Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

tiểu luận: Thông tin bất cân xứng và cấu trúc tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.94 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



Tên đề tài:
THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH





Nhóm thực hiện : Nhóm 1
Số thứ tự : 01 - 20
Lớp : Đêm 3
Khóa : 22
Giảng viên hướng dẫn : TS. Diệp Gia Luật




TP.HCM , Tháng 12/2012
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

1
Mục Lục

1


LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH 2

1.1

Cấu Trúc Tài Chính 2

1.1.1

Khái niệm cấu trúc tài chính doanh nghiệp 2

1.1.2 Cấu trúc vốn tài sản kinh doanh 2
1.1.3

Cấu trúc nguồn vốn tài trợ hoạt động kinh doanh 3

1.2

Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của doanh nghiệp: 4

1.3

Cấu trúc tài chính của một số quốc gia trên thế giới: 6

1.3.1

Các nước phát triển 7

1.3.2

Các nước đang phát triển: 9


2

THÔNG TIN BẤT ĐỐI XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH 9

2.1

Khái niệm về thông tin bất cân xứng 9

2.2

Hậu quả của thông tin bất cân xứng đến thị trường và cấu trúc tài chính: 10

2.3

Chi Phí Giao Dịch và Cấu Trúc Tài Chính 10

2.3.1

Khái niệm chi phí giao dịch: 10

2.3.2

Các hình thức của chi phí giao dịch: 11

2.3.3 Các yếu tố đến giá chi phí giao dịch: 12
2.3.4 Vai trò của chi phí giao dịch với cấu trúc tài chính: 13
2.3.5

Các biện pháp giảm chi phí giao dịch: 14


2.4

Lựa Chọn Đối Nghịch 15

2.4.1

Khái niệm lựa chọn đối nghịch 15

2.4.2

Sự hình thành lựa chọn đối nghịch: 15

2.4.3

Các công cụ giải quyết sự lựa chọn đối nghịch: 16

2.5

RỦI RO ĐẠO ĐỨC VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH: 20

2.5.1

Khái niệm: 20

2.5.2

Rủi ro đạo đức và cấu trúc tài chính: 20

2.5.3


Các biện pháp giải quyết vấn đề rủi ro đạo đức: 23

3

VÍ DỤ VỀ ẢNH HƯỜNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐẾN CẤU TRÚC TÀI
CHÍNH 25

3.1 Ví dụ về Công ty dược Viễn Đông 25
3.2

Đánh giá thiệt hại 27

KẾT LUẬN 30
4

ĐỌC THÊM: 31

4.1

TRUNG TÂM THÔNG TIN TÍN DỤNG CIC ở Việt Nam (Credit Information Center)


Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

2
1 LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH
1.1 Cấu Trúc Tài Chính
1.1.1 Khái niệm cấu trúc tài chính doanh nghiệp
Cấu trúc tài chính doanh nghiệp là một hỗn hợp nợ và vốn được sử dụng để

tài trợ cho các hoạt động của nó. Cấu trúc này là một hỗn hợp trực tiếp ảnh hưởng
đến rủi ro và giá trị của doanh nghiệp. Mối quan tâm chính cho người quản lý tài
chính của công ty là quyết định bao nhiêu tiền được vay và hỗn hợp tốt nhất của nợ
và vốn chủ sở hữu. Người quản lý tài chính cũng phải tìm các nguồn ít tốn kém kinh
phí cho công ty để sử dụng.
Cấu trúc tài chính được chia thành số lượng dòng tiền của công ty cho các chủ
nợ và số tiền cho các cổ đông. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một hỗn hợp khác nhau tùy
thuộc vào nhu cầu và chi phí của mình. Vì vậy, mỗi công ty sẽ có tỷ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu của riêng nó. Ví dụ, một công ty có thể phát hành trái phiếu và sử dụng
số tiền thu được để mua cổ phiếu hoặc có thể phát hành cổ phiếu và sử dụng số tiền
thu được để trả nợ.
Cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp có thể được xem xét ở 2 góc độ là
cấu trúc vốn tài sản kinh doanh và cấu trúc nguồn vốn tài trợ hoạt động kinh doanh.
1.1.2 Cấu trúc vốn tài sản kinh doanh
Vốn tài sản kinh doanh là những phương tiện, tài sản, các yếu tố vật chất mà
một doanh nghiệp phải có để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình.
Cấu trúc vốn tài sản kinh doanh được thể hiện dưới nhiều hình thức vật chất
khác nhau, tùy theo công dụng tính năng và thời gian sử dụng. Cấu trúc vốn tài sản
kinh doanh tác động trực tiếp đến họat động kinh doanh, ảnh hưởng đển năng suất,
chi phí, giá thành các doanh nghiệp.
Vốn tài sản cấu trúc vừa là nhân tố đầu vào, vừa ảnh hưởng đến kết quả phân
phối thu nhập đầu ra của quá trình kinh doanh. Chính trong quá trình đó, vốn tài sản
là một nhân tố không thể thiếu được đối với hoạt động kinh doanh. VỐn tài sản sau
khi được đầu tư một thời gian thì được thu về để tiếp ứng cho chu lỳ kinh doanh tiếp
theo. Vốn tài sản không thể bị mất đi mà vốn luôn phải được bảo toàn và phát triển;
đây chính là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp thực hiện được quá trình tái sản
xuất đơn cũng như quá trình tái sản xuất mở rộng.
Xét theo công dụng và đặc điểm luân chuyển giá trị, vốn tài sản kinh doanh của
một doanh nghiệp bao gồm: vốn tài sản cố định, vốn tài sản lưu động.
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT


3
1.1.2.1 Vốn tài sản cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản cố
định (TSCĐ) phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các loại tài sản
dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đựơc gọi là TSCĐ khi và chỉ khi
tài sản đó hội tụ đủ đồng thời hai điều kiện: có thời gian sử dụng dài (trên 1 năm),
có giá trị lớn (tùy theo giá trị đồng tiền để xác định)
Gồm hai loại: tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất
cụ thể, như công trình kiến trúc, trang thiết bị, phương tiện vận tải… Tài sản cố định
vô hình là một dạng tài sản không có hình thái vật chất. Loại tài sản này gồm: bằng
phát minh sáng chế, chi phí đầu tư mua bản quyền, phần mềm vi tính, văn hóa doanh
nghiệp…
Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và luân chuyển dần dần từng
phần vào trong giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh doanh. Hay
nói cách khác, cứ sau mỗi chu lỳ kinh doanh, vốn cố định được tách thành hai phần:
một phần luân chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh này và phần
còn lại sẽ được “cố định” chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Cứ như thế cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng thì vốn cố định mới chấm dứt
một vòng tuần hoàn lưu chuyển giá trị.
1.1.2.2 Vốn tài sản lưu đông
Vốn tài sản lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu động của
doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của nó vào trong giá trị sản phẩm. Vốn lưu
động đựơc thu hồi toàn bộ một lần, sau khi doanh nghiệp tiêu thụ các hàng hóa dịch
vụ và kết thúc vòng tuần hoàn lưu chuyển của vốn.
1.1.3 Cấu trúc nguồn vốn tài trợ hoạt động kinh doanh
Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp là những nguồn lực tài
chính có trong nền kinh tế, được doanh nghiệp huy động, khai thác bằng nhiều
phương thức, cơ chế khác nhau, để đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động kinh

doanh trước mắt và lâu dài.
Như vậy, một cấu trúc nguồn vốn an toàn ổn định, hợp lý, linh hoạt sẽ mang lại
sự phát triển năng động và hiệu quả cho doanh nghiệp.
Nguồn vốn tài trợ được phân loại dựa trên các căn cứ sau
 Căn cứ vào phạm vi tài trợ:
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

