Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Bài tập lớn môn ngôn ngữ truyền thông báo phát thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 75 trang )

BÀI TẬP LỚN
MÔN NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG
BÁO PHÁT THANH

1


MỤC LỤC

I. Lời mở đầu....................................................................................................................3
II. Phân tích báo phát thanh
1. Phát thanh nói chung
1.1. Định nghĩa về báo phát thanh..............................................................................4
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển báo phát thanh.................................................5
1.3. Đặc điểm – đặc tính của báo phát thanh..............................................................7
1.4. Chức năng xã hội báo phát thanh........................................................................9
1.5. Các yếu tố chi phối hiệu quả của báo phát thanh................................................14
1.6. Ngôn ngữ báo phát thanh
1.6.1. Các đặc điểm của ngôn ngữ báo phát thanh
1.6.1.1. Ngơn ngữ phát thanh là ngơn ngữ nói (ngơn ngữ âm thanh)................16
1.6.1.2. Ngơn ngữ phát thanh thiên về hình thức độc thoại...............................17
1.6.1.3. Ngôn ngữ phát thanh luôn mang dấu ấn cá nhân của người nói.............17
1.6.1.4. Ngơn ngữ phát thanh khơng có khả năng minh họa bằng hình ảnh.......17
1.6.1.5. Ngơn ngữ phát thanh có tính hình tuyến...............................................17
1.6.2. Một số gợi ý sử dụng ngôn từ trong báo phát thanh...................................18
1.7. Chuẩn mực báo phát thanh
1.7.1. Nguyên tắc viết cho phát thanh...................................................................19
1.7.2. Đối với văn bản phát thanh.........................................................................22
1.7.1. Nguyên tắc viết cho phát thanh
2. Báo phát thanh truyền thống
2.1. Đặc điểm của báo phát thanh truyền thống.......................................................23


2.2. Vai trò của báo phát thanh truyền thống............................................................24
2.3. Ưu điểm – Hạn chế của báo phát thanh truyền thống
2.3.1. Ưu điểm của báo phát thanh truyền thống...................................................25
2.3.2. Hạn chế của báo phát thanh truyền thống....................................................27
3. Báo phát thanh hiện đại
3.1. Quan niệm về báo phát thanh hiện đại...............................................................34
2


3.2. Vai trò của báo phát thanh trong bối cảnh hiện đại..........................................29
3.3. Thể loại tiêu biểu của báo phát thanh hiện đại
3.3.1. Tin phát thanh.............................................................................................34
3.3.2. Bình luận phát thanh...................................................................................36
3.3.3. Phóng sự phát thanh....................................................................................37
3.3.4. Phỏng vấn phát thanh..................................................................................39
3.4. Phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của báo phát thanh trong bối cảnh
hiệnnay..........................................................................................................................40
III. Chương trình “Giờ cao điểm”
1. Giới thiệu chung về VOV Giao thông....................................................................46
2. Giới thiệu về “Giờ cao điểm”….............................................................................47
3. Phân tích yếu tố chi phối hiệu quả “Giờ cao điểm”
3.1. Ngôn ngữ..........................................................................................................47
3.2. Ngữ âm
3.2.1. Ngữ điệu.....................................................................................................49
3.2.2. Từ vựng......................................................................................................50
3.2.3. Ngữ pháp....................................................................................................50
3.3. Nhạc nền...........................................................................................................52
3.4. Tiếng động........................................................................................................52
3.5. Rating...............................................................................................................52
4. Đánh giá hiệu quả chương trình “Giờ cao điểm”...................................................53

IV. Kết luận...................................................................................................................55

