư vấn, giới
thiệu việc làm - Doanh nghiệp. Bên cạnh đó, huyện đã ban hành chính sách khuyến
khích học nghề, ưu tiên cho hộ nghèo, hộ có LĐ trong vùng di dời giải toả, dân tộc
thiểu số, vùng núi và người tàn tật. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia dạy nghề,
phát triển các ngành nghề truyền thống, thu hút LĐ trên địa bàn vào làm việc.
- Tạo nguồn lực để phát triển mạnh các vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu

hút nhiều lao động, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển kinh tế trang
trại, kinh tế hợp tác xã, kinh tế dịch vụ và công nghiệp chế biến nông sản để xuất khẩu.
Khôi phục các làng nghề truyền thống. Tăng đầu tư cho nông thôn và miền núi nhằm
CDCCKT - LĐ thông qua các chính sách trợ giúp, tín dụng ưu đãi, tạo điều kiện cho
người LĐ tự phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm thất nghiệp.
- Ký kết thoả thuận giữa doanh nghiệp với địa phương về nhu cầu LĐ của từng
giai đoạn, nhu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ thuật để lập kế hoạch liên kết đào tạo
với các trường nghề theo thứ tự ưu tiên nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu việc làm bức
thiết của nhân dân và nhu cầu LĐ của từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần đảm bảo
quyền lợi hài hoà giữa người LĐ với người sử dụng LĐ theo luật định.
* Huyện Kỳ Anh, Tỉnh Hà Tĩnh:
Quá trình CDCCLĐ của huyện trong những năm qua diễn ra theo hướng tích cực
biểu hiện: tỷ trọng LĐ trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp giảm từ 87,98%
năm 2000 xuống còn 78,42% năm 2007. Tỷ trọng LĐ trong nhóm ngành công nghiệp
– xây dựng và thương mại – dịch vụ tăng lên, trong đó nhóm ngành công nghiệp –
xây dựng tăng từ 5,04% năm 2000 lên 8,03% năm 2007, nhóm ngành thương mại –
dịch vụ tăng lên 6,98% năm 2000 lên 13,21% năm 2007.
Chất lượng nguồn LĐ ngày càng được nâng lên, LĐ phổ thông, chưa qua đào
tạo giảm từ 93,15% năm 2000 xuống còn 88% năm 2007, LĐ có chuyên môn kỹ thuật
tăng lên từ 6,85% năm 2000 lên 12% năm 2007. Quy mô xuất khẩu LĐ tăng lên qua
các năm đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói
giảm nghèo, xây dựng bộ mặt nông thôn mới.
20
Để có được thành tựu đó, huyện Kỳ Anh đã thực hiện những giải pháp như:
- Phát triển các khu công nghiệp, làng nghề truyền thống, các cụm công nghiệp
vừa và nhỏ nhằm chuyển dịch LĐ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
- Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp nhằm
nâng cao năng suất LĐ trong nông nghiệp tạo điều kiện để di chuyển LĐ trong ngành
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, huyện còn đầu tư nâng cao trình độ
chuyên môn cho LĐ nông nghiệp bằng cách mở các lớp dạy nghề cho nông dân.