4
- Nguồn vốn bên trong: trích từ lợi nhuận có được từ kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp
- Nguồn vốn bên ngoài” bao gồm nguồn vốn liên doanh, liên kết, phát hành
thêm cổ phiếu, trái phiếu, tính dụng ngân hàng.
 Căn cứ theo thời gian tài trợ
- Nguồn vốn tài trợ ngắn hạn: tính dụng thương mại, các khoản chiếm dụng về
tiền lương, tiền thuế, tín dụng ngân hàng và các khoản phải trả…
- Nguồn vốn dài hạn: tín dụng ngân hàng dài hạn, phát hành trái phiếu, huy
động vốn góp cổ phần, liên doanh …
 Căn cứ vào tính chất sở hữu tài chính:
- Nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp: gồm vốn đóng góp ban đầu của chủ sở
hữu, nguồn vốn tài trợ từ lợi nhuận sau thuế, nguồn vốn bổ sung bằng cáchkết
nạp thêm các thành viên mới
- Nguồn vốn đi vay và chiếm dụng: gồm nguồn vốn tín dụng ngân hàng, tín
dụng thương mại, huy động bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp, các
nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền thuế chưa
nộp…
 Căn cứ vào hình thức huy động vốn:
- Nguồn vốn huy động dưới dạng tiền
- Nguồn vốn huy động dưới dạng tài sản hữu hình như máy móc thiết bị, nhà
xưởng, mặt bằng. Vốn góp dưới dạng tài sản vô hình như bằng pháp minh
sáng chế, kinh nghiệm

 Căn cứ vào tính pháp lý:
- Nguồn vốn huy động trên thị trường chính thức: nguồn lực tài chính được
huy động theo cơ chế, qui định cảu pháp lý, dưới sự kiểm tra giám sát của cơ
quan chức năng.
- Nguồn vốn huy động trên thị trường phi chính thức: như tín dụng nặng lãi,
đầu tư góp vốn với một pháp nhân không chính thức nhằm rửa tiền hoặc né
thuế.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của doanh nghiệp
1.2.1 Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh đo lường khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu như khả năng sinh lời tài sản (Return on Assets-
ROA), khả năng sinh lời trên doanh thu (tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu). Theo lý
thuyết trật tự phân hạng, nhà quản trị doanh nghiệp bao giờ cũng có thông tin về giá
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

5
trị doanh nghiệp tốt hơn nhà đầu tư bên ngoài. Sự bất cân xứng về thông tin này dẫn
đến chi phí huy động vốn từ bên ngoài sẽ cao hơn. Vì thế, nhà quản trị có xu hướng
ưu tiên sử dụng các nguồn vốn nội tại trước, rồi mới đến các nguồn vốn vay mượn
bên ngoài. Các nghiên cứu thực nghiệm của Pendey (2001), Huang and Song (2002),
Braduri (2002) ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi cho thấy hiệu quả kinh doanh
có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với tỉ suất nợ. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyên
(2006) trên các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng chỉ ra rằng hiệu quả kinh doanh có
mối quan hệ tỉ lệ nghịch với tỉ suất nợ nhưng không có ý nghĩa thống kê. Ở các nước
đang phát triển, nhất là các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, vấn đề
bất cân xứng về thông tin càng trầm trọng, vì thế các nhà quản lý có xu hướng giữ
lại lợi nhuận để tài trợ cho tài sản của mình, vì vậy, giả thiết đặt ra là: “Cấu trúc tài
chính tỉ lệ nghịch với hiệu quả kinh doanh.”
1.2.2 Qui mô của doanh nghiệp
Qui mô của doanh nghiệp có thể được đo lường bằng số lượng nhân viên, tổng

tài sản, hay tổng doanh thu. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp niêm yết có qui mô lớn
thường là những doanh nghiệp do nhà nước nắm cổ phần chi phối, vì vậy những
doanh nghiệp này có nhiều cơ hội huy động các nguồn vốn từ bên ngoài hơn, nhất là
các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước. Do đó, giả thiết được đặt ra là: “Cấu
trúc tài chính tỉ lệ thuận với qui mô của doanh nghiệp.”
1.2.3 Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh thường được đo lường thông qua độ lệch chuẩn của lợi
nhuận, lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Khi rủi ro kinh doanh càng lớn, niềm tin của
các nhà đầu tư vào doanh nghiệp không cao, vì vậy khả năng tiếp cận các nguồn vốn
từ bên ngoài thấp. Vì vậy, giả thiết đặt ra là: “Cấu trúc tài chính có quan hệ tỉ lệ
nghịch với rủi ro kinh doanh.”


1.2.4 Cấu trúc tài sản
Cấu trúc tài sản được đo lường thông qua chỉ tiêu tỉ lệ TSCĐ trên tổng tài sản.
Về mặt lý thuyết, khi tỉ lệ tài sản cố định chiếm tỉ trọng lớn, doanh nghiệp có cơ hội
thế chấp các tài sản này để tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, Berger và
Urdell (1994) lại cho rằng doanh nghiệp có mối quan hệ thân thiết với các nhà tài trợ
vốn thì có thể vay mượn mà không cần phải cung cấp nhiều bằng chứng thế chấp.
Điều này hoàn toàn có thể xảy ra trong điều kiện của Việt Nam. Vì thế có thể giả
thiết là: “Cấu trúc tài chính có quan hệ tỉ lệ nghịch với cấu trúc tài sản.”


Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

6
1.2.5 Tỷ suất lãi vay
Các doanh nghiệp chế biến thủy sản Khánh Hóa khi thực hiện việc vay nợ,
doanh nghiệp quan tâm đến lãi suất vay nợ. Khi lãi suất vay nợ gia tăng thì khuynh
hướng sử dụng vốn vay nợ của các doanh nghiệp có chiều hướng giảm dần, tức là

làm hạn chế khả năng vay nợ của doanh nghiệp. Từ đó chúng ta có giả thiết rằng:
“tỷ suất lãi vay có quan hệ ngược chiều với cấu trúc tài chính.”


1.2.6 Cơ hội tăng trưởng
Các doanh nghiệp chế biến thủy sản Khánh hòa có tốc độ tăng trưởng càng
lớn có khuynh hướng sử dụng nợ cao hơn các doanh nghiệp có cơ hội tăng trưởng
thấp. Kết quả này phù hợp với thực tế hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đứng trước
những cơ hội phát triển, hội nhập do xu hướng phát triển tích cực của nền kinh tế tạo
ra, sẽ thúc đẩy doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn vốn vay nợ bên ngoài để đầu tư
khai thác cơ hội kinh doanh thuận lợi đó. Trong trường hợp này, hiệu ứng đòn cân
nợ sẽ phát huy tác dụng tích cực làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Như vậy có thể
kết luận rằng: “Cơ hội tăng trưởng có quan hệ thuận chiều với cấu trúc tài
chính.”


1.3 Cấu trúc tài chính của một số quốc gia trên thế giới
Các quốc gia trên thế giới với hệ thống tài chính khá phức tạp về mặt cả về
mặt cấu trúc lẫn chức năng. Với nhiều định chế khác nhau như: ngân hàng, công ty
bảo hiểm, quỹ tương hỗ, thị trường chứng khoán và trái phiếu v.v được chính phủ
điều tiết. Hệ thống tài chính chuyển hàng tỷ đô la mỗi năm từ chủ thể tiết kiệm sang
chủ thể có cơ hội đầu tư. Cấu trúc tài chính có thể được hiểu là cơ cấu của các kênh
trung chuyển vốn này, hay cũng có thể hiểu, đó là cơ cấu vốn trong các doanh
nghiệp. Với tiếp cận đó, chúng ta cùng xét 4 nhóm chính trong cấu trúc vốn bên
ngoài của doanh nghiệp:
 Nợ ngân hàng chủ yếu gồm nợ từ các định chế nhận tiền gửi;
 Nợ phi ngân hàng chủ yếu gồm nợ từ các trung gian tài chính khác;
 Trái phiếu gồm các chứng khoán nợ dễ bán như trái phiếu doanh nghiệp và
thương phiếu.
 Cổ phiểu gồm vốn chủ sở hữu mới phát hành (từ thị trường chứng khoán).

Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

7
1.3.1 Các nước phát triển


Biểu đồ cấu trúc tài chính của các nước đang phát triển
Căn cứ vào các biểu đồ sử dụng vốn bên ngoài của các nước Hoa Kỳ, Đức,
Nhật và Canada trong giai đoạn 1970-2000, có thể đưa ra một số nhận xét:
Cổ phiếu không phải là nguồn tài chính bên ngoài quan trọng nhất với
doanh nghiệp: giới truyền thông thường tập trung vào thị trường cổ phiếu. Tuy
nhiên, thị trường cổ phiếu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong nguồn vốn bên ngoài với các
doanh nghiệp.