3


I. LỜI MỞ ĐẦU
Ra đời vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, báo phát thanh đã thực sự
trở thành phương tiện truyền thơng hữu ích. Nhiều người từng lầm tưởng rằng sự phát
triển của nó sẽ làm giảm nhẹ vai trò của những tờ báo hàng ngày. Cũng như vào những
năm 50 của thế kỷ 20, khi truyền hình đến với từng gia đình, người ta e ngại truyền
hình rồi sẽ thay thế phát thanh - nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy. Mỗi loại hình
báo chí ra đời đều khẳng định được mình, bổ sung những thiếu sót cho những loại hình
khác. Phát thanh - với việc sử dụng âm thanh tổng hợp để truyền thơng tin tới thính giả
là một lợi thế mà mà khơng một loại hình báo chí nào có được. Thế giới âm thanh tổng
hợp tạo ra sự liên tưởng cho thính giả. Với phát thanh - nghe là thấy.
Trong thời đại bùng nổ truyền thông với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, sự bùng nổ của truyền hình và mạng Internet cùng với sự ra
đời của báo mạng và các hình thức thơng tin điện tử khác, báo chí phát thanh không
những không bị mất đi mà ngược lại, đã tận dụng sức mạnh của Internet và công nghệ
truyền thông hiện đại để ngày càng khẳng định được thế mạnh và sự hấp dẫn của
mình.

Có thể khẳng định rằng: trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay, báo chí phát thanh
vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, khẳng định là loại hình báo chí tiên phong trong
hệ thống báo chí, truyền thơng hiện đại. Ngành báo phát thanh Việt Nam với lịch sử
phát triển 57 năm đã hình thành hệ thống phát thanh từ cấp trung ương tới cơ sở, đã và
đang đóng góp tích cực vào hiệu quả tuyên truyền, ổn định sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhà nước, vào sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình ổn định trong khu vực và trên
thế giới.


Bài tập lớn này đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng của báo phát thanh, những
ưu điểm và hạn chế của hai loại hình phát thanh truyền thống và hiện đại, từ đó phân
tích chương trình phát thanh “Giờ cao điểm” trực thuộc VOV Giao thông để làm rõ
4


những tính chất, đặc điểm của báo phát thanh và đánh giá hiệu quả của loại hình báo
chí này.

II. PHÂN TÍCH BÁO PHÁT THANH
1. Phát thanh nói chung
1.1. Định nghĩa báo phát thanh

Khái niệm báo chí khởi nguyên được dùng để chỉ kênh truyền thông đại chúng,
truyền tải, phát tán thông điệp định kỳ bằng kỹ thuật in ấn trên vật liệu giấy và mực
với ký hiệu ngôn tự. Ngày nay, báo chí được dùng để chỉ các kênh truyền thông đại
chúng chuyên phản ánh các sự kiện và vấn đề thời sự, xuất bản định kỳ đều đặn. Do đó
báo chí nói chung được hiểu bao gồm báo chí in ấn, báo phát thanh, báo chí truyền
hình và các loại báo chí điện tử khác.
Báo phát thanh được hiểu như một kênh truyền thơng, một loại hình báo chí điện
tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng thế giới âm thanh phong phú sinh động
(lời nói, tiếng động, âm nhạc) để chuyển tải thơng điệp nhờ sử dũng kỹ thuật sóng điện
từ và hệ thống truyền thanh, tác động vào thính giác (vào tai) của cơng chúng. Đối với
báo phát thanh có hai vấn đề vai trò, chức năng xã hội: Nghiên cứu vai trò xã hội báo
chí tức là tìm hiểu tính chất phụ thuộc của nó và hệ thống xã hội, vào thiết chế chính
trị xã hội; tìm hiểu, nghiên cứu tính mục đích của hoạt động báo chí nói chung và phát
5


thanh nói riêng. Hai vấn đề này liên quan gắn bó và quy định lẫn nhau. Mối quan hệ

phụ thuộc chặt chẽ bao nhiêu thì tính mục đích càng rõ ràng bấy nhiêu.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển báo phát thanh
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển báo phát thanh trên thế giới