- Huyện còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho LĐ nông nghiệp, nông thôn và gắn việc đào
tạo nghề với bố trí việc làm cho người lao động…
1.3.2.5 Bài học kinh nghiệm cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động của huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
Qua việc nghiên cứu những kinh nghiệm CDCCLĐ trên thế giới và trong nước,
chúng ta có thể đúc kết lại thành một số bài học kinh nghiệm cho việc CDCCLĐ của
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình như sau:
Một là, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
và các làng nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho LĐ nhàn rỗi ở nông thôn,
đồng thời thu hút LĐ từ nông nghiệp sang các khu vực này.
Hai là, cần có những định hướng trong thu hút đầu tư và hướng đến ưu tiên đầu
tư phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động.
Ba là, phải nhìn nhận đúng thực trạng của huyện để đưa ra những định hướng và
chiến lược phù hợp cho quá trình phát triển KT - XH.
Bốn là, phải đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng
lao động. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xuất khẩu LĐ nhằm một mặt tạo nguồn thu
ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức thu hút LĐ từ nội
bộ nền kinh tế và giải quyết lượng LĐ dôi dư.
Tóm lại, nghiên cứu kinh nghiệm CDCCLĐ trên thế giới và trong nước sẽ giúp
cho huyện Quảng Trạch có những bài học kinh nghiệm trong việc đẩy mạnh CDCCLĐ
trên địa bàn huyện trong thời gian tới. Việc áp dụng các kinh nghiệm của cả nước nói
chung và các huyện nói riêng sẽ giúp cho huyện Quảng Trạch ngày càng phát triển.
21
Cụ thể hơn là tạo ra sự CDCCKT, tác động mạnh đến quá trình CDCCLĐ trong tiến
trình CNH, HĐH. Và để có được kết quả về tăng trưởng và phát triển kinh tế trong
thời gian tới thì một điều cần thiết là huyện cần có những tính toán hợp lý, có những
chiến lược phù hợp với thực trạng của huyện.
22
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở HUYỆN QUẢNG TRẠCH TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội ảnh hưởng tới quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động
2.1.1 Vị trí địa lý
Quảng Trạch là một huyện lớn nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình, nằm trải
dài từ toạ độ 17042’ đến 17059’ Vĩ Bắc và từ 1060 15’ đến 1060 34’ Kinh đông, có
đường thiên lý Bắc - Nam đi qua suốt từ Đèo Ngang đến Sông Gianh dài gần 34
Km. Quảng Trạch có vị trí phía Bắc giáp với tỉnh Hà tĩnh, phía Nam giáp huyện
Bố Trạch, phía Tây giáp huyện Tuyên Hoá và phía Đông giáp Biển Đông.
2.1.2 Tài nguyên thiên nhiên
* Đất đai: Trong tổng diện tích 612 km2 có trên 10.000 ha đất nông nghiệp,
29.000 ha đất lâm nghiệp, 3.000 ha đất chuyên dùng, 11.225 ha đất chưa sử dụng
(Trong đó có 600 ha đất bãi bồi, 10.000 ha đất đồi núi có khả năng khai thác để trồng
cây lâm nghiệp, đặc biệt có khoảng 1.500 ha đất đồi có độ phù sa độ mùn dày dưới 1
mét, có khả năng trồng cây công nghiệp . Quảng Trạch có 3 hệ thống đất đai cơ bản
được hình thành trên hệ thống phong hoá: chủ yếu ở vùng đồi núi chiếm 78,2%, đất
phù sa chiếm tỷ lệ 16,7%, vùng đất cát ven biển chiếm tỷ lệ 5,1%.
* Nguồn nước: Huyện có hai con sông chính đó là Sông Gianh và Sông Roòn,
đồng thời có một hệ thống suối nhỏ chằng chịt, có khả năng nuôi trồng thuỷ sản và xây
dựng các đập hồ thuỷ lợi để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, ổn
định môi trường trong lành.
* Tài nguyên rừng và khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản cũng là một thế mạnh
của Quảng Trạch. Theo số liệu khảo sát về các danh mục khoáng sản, trên địa bàn
Quảng Trạch có nhiều khoáng sản quý hiếm, đặc biệt là quặng Titan, cát Thạch Anh
có trữ lượng khoảng 35 triệu m3 với hàm lượng SI02 cao có khả năng lớn trong việc
23
sản xuất các mặt hàng pha lê cao cấp. Bên cạnh đó là trữ lượng lớn Than bùn khoảng 1
triệu m3, có khả năng cung cấp chất đốt và sản xuất phân vi sinh đã và đang được khai