Hoa Kỳ

Đức Nhật
Canada






Cổ phiếu 11% 8% 5% 12%






Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

8

Phát hành chứng khoán nợ và chứng khoán vốn không phải là nguồn tài trợ
chính cho hoạt động của doanh nghiệp: chứng khoán dễ bán, gồm cổ phiếu và trái
phiếu cung cấp ít hơn một nửa vốn bên ngoài để tài trợ cho hoạt động doanh nghiệp.
Việc phát hành chứng khoán không phải là nguồn tài chính quan trọng nhất. Hai điều
này có thể được lý giải là do thông tin bất cân xứng – tình huống xảy ra đối với một
giao dịch, khi bên cầu vốn nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của
dự án đầu tư hơn so với bên cung vốn, khiến cho bên cung vốn không sẵn lòng đầu
tư.


Hoa Kỳ

Đức Nhật
Canada






Chứng khoán 43% 15% 14% 27%







Tài chính gián tiếp - qua trung gian tài chính - quan trọng hơn tài chính trực
tiếp - doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp từ người cho vay trong thị trường tài
chính: từ năm 1970, chưa tới 5% trái phiếu doanh nghiệp và thương phiếu được phát
hành mới và ít hơn một phần ba cổ phiếu, được bán trực tiếp cho các hộ gia đình
Mỹ. Phần còn lại được mua chủ yếu bởi các trung gian tài chính như công ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ. Những con số này cho thấy tài chính trực tiếp
chiếm chưa tới 10% trong nguồn tài trợ bên ngoài ở các doanh nghiệp Mỹ. Ở các
quốc gia khác, chứng khoán là nguồn tài chính ít quan trọng hơn so với Mỹ, nên tài
chính trực tiếp còn kém quan trọng hơn tài chính gián tiếp nhiều.


Hoa Kỳ

Đức Nhật
Canada






Trung gian tài chính

56% 86% 86% 74%







Các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng, là nguồn vốn bên ngoài quan
trọng nhất tài trợ cho các doanh nghiệp: nguồn vốn bên ngoài chủ yếu cho doanh
nghiệp bao gồm các khoản cho vay của ngân hàng và trung gian tài chính phi ngân
hàng như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, và các công ty tài chính. Ở các nước công
nghiệp, các khoản vay ngân hàng là lớn nhất trong nguồn tài chính từ bên ngoài (hơn
70% ở Đức, Nhật Bản và hơn 50% ở Canada). Như vậy ngân hàng ở các nước này có
vai trò quan trọng nhất trong việc tài trợ cho hoạt động doanh nghiệp (các nước mà
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

9
việc thu thập thông tin về các công ty tư nhân khó khăn, thì thị trường chứng khoán
ít có vai trò quan trọng hơn trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng).


Hoa Kỳ

Đức Nhật
Canada






Nợ ngân hàng 18% 76% 78% 56%






1.3.2 Các nước đang phát triển
Hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường tài chính. Thị
trường cổ phiếu đã được chú ý phát triển trong thời gian gần đây, tuy nhiên, ở một
số nước, qui mô thị trường cổ phiếu vẫn rất hạn chế. Mức độ vốn hoá trên thị trường
cổ phiếu (của các công ty niêm yết) ở Indonesia 2008 là 19,3%; Phillipin là 31%,
Thái lan là 37,7%, con số này ở Việt Nam năm 2008 là 10,6% GDP, năm 2009 là
38%. Thêm vào đó là tính thiếu ổn định cả về qui mô và về chỉ số giá của
các thị trường này, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng chưa phát
triển.

2 THÔNG TIN BẤT ĐỐI XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH
2.1 Khái niệm về thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng là mức độ thông tin không phản ánh kịp thời, chính
xác, đầy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Theo nghĩa hẹp nó hàm ý có sự khác
biệt đáng kể về khối lượng và chất lượng thông tin đã được tích lũy đến thời điểm
xác định giữa các đối tượng liên quan (các đối tượng cùng giải quyết một vấn đề,
cùng tham gia một thị trường). Nghĩa là, một bên giao dịch có các thông tin liên
quan trong khi bên kia không có hoặc không có đầy đủ.
Thông tin bất cân xứng xảy ra có thể do nguồn thông tin khác nhau, thời điểm
nhận tin khác nhau và trình độ nhận thức, ứng xử với thông tin khác nhau. Nguyên
nhân là do những hạn chế của thị trường làm cho tốc độ truyền tin chậm, khả năng
tiếp nhận và xử lý thông tin kém. Ngược lại, thông tin bất cân xứng là nguyên nhân
dẫn đến thị trường kém hiệu quả.
Thông tin bất cân xứng vừa là khách quan vừa là chủ quan. Tính khách quan là do
cấp độ hiệu quả của thị trường gây ra những hạn chế về truyền tải và cập nhật thông
tin vào trong giá cả. Tính chủ quan là do sự thiếu nỗ lực cũng như chưa quan tâm
đầu tư tìm kiếm khai thác thông tin của các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp tham gia thị trường.

Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

10
2.2 Hậu quả của thông tin bất cân xứng đến thị trường và cấu trúc tài chính
Sự bất cân xứng thông tin là nguyên nhân chính khiến thị trường hoạt động
không hiệu quả. Khi đó một bên có đầy đủ thông tin trong khi một bên lại thiếu hụt
thông tin, do đó giá sẵn lòng mua sẽ không phản ánh đúng giá trị của đối tượng được
giao dịch.
Hậu quả của nó là chỉ những hàng hóa kém phẩm chất là đươc bán ra trên thị
trường. Tất nhiên một khi một bên đã nhận thấy đươc giá trị thật của hàng hóa thì
anh sẽ không mua nó, thị trường lao động trì trệ, vốn đổ vào những sản phẩm kém
hiệu quả.
Sự hiện diện của vấn đề bất cân xứng thông tin khiến thị trường chứng khoán
như thị trường cổ phiếu và giấy tờ có giá hoạt động không hiệu quả trong việc
chuyển vốn từ người tiết kiệm đến người đi vay làm những doanh nghiệp làm ăn
hiệu quả không thể huy động đươc vốn đúng với giá trị thực của doanh nghiệp. Một
thị trường mà mức độ bất cân xứng thông tin càng nghiêm trọng thì doanh nghiệp
càng khó huy động vốn từ thị trường chứng khoán.
2.3 Chi Phí Giao Dịch và Cấu Trúc Tài Chính
2.3.1 Khái niệm chi phí giao dịch
Theo Ronald Coase - năm 1937 trong bài viết “Bản chất của doanh nghiệp,
ông đã cho rằng “… các lý thuyết kinh tế nhấn mạnh đến vai trò hiệu quả của cơ chế
thị trường cạnh tranh, nhưng tại sao quá nhiều hoạt động kinh tế lại diễn ra ngoài
phạm vi của hệ thống giá của thị trường…” Coase kết luận rằng: “Phải tồn tại một
chi phí trên thị trường mà chỉ có cơ cấu doanh nghiệp có thể thể tiết kiệm được”.
Ngành Kinh tế học chi phí giao dịch cũng bắt đầu từ công trình này và một số bài
viết sau đó đã đưa ông đến giải thưởng Nobel năm 1991 về “khám phá và làm rõ tầm
quan trọng của chi phí giao dịch và quyền sở hữu trong các cấu trúc tổ chức và cách
vận hành của thị trường”. Theo Oliver Eaton Williamson (University of California,
Berkeley), chi phí giao dịch bao gồm thời gian và chi phí đàm phán, soạn thảo, và

thực thi các giao dịch hay hợp đồng. Chi phí này gia tăng khi đối tác trong giao dịch
hành động cơ hội, nghĩa là thu lợi cá nhân từ chi phí của người khác. Vì vậy chi phí
giao dịch sẽ bao gồm hậu quả của những hành vi cơ hội, sự yếu kém của người ra
quyết định cũng như là chi phí ngăn ngừa hành vi này.
Tóm lại, Chi phí giao dịch là chi phí liên quan đến tiền và thời gian để thực
hiện giao dịch tài chính như là: chi phí nghiên cứu thị trường, hoa hồng cho người
môi giới, chi phí quản lý, chi phí thông tin…. Thông thường, chi phí giao dịch xảy ra
trong điều kiện một khi giao kèo đã thực hiện, các đối tác phụ thuộc vào nhau, nỗ
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