Cơng nghiệp hóa trong thế kỷ XIX thúc đẩy các ngành kỹ thuật phát triển đã tạo
cơ sở vật chất cho sự đổi mới kỹ thuật truyền thông đại chúng. Vào đầu thế kỉ XX, sử
thay đổi lớn lao về nhận thức là truyền thông phát triển nhờ kỹ thuật không ngừng
được nâng cao. Nguồn gốc sâu xa của radio là ý tưởng ban đầu của Ambrose Fleming
- cố vấn khoa học của nhà bác học Halia Marconi - là tin truyền không cần dây. Những
tiến bộ vật lý sau đó với các tên tuổi của các nhà khoa học nổi tiếng Faraday, Maxwell
mở ra khả năng về mặt lý thuyết cho việc phát hiện sóng điện từ.
Năm 1895, nhà bác học Nga Alexandre S.Popop đã phát minh ra angten vô tuyến
điện, và ngày 7/5 năm đó ơng giới thiệu sóng điện tử đầu tiên tại Hội nghị vật lý và
hóa học tại Saint Peterbourg. Cùng thời gian đó, nhà bác học Ý G.Marconi tiến hành
thí nghiệm truyền tín hiệu vơ tuyến đầu tiên với khoảng cách 400m, rồi 2000m. Ngay
khi mới ra đời, radio đã đứng trước chân trời rộng mở của sự phát triển, là sự kết hợp
chặt chẽ giữa các nhà khoa học, kỹ sư chế tạo, nhà sản xuất công nghiệp, đã tạo ra sự
bùng nổ về kỹ thuật truyền thông.
6


Quá trình phát triển kỹ thuật phát thanh trên thế giới có hai bước nhảy vọt quan
trọng. Đó là những năm bốn mươi khi phát thanh FM ra đời, phát triển và cuối thế kỷ
XX phát thanh số DAB ra đời và hiện nay đang đi vào cuộc sống. Phát thanh FM ra
đời đánh dấu bước nhảy quan trọng về chất lượng sóng và chi phí đầu tư, khai thác rẻ
hơn, gọn nhẹ hơn. Để phát huy tối đa vùng phủ sóng và bảo đảm thuận lợi cho người
nghe, các nhà sản xuất, quản lý phát thanh đã kết hợp hài hịa giữa sóng trung, sóng
ngắn và cực ngắn FM. Phát thanh số khắc phục được những nhược điểm cơ bản của
phát thanh truyền thống như: can, nhiễu, méo, pha đinh trong truyền sóng, giao thoa và
đặc biệt giải quyết được sự chật chội, chen chúc của giải tần số. Tới năm 2000 có 34

nước và khu vực trên thế giới phát thử và thường xuyên phát thanh số. Singapore là
nước đi đầu về phát thanh số ở khu vực châu Á.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, thực tiễn và lý luận phát thanh nghiêng về khái
niệm “thông tin tức thì”. Đài phát thanh các nước Anh, Mỹ, Pháp, Canada, Đức, Thụy
Điển, Trung Quốc… đều có bản tin ngắn 5 phút xen kẽ các chương trình phát thanh để
kịp thời truyền thẳng những thông tin mới nhất đến công chúng.
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển báo phát thanh ở Việt Nam

7


Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam chưa có đài phát thanh với
tính chất là cơ quan truyền thơng đại chúng của một quốc gia có chủ quyền, mà chỉ có
đài phát thanh tư nhân với cơng suất nhỏ để quảng cáo thương mại hoặc daid của thực
dân Pháp phục vụ chính sách cai trị.
Sau thành cơng của cách mạng tháng Tám trên cả nước, Chủ tịch Hồ Chính Minh
chỉ thị cho Bộ Nội vụ (do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng), Bộ Tuyên truyền
(do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng) là phải sử dụng các phương tiện truyền
thông, đặc biệt cần xây dựng ngay một Đài phát thanh Quốc gia để phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân để nhân dân thế giới hiểu biết và ủng hộ nước Việt Nam độc
lập.
Ngày 7/9/1945, tại trụ sở biên tập số 4 Đinh Lễ, đồng chí Trần Lâm chủ trì cuộc
họp, hơn 10 người họp bàn và đưa ra quyết định với 3 vấn đề quan trọng:
Một là, lấy ngày 7/9/1945 làm ngày khánh thành Đài phát thanh Quốc gia, vì lúc
này máy phát sóng, studio đã hồn tất. Máy đã được thử nhiều lần, đảm bảo chất
lượng.
Hai là, đặt tên cho Đài phát thanh Quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam. Dưới ách
đô hộ của thực dân Pháp, nước Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới, vì vậy tên
Đài khẳng định tên nước ta là nước Việt Nam. Đài xưng danh là “Tiếng nói Việt Nam”
khơng chỉ thể hiện phương tiện truyền tải thơng tin là tiếng nói mà cịn có ý nghĩa sâu

sắc hơn là khẳng định chủ quyền, văn hóa Việt Nam, tiếng nói Việt Nam.
Ba là, chọn nhạc hiệu. Có ba bài hát được đề cử làm nhạc hiệu là Tiến quân ca,
Chiến sỹ Việt Nam, Diệt phát xít. Cuối cùng hội nghị nhất trí chọn bài hát Diệt phát xít
của nhạc sỹ Nguyễn Đình Thi làm nhạc hiệu chính thức của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong giai đoạn 1954 - 1975, nhà nước thực hiện các kế hoạch đối với Đài Tiếng
nói Việt Nam:
8