thác. Ngoài ra còn có một trữ lượng lớn về Đá vôi và Đất sét có khả năng cung cấp
nguồn nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng gạch và xi măng.
2.1.3 Đặc điểm kinh tế- xã hội
Trong những năm vừa qua, huyện Quảng Trạch đã nỗ lực tập trung mọi nguồn
lực trong nhân dân, khai thác các tiềm năng, thế mạnh nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Kinh tế huyện Quảng Trạch trong những năm gần đây có bước phát triển đáng
kể. Với việc khai thác có hiệu quả các lợi thế, tiềm năng và phát huy tối đa các nguồn
lực, những năm gần đây nền kinh tế của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực với
tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,2%/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng
hướng, các chương trình kinh tế trọng điểm, nhất là chương trình nuôi trồng và chế
biến thuỷ, hải sản đã phát huy hiệu quả, sản lượng nuôi trồng tăng bình quân hàng năm
từ 50-60%, tỷ lệ xuất khẩu đạt 40%. Cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng được nâng cấp,
xây dựng theo hướng kiên cố hoá.
Năm 2013 giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn huyện đã tăng 13,7%, trong đó, giá
trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp tăng 11,4%. Huyện đã chỉ đạo các địa phương và
nhấn dân đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng
hoá tăng cường công tác khuyến nông chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm
dần diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có năng
suất, hiệu quả kinh tế cao.Tổng sản lượng lương thực đạt 44.836tấn, tăng 8,5% so với
năm 2012. Chăn nuôi phát triển nhanh, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng các đàn
gia súc, gia cầm. Trong lĩnh vực thuỷ sản, huyện đã thực hiện nhiều chính sách đổi
mới, hỗ trợ, khuyến khích nhân dân đầu tư cho nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, sửa
chữa, đóng mới phương tiện phục vụ cho công tác đánh bắt xa bờ. Toàn Huyện đã đầu
tư đóng mới và sửa chữa được hơn 80 chiếc tàu, thuyền các loại, nâng tổng số tàu
thuyền lên 1.709 chiếc với tổng công suất 42.549 CV. Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp phát triển khá với giá trị tổng sản lượng đạt trên 85tỷ đồng. Hệ thống cơ
sở hạ tầng được tăng cường củng cố, xây dựng với tổng số vốn đầu tư trong năm đạt
24
127,2 tỷ đồng. Hoạt động thương mại, dịch vụ không ngừng được mở rộng, hàng hoá,

vật tư phong phú, đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Cơ sở hạ tầng huyện cũng không ngừng được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.
Cuối năm 2008, Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 99,4%; Tỷ lệ hộ dùng nước sạch và hợp vệ
sinh đạt 95,0%; Tỷ lệ bê tông hóa giao thông nông thôn 46,4%; Tỷ lệ kiên cố hóa kênh
mương đạt 62,9%; Tỷ lệ kiên cố hóa trường học đạt 82%; Tỷ lệ kiên cố hóa trạm y tế
đạt 81,8%.
2.2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình
2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế
Trong các nhóm ngành lớn này lại có sự phân chia thành những ngành nhỏ như
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến…
Sự CDCCKT đã kéo theo sự chuyển dịch về CCLĐ giữa các nhóm ngành. Trong
giai đoạn 2009-2013 cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch theo CDCCLĐ
theo ngành kinh tế là quá trình chuyển dịch LĐ giữa các nhóm ngành nông – lâm –
thủy sản, công nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ. hướng CNH, HĐH; cụ thể là
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp.
Bảng 2.1 Giá trị sản xuất huyện Quảng Trạch giai đoạn 2009-2013
(Theo giá so sánh năm 2010)
ĐVT: Triệu đồng
Giá trị sản xuất
2009 2010 2011 2012 2013
Tổng giá trị sản xuất 3.627028 4.079.565 4.591557 5.070.308 5.634.930
Nông-lâm-ngư nghiệp 1.095.392 1.176.440 1.208.504 1.326.317 1.461.362
Công nghiệp-xây dựng 1.599.560 1.817.492 2.072.603 2.182.196 2.360.448
Thương mại-dich vụ 932.076 1.103.633 1.310.450 1.561.795 1.813.120
(Nguồn niên giám thống kê và số liệu từ phòng kinh tế huyện Quảng Trạch)
Trong nhóm ngành nông- lâm-ngư nghiệp vào năm 2009, giá trị sản xuất của
ngành đạt 1.095.392 triệu đồng chiếm 30,20% so với tổng giá trị sản xuất của 3 ngành.
Năm 2013, các chỉ tiêu tương ứng là 1.461.362 chiếm 25,93%. Như vậy, xét về cơ cấu
của 3 ngành cho thấy giá trị sản xuất của ngành nông- lâm- ngư nghiệp vẫn tăng

25

×