11
lực các bên nhằm mang lại lợi ích cho chính mình, và không có khả năng lường
trước những ràng buộc hợp đồng hiệu quả để tính đến tất cả các tình huống bất
thường có thể xảy ra. Mỗi giao dịch này cũng làm tăng chi phí như đàm phán thêm,
trì hoãn hoặc ngưng trệ sản xuất. Từ đó, các nhà kinh tế học xem các chi phí tổ chức
và thực hiện các trao đổi là chi phí giao dịch.
Ví dụ: Giả sử bạn có $ 5.000 bạn muốn đầu tư, và bạn nghĩ về việc đầu tư vào
thị trường chứng khoán. Bởi vì bạn chỉ có $ 5,000, bạn có thể chỉ mua một số lượng
nhỏ cổ phiếu. Thậm chí nếu bạn sử dụng giao dịch trực tuyến, số lượng cổ phiếu bạn
mua là quá nhỏ mà hoa hồng cho nhà môi giới chiếm một tỷ lệ lớn so với giá cổ
phiếu bạn mua. Nếu thay vào đó bạn quyết định mua một trái phiếu, vấn đề thậm chí
còn tồi tệ hơn, vì mệnh giá nhỏ nhất đối với một số trái phiếu bạn có thể muốn mua
là lớn hơn $10.000, và bạn không có nhiều tiền để đầu tư. Bạn đang thất vọng và
nhận ra bạn sẽ không thể sử dụng các thị trường tài chính để kiếm được lợi nhuận.
Bạn có thể tự an ủi rằng bạn không phải người duy nhất bị cản trở bởi các chi phí
giao dịch cao. Đây là một thực tế: Chỉ có khoảng một nửa số hộ gia đình Mỹ sở hữu
chứng khoán. Bạn cũng phải đối mặt với một vấn đề khác vì chi phí giao dịch. Bởi
vì bạn chỉ có một lượng nhỏ vốn có sẵn, bạn sẽ hạn chế số lượng các khoản đầu tư
bởi vì một số lượng lớn các giao dịch nhỏ sẽ dẫn đến chi phí giao dịch rất cao. Nghĩa
là, bạn phải đặt tất cả trứng vào một giỏ, và không có khả năng đa dạng hóa đầu tư

làm bạn gặp rất nhiều rủi ro.
2.3.2 Các hình thức của chi phí giao dịch:
Một cuộc trao đổi thông thường gồm có 3 bước:
- Bước 1: Phải tìm được đối tác trao đổi. Hoặc tìm ai đó muốn mua những thứ
bạn muốn bán. Hoặc bán những thứ bạn đang tìm mua.
- Bước 2: Các đối tác trao đổi phải đi đến một thoả thuận. Thoả thuận đạt
được thông qua những thương lượng thành công, có thể bao gồm cả việc soạn thảo
bản hợp đồng.
- Bước 3: Thực thi thoả thuận đã được đặt ra. Thực thi thoả thuận bao gồm cả
việc giám sát thực hiện của các bên và trừng phạt đối với vi phạm hợp đồng.
Vì một cuộc trao đổi gồm có 3 bước nên có thể chia ba bước nói trên của một vụ trao
đổi là 3 hình thức chi phí giao dịch tương ứng:
 Chi phí tìm kiếm
 Chi phí mặc cả
 Chi phí thực thi
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

12
2.3.3 Các yếu tố đến giá chi phí giao dịch
Một cuộc trao đổi chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Những yếu tố này
quyết định chi phí của một cuộc trao đổi cao hay thấp.

Một câu hỏi đặt ra là khi nào thì chi phí giao dịch cao và khi nào chi phí giao dịch
thấp?
Để kết luận được điều này thì phải xét vấn đề bằng cách xét ba thành phần chi
phí của một cuộc trao đổi:
- Xét chi phí tìm kiếm: Chi phí tìm kiếm có khuynh hướng cao đối với hàng
hoá hay dịch vụ độc đáo, và thấp đối với hàng hoá hay dịch vụ đã được chuẩn hoá.
- Xét chi phí mặc cả:
Chi phí này thấp: đổi đơn giản, thông tin công khai.

Chi phí này cao: cuộc trao đổi phức tạp, thông tin về các giá trị và giải pháp
có tính riêng tư. Chi phí trao đổi thấp khi họ làm việc trực tiếp, ở gần nhau và ngược
lại. Những trường hợp thoả thuận liên quan đến 3 bên hay nhiều hơn 3 bên thường
tốn kém hơn, đặc biệt khi họ ở xa nhau. Cuối cùng, các bên muốn soạn thảo hợp
đồng, và điều này cũng tốn kém bởi vì nó phải dự kiến nhiều yếu tố bất ngờ có thể
phát sinh làm thay đổi giá trị trong thoả thuận.
- Xét chi phí thực thi: Nó phát sinh khi một hợp đồng cần thời gian để hoàn
thành. Một hợp đồng không cần thờigian để hoàn thành thì cũng không có chi phí
thực thi. Thí dụ một cuộc trao đổi tức thì, trong đó tôi đưa cho bạn một đô la và bạn
trao cho tôi một quả dưa hấu. Đối với nhữngvụ giao dịch phức tạp, thì việc giám sát
hành vi và trừng phạt những vi phạm hợp đồng đòi hỏi phải tốn kém. Nói chung, chi
phí thực thi là thấp khi dễ nhận biết những vi phạm hợp đồng và ít tốn kém khi áp
dụng biện pháp trừng phạt.
Chi phí giao dịch bao gồm thời gian và chi phí đàm phán, soạn thảo, và thực
thi các giao dịch hay hợp đồng. Chi phí này gia tăng khi đối tác trong giao dịch
hành động cơ hội, nghĩa là thu lợi cá nhân từ chi phí của người khác. Vì vậy chi phí
giao dịch sẽ bao gồm hậu quả của những hành vi cơ hội, sự yếu kém của người ra
quyết định cũng như là chi phí ngăn ngừa hành vi này. Quá trình trao đổi thông
thường phát sinh chi phí, nhờ một người làm việc nhà cũng phát sinh nhiều chi phí
liên quan, từ việc hỏi thăm người quen, đăng báo hoặc đến các trung tâm giới thiệu
việc làm, các chi phí này trong một số trường hợp có thể bỏ qua, điều gì sẽ xảy ra
nếu như người làm này hành động cơ hội? Một số trường hợp khác các chi phí này
lại rất lớn, người ra quyết định sẽ phải thận trọng hơn. Chi phí giao dịch lúc này
đóng vai trò như là một loại thuế cho giao dịch. Phạm vi của các chi phí này bao
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

13
gồm tìm kiếm thông tin, đàm phán, giao kết và thực thi hợp đồng, kiểm soát thành
quả… các chi phí này không trực tiếp phát sinh trong quá trình sản xuất.
Bảng 1 Tóm lược các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí giao dịch

PHÂN LOẠI CHI PHÍ THẤP CHI PHÍ CAO
Chi phí tìm kiếm
Hàng hóa, dịch vụ được
chuẩn hóa
Hàng hóa, dịch vụ độc dáo
Chi phí mặc cả
Các quyền đơn giản, rõ
ràng
Các quyền phức tạp, không chắc chắn
Ít bên tham gia Nhiều bên tham gia
Các bên thân thiện Các bên thù nghịch
Các bên quen biết Các bên xa lạ
Hành vi hợp lý Hành vi vô lý
Trao đổi ngay lập tức