Xây dựng cơ sở kỹ thuật



Tăng cường lực lượng, phát triển nguồn nhân lực



Tổ chức lại bộ máy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới



Phát triển hệ thống chương trình phát thanh
Truyền hình Việt Nam ra đời trong lịng Đài Tiếng nói Việt Nam:



7/9/1970, kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Đài Tiếng nói Việt Nam, lãnh đạo
Đài cho phát thử nghiệm chương trình truyền hình đầu tiên với chương trình

Thời sự 15 phút và Ca nhạc 30 phút



30/4/1975, đồn cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của Ban Truyền hình vào
tiếp quản trọn vẹn Đài Truyền hình chính quyền Sài Gòn



16/6/1976, nhân dịp khai mạc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất cả nước,
Đài Truyền hình Trung ương chính thức phát sóng hàng ngày. Đài Tiếng nói
Việt Nam đổi tên thành Đài Phát thanh Truyền hình Việt Nam. Tháng 9/1987
thành lập Ủy ban Phát thanh Truyền hình Việt Nam. Đài Tiếng nói Việt Nam và
Đài Truyền hình Việt Nam hoạt động độc lập với nhau, trong sự chỉ đạo của Ủy
ban.

Đài Tiếng nói Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1986 với nhiều biến động quân
sự, chính trị, kinh tế, xã hội ảnh hưởng trực tiếp.
Trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2000) đầy sôi động, phát triển mạnh mẽ theo
hướng phát thanh hiện đại, Đài Tiếng nói Việt Nam đã rút được kinh nghiệm, phát huy
truyền thống tốt đẹp, lựa chọn con đường đi trong thời đại bùng nổ thông tin là “đổi
mới và nâng cao chất lượng nội dung các chương trình trên sóng phát thanh cùng với
đổi mới mạnh mẽ công nghệ phát thanh theo hướng hiện đại hóa làm trục xoay trọng
tâm cho tồn bộ hoạt động của Đài Tiếng nói Việt Nam”.
Trong 15 năm đổi mới, Đài Tiếng nói Việt Nam đã 7 lần điều chỉnh, bổ sung, mở
thêm hệ chương trình phát thanh (4 hệ đối nội, trong đó có hệ chương trình tiếng dân

9



tộc thiểu số, 2 hệ đối ngoại) với tổng thời lượng 141 giờ chương trình/ngày, tăng hơn
trước thời kỳ đổi mới 3 lần.
Đến nay, Đài Tiếng nói Việt Nam hàng ngày có 452 chương trình phát thanh (kể
cả phát lại), tăng gấp 8 lần. Lượng thư thính giả tăng gấp đôi so với trước, mỗi tháng
nhận được hơn 500 thư từ 80 nước trên thế giới.
1.3. Đặc điểm – đặc tính báo phát thanh
Trong tương quan so sánh với những loại hình báo chí khác, báo phát thanh có những
đặc điểm cơ bản được thể hiện qua các yếu tố sau đây:
Tỏa sóng rộng khắp

Là sự quảng bá nhờ phủ sóng điện từ trên phạm vi rộng lớn với tốc độ tương
đương tốc độ ánh sáng (xấp xỉ 300.000km/s), có thể nói, phát thanh khơng có giới hạn
về khoảng cách, vì thế nó mang tính xã hội hóa rất cao. Thơng tin được xã hội hóa
cũng sẽ có khả năng tạo ra hành động mang tính xã hội hóa.