Trao đổi bị trì hoãn

Không có điều xảy ra bất
ngờ
Nhiều điều xảy ra bất ngờ
Chi phí thực thi
Chi phí giám sát thấp Chi phí giám sát cao
Xử phạt ít tốn kém Xử phạt tốn kém
2.3.4 Vai trò của chi phí giao dịch với cấu trúc tài chính
Do chi phí giao dịch lớn nên nhiều người có số tiền nhỏ,mà số tiền nhỏ lại
mua được rất ít cổ phiếu đồng thời chi phí để có thể mua những cổ phiếu đó lại rất
lớn. Hoặc do mệnh giá trái phiếu thường lớn nên với số tiền nhỏ không thể mua nổi.
Nên những người có số tiền nhỏ không dám tham gia thị trường tài chính.
Những người có tiền lớn muốn tham gia thi trường tài chính cũng gặp khó khăn vì
nếu danh mục đầu tư lớn thì sẽ làm chi phí giao dịch tăng lên. Nên với số tiền không

đủ lớn thì sẽ có danh mục đầu tư hạn chế,điều này làm cho những nhà đầu tư nhỏ
phải đối diện với rủi ro thực sự.
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

14
Chính vì thế vai trò của những trung tâm tài chính là tiết kiệm chi phí giao
dịch. Các trung gian tài chính có thể giảm đáng kể chi phí giao dịch bởi vì họ đã
phát triển các hoạt động chuyên nghiệp để giảm thiểu chi phí.
Với quy mô lớn, trung gian tài chính có thể sử dụng ưu thế tiết kiệm từ quy
mô – giảm chi phí giao dịch trên mỗi đồng tiền giao dịch do quy mô lớn của mỗi hợp
đồng. Ví dụ, ngân hàng có đội ngũ chuyên gia của mình lập hợp đồng cho vay với
chi phí rẻ hơn.
2.3.5 Các biện pháp giảm chi phí giao dịch
Các biện pháp được đưa ra bao gồm:
- Giảm thông tin bất cân xứng, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư.
- Thành lập các công ty tài chính.
- Cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí giao dịch cao.
Trong đó có một số vấn đề cần phải giải quyết khi thực hiện các biện pháp này:
- Làm thế nào tổ chức trung gian tài chính giảm chi phí giao dịch? Do những
vấn đề gây ra bởi các chi phí giao khiến người tiết kiệm nhỏ bị cản trở tham gia thị
trường tài chính và không thể được hưởng lợi từ chúng. May mắn thay, các trung
gian tài chính, một phần quan trọng của cấu trúc tài chính, đã phát triển để giảm chi
phí giao dịch và cho phép người tiết kiệm nhỏ và khách hàng vay để được hưởng lợi
từ sự tồn tại thị trường tài chính.
- Lợi thế kinh tế theo quy mô: Một giải pháp cho vấn đề của chi phí giao dịch
cao là gộp các quỹ của nhiều nhà đầu tư với nhau để họ có thể tận dụng quy mô kinh
tế, giảm chi phí giao dịch cho mỗi đồng đô la đầu tư khi quy mô của giao dịch tăng
lên. Gộp các quỹ của nhà đầu tư với nhau làm giảm chi phí giao dịch cho mỗi nhà
đầu tư cá nhân. Quy mô kinh tế tồn tại bởi vì tổng chi phí thực hiện một giao dịch
trong thị trường tài chính tăng không đáng kể khi quy mô giao dịch tăng lên.

Ví dụ, chi phí giao dịch mua 10,000 cổ phiếu cũng không lớn hơn nhiều so
với chi phí một giao dịch mua 50 cổ phiếu. Sự hiện diện của lợi thế kinh tế theo quy
mô trong thị trường tài chính giúp giải thích lý do tại sao những trung gian tài chính
phát triển và đã trở thành một phần quan trọng của cấu trúc tài chính. Ví dụ rõ ràng
nhất của một trung gian tài chính phát sinh vì lợi thế kinh tế theo quy mô là quỹ
tương hỗ. Quỹ tương hỗ là một trung gian tài chính, bán cổ phần cho các cá nhân và
sau đó đầu tư tiền vào trái phiếu hoặc cổ phiếu. Bởi vì nó mua khối lượng lớn cổ
phiếu, trái phiếu, một quỹ tương hỗ có thể tận dụng lợi thế chi phí giao dịch thấp
hơn. Các khoản tiết kiệm chi phí sau đó được chuyển cho các nhà đầu tư cá nhân sau
khi các quỹ tương hỗ thực hiện cắt giảm chi phí quản lý để quản lý tài khoản của họ.
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

15
Một lợi ích nữa cho các nhà đầu tư cá nhân là một quỹ tương hỗ là đủ lớn để mua
một danh mục chứng khoán đa dạng. Việc đa dạng hóa tăng cho các nhà đầu tư cá
nhân làm giảm rủi ro, có danh mục đầu tư tốt hơn. Lợi thế kinh tế theo quy mô cũng
rất quan trọng trong việc làm giảm các chi phí của những thứ như công nghệ máy
tính mà các tổ chức tài chính cần phải thực hiện nhiệm vụ của mình. Một khi quỹ
tương hỗ lớn đầu tư tiền thiết lập một hệ thống viễn thông, ví dụ, hệ thống có thể
được sử dụng cho một số lượng lớn giao dịch với chi phí thấp hơn.

- Chuyên môn: Trung gian tài chính cũng có khả năng phát triển chuyên môn
để giảm chi phí giao dịch. Chuyên môn của họ trong công nghệ máy tính cho phép
họ cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tiện ích như gọi điện thoại miễn phí để biết
thông tin về các khoản đầu tư của họ đang làm tốt như thế nào và viết séc trên tài
khoản của họ. Một kết quả quan trọng của chi phí giao dịch của trung gian tài chính
thấp là khả năng để cung cấp cho khách hàng là tính thanh khoản để thực hiện giao
dịch dễ dàng. Quỹ tương hỗ không phải chỉ trả cho các cổ đông mức lãi suất cao, mà
còn cho phép họ viết séc để thuận tiện để chi trả hóa đơn.
2.4 Lựa Chọn Đối Nghịch

2.4.1 Khái niệm lựa chọn đối nghịch
Lựa chọn đối nghịch (Adverse selection) là vấn đề thông tin bất cân xứng
hình thành truớc khi giao dịch xảy ra, những người không có khả năng trả nợ thường
tìm mọi cách để vay tiền, nói cách khác, những người tạo ra kết cục không mong
muốn lại là những người muốn tham gia vào giao dịch nhất. Chẳng hạn những người
mạo hiểm liều lĩnh thường là những người muốn vay tiền nhất. Do sự lựa chọn đối
nghịch làm tăng khả năng một khoản cho vay trở thành nợ xấu, nên nguời cho vay
có thể quyết định không cho vay nữa, mặc dù cơ hội cho vay có lợi trên thị trừơng.
Nói một cách tổng quát, lựa chọn đối nghịch là những quyết định sai lầm của một
bên tham gia giao dịch mà nguyên nhân là do thông tin bất cân xứng.
2.4.2 Sự hình thành lựa chọn đối nghịch:
Lựa chọn đối nghịch thường hình thành trên bất kỳ thị trường nào xuất hiện
thông tin bất cân xứng. Do không có đủ thông tin liên quan đến giao dịch nên một
trong các bên tham gia sẽ đưa ra những quyết định sai lầm. Chính vì vậy, người cho
vay có thể quyết định không cho vay bất kỳ khoản tiền nào nhằm tránh rủi ro vỡ nợ,
như vậy đã loại trừ cả những người đi vay có khả năng trả nợ tốt. Chẳng hạn trên thị
trường tín dụng, người cho vay không nắm bắt đầy đủ thông tin người vay tiền sẽ
tính một mức lãi suất cho vay có phần bù rủi ro. Tình trạng thông tin bất cân xứng
dẫn đến cuối cùng chỉ toàn cho vay những dự án rủi ro cao hoặc không chấp nhận
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

16
cho vay. Người cho vay đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch thay vì cho những
khách hàng có mức tín nhiệm cao vay thì họ lại chọn những khách hàng có mức tín
nhiệm thấp.
Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch hình thành khi các nhà đầu
tư không biết thông tin về cổ phiếu các công ty khác nhau nên có thể định giá không
chính xác hoặc mua cổ phiếu một công ty định giá cổ phiếu không chính xác, rủi ro
cao.
Ví dụ: một người có một khoản tiền nhàn rỗi là 1.000 USD. Trên thị trường

có hai ngừơi vay tiền, người B chỉ vay tiền khi đảm bảo khỏan đầu tư của mình sẽ có
lợi, C thì liều lĩnh hơn với những mối đầu tư lớn hơn với lợi nhuận rất cao, sẽ chủ
động đi vay và có khả năng vay nợ cao hơn. Tuy nhiên do thông tin bất cân xứng, A
không biết đầy đủ thông tin của B và C nên quyết định không cho vay, mặc dù có
thể B (có khả năng trả nợ) đi vay để đầu tư vào những dự án giá trị. Như vậy ta có
thể thấy rằng thông tin bất cân xứng càng lớn thì sự hình thành lựa chọn đối nghịch
càng cao.
2.4.3 Các công cụ giải quyết sự lựa chọn đối nghịch
2.4.3.1 Sự tạo ra và bán thông tin của tư nhân
Lời giải cho vấn đề thông tin bất cân xứng dẫn đến những lựa chọn đối nghịch
đó là những người cung cấp vốn phải được cung cấp các thông tin chi tiết về những
người đang cần vốn để quyết định tài trợ hay không cho các hoạt động đầu tư.
Khi đó, các công ty tư nhân ra đời. Họ tiến hành thu thập các thông tin và tạo
ra thông tin nhằm giúp phân biệt các doanh nghiệp, cá nhân là tốt hay yếu kém, và
bán nó cho những người cần thông tin.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khả năng tồn tại của những kẻ ăn theo, nghĩa là
những kẻ không sẵn sàng bỏ tiền ra để mua thông tin nhưng vẫn được hưởng lợi từ
thông tin do người khác mua. Nếu vấn đề người ăn theo diễn ra trong thời gian đủ
dài, thì việc hưởng lợi từ thông tin sẽ không còn nữa. Từ đó, người mua thông tin sẽ
cảm thấy không còn nhu cầu để mua thông tin nữa, nếu nhiều người đều nghĩ như
vậy, thì các thông tin tạo ra và bán thông tin sẽ không còn hoạt động được nữa.
Ví Dụ:
PCB trở thành trung tâm thông tin tín dụng tư nhân đầu tiên được hoạt động
tại Việt Nam sau khi Ngân hàng Nhà nước cho phép triển khai hoạt động này.
PCB sẽ cung cấp dịch vụ gồm các loại báo cáo tình hình vay nợ, tài sản thế
chấp, lịch sử quan hệ tín dụng… cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thể nhân. Các
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

17
thông tin này cũng sẽ được cung cấp cho các ngân hàng, giúp nhà băng có cơ sở

thực hiện các quyết định cho vay và quản lý dư nợ.
2.4.3.2 Biện pháp điều hành của chính phủ để tăng thông tin
Chính phủ có 2 cách để tác động vào thị trường tài chính để giải quyết vấn đề
thông tin bất cân xứng dẫn đến lựa chọn đối nghịch.
Cách 1:
Chính phủ sẽ đứng ra là người thu thập thông tin và cung cấp miễn phí cho công
chúng. Tuy nhiên, với cách này, chính phủ buộc phải công bố tất cả các thông tin,
kể cả thông tin tiêu cực về doanh nghiệp, việc làm có thể rất khó về mặt chính trị,
độ tin của thông tin được cung cấp chưa cao.
Cách 2:
Biện pháp điều hành của chính phủ đối với thị trường chứng kkhoán sao cho các
doanh nghiệp tự giác cung cấp thông tin chân thực về mình nhiều đến mức đủ để các
nhà đầu tư có thể tự nhận định là doanh nghiệp đang làm ăn tốt hay yếu kém. Tuy
nhiên, cách này không phải lúc nào cũng được tạo ra hiệu quả tốt trong trường hợp
các công ty kiểm toán cấu kết với doanh nghiệp để tạo ra nguồn thông tin không
trung thực với thực tế doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhìn chung, biện pháp điều hành của chính phủ làm tăng thông tin
cho nhà đầu tư vẫn là cần thiết để cắt giảm vấn đề lựa chọn đối nghịch, vấn đề cản
trở sự vận hành có hiệu quả của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, ngay cả khi
các doanh nghiệp có cung cấp thông tin đầy đủ đi chăng nữa thì họ vẫn có nhiều
thông tin hơn nhà đầu tư, bởi vì ngoài thông tin do các con số thống kê mang lại thì
vẫn còn cần nhiều thông tin khác để đánh giá hoạt động một doanh nghiệp. Do vậy,
sự điều hành của chính phủ cũng không thể nào loại bỏ được hoàn toàn vấn đề lựa
chọn đối nghịch.
Theo Nghị định về kiểm toán độc lập, trừ một số loại hình doanh nghiệp phải
thực hiện kiểm toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động
theo luật doanh nghiệp), nhà nước chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện
kiểm toán các báo báo tài chính. Mặt khác, tại hầu hết các tổ chức tín dụng chưa yêu
cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm toán.

Một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3).
Một dùng để báo cáo thuế . Một dùng để cáo bạch. Một dùng cho nội bộ . Với tình
trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình
trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào.
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

18
Ví dụ:
Scandal Enron
Enron được quảng cáo rất hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen và
các nhà phân tích phố Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục.
Chi nhánh Houston của Arthur Andersen nhận 1 triệu USD/tuần còn tham gia cả
việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các nhân viên
kiểm toán và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc. Điều trần trước Quốc hội Mỹ trong
tháng trước, Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa
nhận họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã
làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết
tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều
tra.
Trước đó hai năm, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Mỹ Arthur Levitt yêu cầu
các công ty không nhận phí kiểm toán do lo ngại tiêu cực dễ nảy sinh, nhưng ông đã
vấp phải sự phản đối quyết liệt. Sự cố đang xảy đến với Andersen có khả năng biến
đề xuất của Levitt thành sự thật.
2.4.3.3 Các trung gian tài chính
Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các hiệp hội cho
vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính.
Các Trung gian tài chính, ví dụ như Ngân hàng, là chuyên gia trong việc thu
thập và tạo ra thông tin về doanh nghiệp sao cho mọi người có thể phân biệt giữa cơ
hội cho vay tốt và xấu. Sau đo, họ sẽ sử dụng nó để thu hút nguồn vốn tiết kiệm, cho
vay những doanh nghiệp mà họ đánh giá là hoạt động tốt. Mức lợi nhuận sinh ra từ

chênh lệch giữa lãi tiền gửi và lãi đi vay cho phép Ngân hàng tham gia và hoạt động
tạo ra thông tin.
Vai trò của Ngân hàng với tư cách là người trung gian nắm giữ hầu hết các
khoản cho vay không thể mua bán, lại là chìa khóa thành công trong việc làm giảm
bớt vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính. Đối với những nước có
thị trường chứng khoán phát triển, thông tin về doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng thu
thập. Do đó, vai trò của Ngân hàng trong việc thu thập và tạo ra thông tin có phần
giảm sút.
2.4.3.4 Vật thế chấp
Sự lựa chọn đối nghịch chỉ cản trở sự vận hành của thị trường tài chính nếu
người cho vay phải chịu tổn thất, người đi vay không có khả năng hoàn trả tiền vay
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

19
và bị vỡ nợ. Vật thế chấp được trao cho người cho vay, trong trường hợp người đi
vay vỡ nợ, vật thế chấp sẽ làm giảm bớt tổn thất của sự lựa chọn đối nghịch.
Bất động sản (BĐS) thường được chọn là vậy thế chấp phổ biến ( nêu đề mục
trong slide)
- Nhờ tính cố định mà khi nhận BĐS làm tài sản, các ngân hàng dễ dàng thực
hiện quá trình xác định, định giá, giám sát trong và sau cho vay;không nhiều chi phí
quản lý tài sản.
- Tính thanh khoản và khả năng xử lý tài sản là BĐS khi khách hàng không
trả được nợ vẫn cao hơn nhiều tài sản khác nhờ tính khan kiếm.
- BĐS là tài sản ít hao mòn. Trong khi các tài sản khác, giá trị và giá trị sử
dụng thường giảm, thậm chí giá trị của tài sản có thể giảm từ 10% đến 20% ngay sau
khi nhận như xe cộ, máy móc thiết bị.
- Giá chuyển nhượng BĐS trong thực tế thường tăng trong dài hạn, mặc dù
trong ngắn hạn dưới sự tác động của khủng hoảng nhà đất, chu kỳ kinh tế, các qui
định của chính quyền hoặc những nguyên nhân khác có thể sụt giảm ở một số khu
vực, một số phân khúc thị trường.