10


Thông tin nhanh, tiếp nhận đồng thời

Thông tin được truyền qua sóng điện từ và hệ thống truyền thanh có thể rút ngắn mọi
khoảng cách ở phạm vi toàn cầu. Trong một số trường hợp (tường thuật trực tiếp, cầu
truyền thanh…), phát thanh có thể ngay lập tức thơng báo cho cơng chúng biết được
về sự kiện ở chính thời điểm nó đang diễn ra.
Thơng tin phụ thuộc vào quy luật thời gian
Khi đọc báo, người đọc có thể chủ động xem những tác phẩm mà mình quan tâm
ở bất cứ trang nào. Khơng giống như vậy, thính giả phát thanh bị phụ thuộc hoàn toàn
vào quy luật của quá trình thơng tin radio. Học phải nghe chương trình một cách tuần
tự từ đầu đến cuối một cách hoàn toàn bị động. Đặc điểm này trước đây đã từng được
các nhà nghiên cứu phát thanh gọi là “chỉ nghe một lần” (với ý nghĩa là trong một

chương trình phát thanh, thính giả chỉ được nghe mỗi thơng tin phát ra một lần theo
trình tự thời gian)

11


Sống động, riêng tư, thân mật

Đặc điểm này thể hiện rõ nhất khi so sánh giữa báo phát thanh với báo in. Đối
với phát thanh, cơng chúng thính giả được nghe thông tin qua giọng đọc, nghĩa là
thông tin được truyền đến với họ thơng qua giọng nói của những con người cụ thể, nên
gắn liền với những yếu tố có kỹ năng nói như: cao độ, cường độ, đặc biệt là tiết tấu,
ngữ điệu… Giọng nói tự nó đã có sức thuyết phục bởi tính chất sơi động và có thể tạo
ra sự hấp dẫn, lơi kéo thính giả đến với chương trình.

12


Sử dụng âm thanh tổng hợp (lời nói, tiếng động và âm nhạc)

Công chúng của báo phát thanh là rộng lớn và đa dạng. Đó là quần thể dân cư
khơng phân biệt trình độ học vấn. Mọi đối tượng (trừ người bị điếc) đều có thể tiếp
nhận thơng tin qua radio. Âm thanh khơng bị phụ thuộc vào hình ảnh hoặc chữ in nên
có nhiều thuận lợi trong khai thác sử dụng. Âm thanh có thể kích thích trí tưởng tượng,
gây khơng khí và gợi lên tâm tâm trạng...
1.4. Chức năng xã hội báo phát thanh
Báo chí là hiện tượng xã hội đa chức năng, khó có thể liệt kê rạch rịi các chức
năng, vai trị của nó trong cuộc sống. Mặt khác các vai trò này trong thực tế lại đan
xen, gắn chặt với nhau, thể hiện ở trong nhau và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu người ta thường trừu tượng hóa và tổng hợp thành những chức


13


năng xã hội nhất định. Trong tình hình và điều kiện hiện nay, chúng ta có thể tìm hiểu
các chức năng cơ bản sau đây của báo phát thanh:
Chức năng thơng tin
Có thể nói thơng tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí
nói chung và của báo phát thanh nói riêng. Thơng tin là nhu cầu sống còn của con
người và xã hội, xã hội càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thông tin
càng cao. Với cuộc cách mạng công nghệ thông tin hiện nay mọi sự bùng nổ truyền
thông đại chúng cị đang ở phía trước, thơng tin khơng chỉ là nhu cầu mà còn là sức
mạnh đột phá của sự phát triển.
Nhu cầu thông tin nảy sinh và đồng hành với sự ra đời, phát triển của xã hội.
Nhu cầu này thể hiện đời sống tinh thần của con người không chỉ nhằm phục vụ đời
sống tinh thần. Tuy nhiên đáp ứng nhu cầu thông tin trong quá trình thực hiện chức
năng thơng tin cần chú ý những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, đời sống tinh thần của con người và xã hội rất phong phú, đa dạng nên
việc đáp ứng nhu cầu thơng tin trên sóng phát thanh cũng phải rất đa dạng và phong
phú. Thực tế chứng minh rằng tờ báo nào, chương trình phát thanh nào cung cấp thông
tin phong phú, đa dạng cho công chúng thì tờ báo ấy, chương trình phát thanh ấy được
nhiều người hâm mộ, được đơng đảo cơng chúng đón đọc, đón nghe. Và tính chất
phong phú, đa dạng này phù hợp với nhóm cơng chúng trong những tình hình và điều
kiện cụ thể, trong những hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai, thơng tin phải nhanh chóng và hợp thời. Đây là hai yếu tố tạo nên giá trị
của thông tin báo chí. Thơng tin nhanh nhưng phải hợp thời và tình hợp thời sẽ tạo ra
khả năng đem lại hiệu quả tác động của thông tin. Nếu thông tin nhanh, nhưng khơng
hợp thời thì nhiều khi sẽ bất lợi. Muốn đảm bảo thơng tin nhanh chóng và hợp thời địi
hỏi người làm báo phát thanh phải am hiểu tình hình, nắm được nước đi, nhịp thở của
cuộc sống và những u cầu tun truyền trong q trình thơng tin.