- BĐS là một trong số những tài sản có các giấy tờ chứng minh quyền sở
hữu/sử dụng rõ ràng nhất, nhờ đó mà việc xác nhận chủ sở hữu/sử dụng tương đối dễ
dàng. Bất kỳ một sự thay đổi như mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu, theo qui
định đều phải qua công chứng và Hệ thống pháp luật liên quan đến việc xác nhận
quyền sở hữu, sử dụng, giao dịch dù còn nhiều bất cập song vẫn được đánh giá là
khá đầy đủ so với các qui định trong các lĩnh vực khác.
2.4.3.5 Giá trị ròng
Giá trị ròng của một doanh nghiệp còn được gọi là phần chênh lệch giữa tài sản
và các khoản nợ của doanh nghiệp đó, nếu xét trong một hợp đồng vay, thì nó chính
là vốn đối ứng của doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng khác mà nhà đầu tư có thể
tham khảo trước khi ra quyết định đó là tài sản ròng của doanh nghiệp. Thực tế cho
thấy, với các công ty có giá trị tài sản ròng càng cao, xu hướng đầu tư vào những dự
án rủi ro lớn sẽ giảm xuống do công ty có nhiều thứ để mất. Bên cạnh đó, giá trị
ròng biểu hiện cho giá trị tài sản dự trữ để hoàn trả số tiền vay. Bới vậy, đối với các
doanh nghiệp có giá trị ròng cao muốn vay tiền, thì hậu quả từ việc lựa chọn đối
nghịch sẽ ít nghiêm trọng hơn và người cho vay sẽ dễ dàng cho vay hơn.
“Các công ty càng có giá trị tài sản ròng cao, càng ít khả năng bị vỡ nợ Công
ty có giá trị tài sản ròng càng cao, ý muốn xử sự của họ càng theo chiều hướng mà
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

20
các nhà đầu tư dự tính và mong muốn. Do đó, vốn cổ phần của một công ty cao là
một dấu hiệu khiến nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào công ty đó.”
2.5 RỦI RO ĐẠO ĐỨC VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH
2.5.1 Khái niệm
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ tài chính được sử dụng để chỉ một rủi ro phát
sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái.
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng xảy ra sau khi giao dịch
diễn ra. Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông
tin bất cân xứng giữa các bên giao dịch và hình thành động cơ hành động theo

hướng có lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế
thông tin. Việc này sẽ dẫn tới nguy cơ tổn hại về mặt tài chính đối với các bên tham
gia.
Rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính phát sinh khi những người sở hữu
nguồn vốn phải chịu rủi ro do người sử dụng nguồn vốn sẽ cố tình tham gia vào các
hoạt động không mong muốn như cam kết ban đầu.
Như vậy, rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu, một bên tham gia giao dịch
(không thể giám sát hành động của phía bên kia.
Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu, dù vô tình hay hữu ý, sẽ làm tăng xác suất
xảy ra hậu quả xấu.
2.5.2 Rủi ro đạo đức và cấu trúc tài chính
Rủi ro đạo đức tác động đến việc lựa chọn giữa các hợp đồng nợ và các hợp
đồng vốn cổ phần (giữa người ủy thác và người đại diện).
2.5.2.1 Rủi ro đạo đức trong hợp đồng vốn
Rủi ro đạo đức phát sinh khi người bán chứng khoán che đậy thông tin về
hành vi của mình, không sử dụng nguồn vốn đầu tư hiệu quả và đúng mục đích. Do
tính chất của đầu tư trên thị trường là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn
đầu tư của các nhà đầu tư phải thông qua một số người đại diện để điều hành công
ty.
Sự tách bạch về mặt quản lý và sở hữu trong các công ty cổ phần là yêu cầu
cơ bản của Ủy ban chứng khoán đối với các công ty đại chúng niêm yết. Các cổ
đông có vốn góp trong công ty cổ phần và có trách nhiệm trong phạm vi vốn góp.
Hội đồng cổ đông hàng năm sẽ họp và tìm ra một ban giám đốc để thực hiện lèo lái
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

21
hoạt động sản xuất công ty. Trong quá trình hoạt động, các cổ đông cũng không thể
nắm rõ toàn bộ tình hình công ty cũng như tác động của các quyết định của ban giám
đốc tới hoạt động của công ty. Rõ ràng điều này là hiện tượng của thông tin bất cân

xứng giữa một bên là cổ đông và một bên là Ban giám đốc.
Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cũng làm nảy sinh những
nguy cơ khiến cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không ở mức tối ưu, gây
thiệt hại cho các nhà đầu tư; đó là khi mục tiêu của các chủ sở hữu và người quản lý
không giống nhau. Trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nhà quản lý, cả hai đều
muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình, tuy nhiên điều kiện để tối đa hóa lợi ích của hai
bên không giống nhau. Nhà đầu tư muốn tối đa hóa lợi ích của mình thông qua việc
tăng giá trị doanh nghiệp, còn lợi ích cuả nhà quản lý thường gắn với thu nhập nhận
được. Vì thế, nhà quản lý có thể tìm kiếm một sự điều hành nhàn nhã hơn, ít khốc
liệt hơn hoặc theo lối sống xa hoa…hay đưa ra những quyết định có thể mang tính
bảo thủ và không làm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Hơn nữa, họ lại nắm khá rõ
những thông tin tài chính của công ty, và “sức khỏe” của công ty hiện tại như thế
nào.
Việc ra quyết định của nó sẽ thật rủi ro nếu như Ban giám đốc hành động
không đứng trên lợi ích của Cổ đông.
Ví dụ, nhà quản lý có thể không nỗ lực với khả năng cao nhất của mình, do đó
làm giảm hiệu quả họat động của doanh nghiệp; nhà quản lý có thể không quyết định
đầu tư nguồn lực vào một dự án có khả năng sinh lời cao trong tương lai vì làm như
vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn (nếu thu nhập của nhà quản lý được
xác định dựa trên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn); thậm chí nhà
quản lý có thể báo cáo không trung thực về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
nhằm đạt mức lợi nhuận kế hoạch. Những hành vi như vậy của nhà quản lý sẽ làm
tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư.
Có thể minh chứng cho điều này là vụ bê bối làm cho một số tập đoàn kinh tế
ở Mỹ bị phá sản như Enron, Typo…tuy diễn ra với hình thức, quy mô, cách thức, địa
điểm khác nhau nhưng đều cùng một nguyên nhân bản chất. Đó là việc người điều
hành lợi dụng nhiệm vụ được các cổ đông giao phó để hành động vì mục đích tư lợi
cá nhân, gây hiệu quả nghiêm trọng đến lợi ích của doanh nghiệp. Chẳng hạn như vụ
việc chủ tịch Jeffrey Skilling và Andrew Fastow- phụ trách đối ngoại của Enron đã
cấu kết với hơn chục thành viên hội đồng quản trị và hãng kiểm toán Athur

Andersen để bưng bít và tung hỏa mù đối với chính quyền trước những vụ làm ăn
phi pháp ở Enron. Điều này khiến số người mua cổ phiếu cảu công ty cao kỷ lục
nhưng thực chất là giá trị cổ phiếu đã được nâng lên “ảo” để qua mặt các cổ đông,
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