14


Thứ ba, thông tin phải trung thực. Một trong những ngun tắc của hoạt động
báo chí và truyền thơng đại chúng là đảm bảo tính khách quan và chân thật. Và do đó
thơng tin cần phải trung thực. u cầu tính trung thực địi hỏi nhà báo vừa phải đảm
bảo tính khách quan và chân thực trong q trình phản ánh cuộc sống, vừa đảm bảo
tính mục đích của thơng tin.
Yêu cầu tính trung thực là một thử thách, là thể hiện bản lĩnh chính trị, bản lĩnh
nghề nghiệp và đạo đức của người làm báo. Khơng vì lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ
mà cơng bố hoặc khơng cơng bố một thơng tin nào đó; khơng xun tạc sự thật, khơng
bóp méo dư luận, khơng có bé xé ra thành to là một số yêu cầu cụ thể về tính trung
thực trong thơng tin.
Thứ tư, thơng tin phải phù hợp với hệ thống giá trị văn hóa và đạo lý của dân tộc,
phù hợp với phát triển và phù hợp với sự phát triển. Yêu cầu này ngày càng trở nên
cấp thiết trong điều kiện tồn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra nhanh chóng và
mạnh mẽ trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Thứ năm, thông tin phải nhằm vào việc định hướng dư luận xã hội, định hướng
nhận thức, thái độ và hành vi công chúng. Đây là yêu cầu xuyên suốt, bao trùm mọi
hoạt động thông tin của truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo phát thanh. Định
hướng là nhu cầu của nhận thức và của hoạt động thơng tin báo chí, vì vậy định hướng
trong thơng tin khơng chỉ xuất phát từ bản chất hoạt động chính trị của báo chí mà còn
xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống. Yêu cầu định hướng trong q trình thực hiện
chức năng thơng tin trên sóng phát thanh địi hỏi nhà báo phải lựa chọn vấn đề thời sự,
lựa chọn sự kiện và chi tiết để thông tin, lựa chọn ngôn ngữ, cách thức phản ánh.
Những yêu cầu trên đây đòi hỏi người làm báo cần có năng lực phân tích sự kiện
trong bối cảnh và trong các mối quan hệ tác động xã hội của nó, cả trước mắt và lâu
dài. Những tính chất tác động, chiều hướng phát triển và hiệu quả của xã hội hồn tồn
khác nhau. Khơng phải cái mới nào chúng ta cũng cổ vũ một cách nhiệt tình và khơng

phải cái lạ nào cũng thơng tin. Tuy nhiên trong thực tế, cái gì được thơng tin và cái gì
15


khơng được thơng tin là điều dễ hiểu vì đã có luật pháp quy định, điều chỉnh. Nhưng
cái gì nên hay không nên thông tin mới cần đến bản lĩnh và tính mẫn cảm chính trị của
nhà

báo.
Chức năng tư tưởng
Chức năng này còn được gọi là chức năng tuyên truyền, tức là nhằm vào việc

truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp, của lực lượng chính trị mà cơ quan phát thanh đại
diện. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mục đích của chức năng này là báo chí nói chung
và báo phát thanh nói riêng góp phần tích cực và có hiệu quả làm cho hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chiếm lĩnh tuyệt đối trong đời sống tinh thần
của nhân dân. Tính chất phức tạp này do tính chất của cuộc sống cách mạng xã hội chủ
nghĩa và do tính chất đặc thù của đối tượng lĩnh vực tư tưởng quy định.
Nội dung, nhiệm vụ cơ bản của chức năng tư tưởng là góp phần xây dựng lý
tưởng xã hội thống nhất - lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong cộng đồng dân cư, đặc biệt
là trong nhóm cơng chúng thanh niên. Đó là yếu tố như sợi chỉ đỏ xuyên suốt và liên
kết các nhóm người thành một khối thống nhất và là động lực thống nhất, ổn định đời
sống tinh thần của xã hội, và nếu không thống nhất được sức mạnh tinh thần thì khó có
thể khai thác, tổ chức được sức mạnh vật chất hay mọi tiềm lực của xã hội.
Vai trò, chức năng tư tưởng của báo phát thanh biểu hiện ở việc bám sát đời sống
thực tiễn, kịp thời biểu dương cổ vũ những ý tưởng và hành vi tích cực, tiến bộ, phê
phán những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc trong nhận thức và hành động nhằm bảo vệ các
quan điểm tư tưởng, đường lối, chính sách và luật pháp của Đảng và Nhà nước.

16



Chức năng khai sáng, giải trí

Khai sáng, giáo dục là vai trò xã hội to lớn của báo phát thanh. Khái niệm giáo
dục có thể được hiểu theo nhiều cấp độ khác nhau:
Thứ nhất, đó là q trình hình thành nhân cách do ảnh hưởng của những tác động
chủ quan và khách quan, “vơ tình cũng như hữu ý” của ngoại cảnh đối với các cá thể
và các nhóm xã hội.
Thứ hai, giáo dục được hiểu là hoạt động có mục đích của hệ thống giáo dục xã
hội tác động có kế hoạch, có hệ thống đến với con người với tư cách là đối tượng giáo
dục. Do vậy đòi hỏi nhà báo phát thanh có nền tảng tri thức dày dặn và phong phú, có
phương pháp luận khoa học và phương pháp nghiên cứu, phân tích đánh giá các sự
kiện, vấn đề thời sự và vấn đề lịch sử một cách đúng đắn.

17


Thứ ba, giáo dục được hiểu là hoạt động có kế hoạch, có tổ chức với nội dung và
phương pháp phù hợp, với đội ngũ các nhà sư phạm và hệ thống cơ sở kỹ thuật nhằm
tác động vào nhóm đối tượng được lựa chọn, xác định theo mục tiêu cụ thể. Các
phương tiện truyền thơng đại chúng nói chung, phát thanh nói riêng đã, đang và sẽ can
thiệp mạnh mẽ và có hiệu quả đến q trình giáo dục trong nhà trường.
Giải trí có thể được coi là u cầu chức năng và là lợi thế vốn có của báo phát
thanh. Giải trí trên sóng phát thanh, trước hết nhằm vào việc giúp mỗi người sử dụng
hợp lý thời gian rỗi, cân bằng trạng thái tâm lý và có thể tái sản xuất sức lao động.
Trên tổng thể, các chương trình phát thanh có thể điều hịa tâm lý xã hội một cách có
hiệu quả, đặc biệt là những “tình huống có vấn đề”.
Vai trị của giải trí thể hiện rõ ràng, đậm nét qua thưởng thức âm nhạc trên sóng
phát thanh. Nhưng dù giải trí ở cấp độ nào, ở cung bậc nào thì mục đích tác động của

nó đều mang tính giáo dục, có lợi ích cho công chúng trong sự phù hợp với yêu cầu
phát triển và nhu cầu thưởng thức văn hóa của cộng đồng. Giải trí đang trở thành nhu
cầu bức xúc hàng giờ của công chúng phát thanh trong điều kiện kinh tế thị trường,
trong xã hội hiện đại.
Chức năng tổ chức - quản lý xã hội
Trong cộng đồng xã hội có thể thấy mỗi con người tồn tại và hoạt động thể hiện
dưới hai tính chất: Tính chất cá thể và tính chất xã hội. Hai bình diện này ln có quan
hệ chặt chẽ, biện chức với nhau. Chương trình phát thanh tác động vào mỗi cá nhân
trên cả hai bình diện ấy, vừa góp phần làm phong phú thêm tính chất cá thể, vừa tăng
cường tính chất xã hội của mỗi con người, và xét cho cùng báo chí nói chung và phát
thanh nói riêng nhằm vào việc hình thành tính tích cực xã hội, giúp mỗi cá nhân ý thức
được vai trị, vị thế xã hội của mình và tham gia có hiệu quả vào tiến trình phát triển xã
hội.
Trong phát thanh truyền thống, trước mặt phát thanh viên, trên bàn ghi âm trong
phòng bá âm, người ta ghi dòng chữ “Chú ý, bạn đang ngồi với hàng triệu người nghe”
18