22
và sau đó là việc công ty tuyên bố phá sản làm nhiều nhà đầu tư điêu đứng. Còn
Fastow sau việc làm giả số liệu đã bỏ túi hàng triệu đôla cho bản thân và gia đình.
2.5.2.2 Rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ
Hợp đồng nợ là sự thỏa thuận theo hợp đồng của những người đi vay thanh
toán cho người cho vay những khoản tiền nhất định trong khoảng thời gian định kỳ.
Nợ tạo ra những nghĩa vụ đơn giản, cố định, mà dòng ngân lưu cam kết của nó sẽ
không thay đổi bất kể công ty làm ăn thua lỗ hay có lãi.
Rủi ro đạo đức cũng ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính trong thị trường nợ do
một hợp đồng nợ chỉ đòi hỏi những người vay thanh toán một số tiền cố định và
người vay có thể nhận được toàn bộ lợi nhuận còn lại. Khi đó, người đi vay có nguy
cơ sử dụng những khoản vay không đúng mục đích cam kết trong hợp đồng vay nợ,
sử dụng vốn sai trình tự, đầu tư vào những hạng mục rủi ro mà không thông báo cho
bên cho vay.
Người đi vay bao giờ cũng hiểu rõ mục đích sử dụng những khoản vay trong
khi người cho vay (Ngân hàng, các tổ chức tài chính, hoặc cá nhân) thì không biết
rõ.
Rủi ro đạo đức trong các hoạt động giao dịch vay nợ là khá phổ biến. Nó đặt
ra câu hỏi kiểm soát đối với các Tổ chức tài chính trong việc giám sát việc sử dụng
đồng vốn của khách hàng. Ngoài ra, một vấn đề đáng chú ý trong thị trường nợ là
vấn đề “đảo nợ” với rủi ro đạo đức cao, đảo nợ nếu không được kiểm soát tốt có thể
làm xấu đi tính lành mạnh của hệ thống tài chính.
Rủi ro đạo đức làm cho thị trường có xu hướng thiên về nợ và ít sử dụng vốn
cổ phần hơn.
Rủi ro đạo đức làm cho các thị trường nợ có xu hướng thiên về các ngân hàng

và ít sử dụng những chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, và thương phiếu. Những
người mua chứng khoán nợ cần cảm thấy rằng họ am hiểu thông tin hoặc có ai đó,
chẳng hạn như một cơ quan đánh giá thứ hạng tín dụng, có thể cung cấp thông tin
cho họ và chia sẻ các kết quả với công chúng đầu tư. Ngược lại, các ngân hàng tạo
ra những thông tin riêng của họ và vì thế họ là những nhà cung ứng nợ chiếm ưu thế
khi thông tin công cộng không đầy đủ.
Rủi ro đạo đức làm cho nợ có xu hướng có thời hạn ngắn hoặc có xu hướng
thiên về các quyền hợp đồng giúp người cho vay có thể đẩy nhanh việc thanh toán
nếu một điều khoản hợp đồng bị vi phạm.
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

23
Rủi ro đạo đức làm cho việc cho vay của ngân hàng có xu hướng thiên về
những khoản cho vay có tài sản bảo đảm hơn so với cho vay không có tài sản bảo
đảm.
2.5.3 Các biện pháp giải quyết vấn đề rủi ro đạo đức
Có 2 biện pháp hay được áp dụng nhất đó là:
- Một loại là những cam kết trừng phạt các rủi ro đạo đức mà bên kém ưu thế
thông tin đưa vào các hợp đồng giữa các bên giao dịch. Bên kém ưu thế thông tin hy
vọng bên có ưu thế thông tin sẽ cân nhắc nguy cơ bị trừng phạt để rồi thấy lợi ích
của việc mình thay đổi hành vi không bằng cái giá phải bỏ ra, từ đó không nảy sinh
động cơ thay đổi hành vi nữa.
- Một loại nữa là tăng cường thu thập thông tin, tăng cường giám sát từ đó
khắc phục tình trạng thông tin bất đối xứng.
2.5.3.1 Trong các hợp đồng vốn
Vấn đề người chủ - người đại diện sẽ không xảy ra nếu những người sở hữu
công ty có đầy đủ thông tin về những gì mà người quản lý thực hiện và có thể ngăn
chặn những chi phí lãng phí và gian lận.
Vấn đề người chủ - người đại diện sẽ không xảy ra nếu chỉ mình bạn là người
sở hữu công ty và không có sự phân chia giữa người chủ và người quản lý. Nhưng

trên thực tế, rủi ro đạo đức mà tiêu biểu là vấn đề người chủ - người đại diện là rất
phổ biến, và để giải quyết vấn đề đó thì có những biện pháp sau :
Chọn lọc thông tin, theo dõi :
Ta thấy rằng vấn đề người chủ - người đại diện nảy sinh bởi vì những người
đại diện có nhiều thông tin về hoạt động của họ và lợi nhuận cụ thể hơn so với các
cổ đông có được. Một phương pháp để các cổ đông tham gia vào việc giảm rủi ro
được đức là theo dõi hoạt động của công ty, thường xuyên kiểm toán và kiểm tra
hoạt động quản lý. Tuy nhiên, việc giám sát này có thể rất tốn kém, do đó nó chỉ giải
quyết một phần nào đó bởi sự hiện diện của vấn đề người đi xe không trả tiền.
Chẳng hạn, một cổ đông của công ty biết được người quản lý bị giám sát chặt chẽ
bởi các cổ đông khác, ông ta sẽ dành ít thời gian và tiền bạc hơn để làm việc đó,
cuối cùng sẽ dẫn đến việc giám sát trở nên thiếu hiệu quả vì không ai thực hiện cả.
- Điều hành của chính phủ
Chính phủ đưa ra các chuẩn mực kế toán giúp cho người sở hữu có thể biết
được tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Nhà nước đưa ra điều luật nhằm
Nhóm 1: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH GVHD: TS. DIỆP GIA LUẬT

24
trừng phạt nặng những người lừa đảo hay có hành vi giấu diếm và trộm cắp lợi
nhuận.
Tuy nhiên, người quản lý có thể sử dụng các biện pháp gian lận và phát hiện
gian lận này không phải dễ dàng. Điển hình nhất là vụ bê bối kế toán dẫn đến phá
sản của tập đoàn năng lượng Enron của Mỹ.
- Nắm quyền kiểm soát
Để giải quyết vấn đề ông chủ và người đại diện, người chủ hay cổ đông lớn
của công ty có thể thực hiện việc đào thải ban quản trị tồi, tuy nhiên việc đó vô cùng
khó khăn. Cổ đông phải tốn thời gian, công sức và tiền bạc để xét xem ban quản trị
có thực sự tắc trách hay không. Ngoài ra, cơ chế pháp luật khiến cho việc sa thải
một người quản lý xấu là rất phức tạp và tốn nhiều thời gian. Vì thế, việc nắm lại
toàn quyền kiểm soát công ty bằng cách mua lại các cổ phần (equity contracts) để bố

trí một đội ngũ ban quản trị mới là một giải pháp tốt cho vấn đề ông chủ và người
đại diện.
- Tăng lợi nhuận cho người đại diện
Thay vì một người ngoài cuộc thực hiện việc nắm quyền kiểm soát công ty,
việc một thành viên trong ban quản trị là người thực hiện việc mua bán đó và kết quả
là người đại diện sở hữu phần lớn công ty. Khi đó người ta gọi đây là việc mua cổ
phần kiểu đòn bẩy. Khi đó vấn đề ông chủ và người đại diện được giảm thiểu.
2.5.3.2 Trong hợp đồng nợ :
- Ưu tiên hợp tác làm ăn với các bạn hàng làm ăn lâu năm có uy tín.
- Với đối tác mới cần thu thập thêm, kiểm tra thông tin tài chính và uy tín
kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau
- Nếu không tin tưởng đối tác thì cần yêu cầu tài sản đảm bảo.
- Ngân hàng phát hành phải luôn xác minh tính chân thực của bộ hồ sơ chứng
từ.
- Đối với hoạt động giải ngân, thành lập trung tâm thống kê tín nhiệm khách
hàng. Thống kê càng đầy đủ, chi tiết thì càng là cơ sở để hạn chế rủi ro trong các
hoạt động vay nợ.
Ví dụ: Thông tin khách hàng : Tuổi tác, nghề nghiệp, thu nhập, tôn giáo, mức
độ hoàn trả các khoản vay trước…
- Vốn chủ sở hữu:
Khi người đi vay có vốn chủ sở hữu cao (khoảng chênh lệch giữa tài sản và
nghĩa vụ) thì khả năng nảy sinh rủi ro đạo đức sẽ giảm đi rất nhiều vì người đi vay
có nhiều thứ để mất nếu như tham gia vào các hoạt động có tính rủi ro cao.

×