để nhắc nhở người làm chương trình hãy cẩn trọng. Trong phát thanh hiện đại, dòng
chữ ấy được thay bằng: “Chú ý, hãy nói như nói với người bạn”. Nói như vậy với
người bạn là nhằm tranh thủ lôi kéo, thuyết phục hay chia sẻ một vấn đề nào đó. Nói
với một người nhưng mục đích của chương trình là gắn kết triệu người lại với nhau vì
một mục đích chung, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội nào đó. Ngay cả những
chương trình, tác phẩm đề cập đến vấn đề có tính chất riêng tư cũng ln nhằm tăng
cường tính liên kết xã hội và nhằm giải quyết vấn đề xã hội.
Như vậy, cũng như các kênh truyền thơng đại chúng khác, báo phát thanh có vai
trị quan trọng trong tiến trình tham gia tổ chức xã hội. Bởi vì khái niệm tổ chức có thể
được hiểu là khơi dậy năng lực, liên kết các yếu tố, bộ phận trong mối quan hệ nhất
định - trong một hệ thống để tạo ra sức mạnh và hướng vào mục đích được xác định
nhằm tăng cường tính ưu việt và hiệu quả của quá trình vận hành, hoạt động.


Chức năng chỉ đạo, giám sát xã hội
Chức năng chỉ đạo của báo chí, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của chủ thể quản lý,
lãnh đạo nhằm thúc đẩy công việc theo mục tiêu đã đề ra, uốn nắn những lệch lạc hay
cổ vũ mọi người tập trung thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch trọng tâm trong từng thời
gian.
Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát xã hội, một số người chủ yếu nhấn
mạnh vai trò đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, phanh phui các vụ việc không lành
mạnh ra cơng luận. Điều đó thể hiện sự bức xúc của dư luận xã hội trong tình hình
hiện nay. Tuy nhiên chức năng giám sát được hiểu bằng cả việc kịp thời biểu dương
các hiện tượng tích cực, phát hiện và cổ vũ nhân tố mới…
1.5. Các yếu tố chi phối hiệu quả của báo phát thanh
Lời nói - Tiếng động - Âm nhạc chính là âm thanh tổng hợp cũng như phương
thức tác động duy nhất của báo phát thanh tới thính giác của đối tượng tiếp nhận. Nói
cách khác, lời nói sinh động, âm nhạc chọn lọc và tiếng động phong phú là những
19


phương tiện cơ bản để báo phát thanh dựng lên thế giới sinh động, chân thực và gần
gũi với cuộc sống đời thường qua hàng ngàn tin, bài với thông tin đa diện, đem đến
cho thính giả những bức tranh sống động về đời sống hiện thực, vừa đáp ứng nhu cầu
được thông tin ngay lập tức về cái mới, đồng thời làm phong phú tình cảm, tinh thần
của hàng triệu thính giả.

Lời nói
Lời nói là ký hiệu ngơn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp sinh động nhất, là ký
hiệu “đặc biệt người”, bởi vì nó khơng chỉ có tính chất thơng báo mà cịn bộc lộ những
sắc thái nhất định nào đó. Lời nói chiếm một tỷ lệ lớn trong âm thanh tổng hợp. Đây là
dạng ký hiệu đặc trưng nhất tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa báo phát thanh với các loại
hình báo chí khác.

Lời nói có thể được thực hiện bởi nhiều đối tượng khác nhau như:
Lời nói của phát thanh viên: Là những giọng đọc chuẩn, chất giọng tốt.
Lời nói của phóng viên: Là người chứng kiến sự kiện, lựa chọn thẩm định sự
kiện, đồng thời là người tái hiện lại sự kiện ấy.

20



×