Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.47 KB, 104 trang )

Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể hiện quyền
lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu. Với xu thế nhất thể hóa các khu vực
và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói riêng và
khu vực nói chung, đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế, tài chính trước
những thách thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện.
Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân
thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và
tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc
công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và
ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá Nghị
quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm
2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ
trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện
thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Việc ban hành kịp thời Luật này là
góp phần thể chế hoá chính sách thuế của Đảng.
Để đạt được mục tiêu gia nhập vào WTO, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
tất cả các chính sách thuế hiện hành đều đã được thay đổi theo hướng giảm nghĩa vụ
thuế. Chẳng hạn từ năm 2000 đến nay, thuế chuyển quyền sử dụng đất được giảm tới
25 lần, thuế trước bạ giảm 50%. Hiện nay ngành thuế cũng đã xóa bỏ trên 300 loại
phí không cần thiết, một số loại như phí đường bộ, hàng hải giảm tới 30%-40%.
Theo tính toán ban đầu, khi cắt giảm các loại thuế và chi phí này, Nhà nước bị thất thu
trên 1.000 tỷ đồng. Hiện ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào 3 khoản thu chủ yếu gồm
xuất nhập khẩu chiếm 25% ngân sách, tương đương khoảng 60.000 tỷ đồng mỗi năm.
Số thu từ xuất khẩu dầu thô cũng vào khoảng 25%. Như vậy còn khoảng 50% ngân
sách Nhà nước là các khoản thu nội địa, nhưng khoản thu nội địa này cũng đang một
ngày giảm do chính sách thuế liên tục được thay đổi để thực hiện theo cam kết. Tính


đến thời điểm này đã có tới trên 1.000 dòng thuế được cắt giảm. Chính vì thế để bù
đắp cho sự giảm sút này Chính phủ cần quan tâm hơn đến thuế trực thu. Tuy nhiên,
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên giảm dần tới mức tương ứng với các
nước trong khu vực nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chính
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 1 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

phủ đã có những biện pháp đối với thuế TNCN nhằm tạo thêm nguồn thu cho ngân
sách từ loại thuế này.
Ở nước ta hiện nay, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng còn
nhiều hạn chế kể từ việc ban hành pháp luật thuế đến tổ chức thực hiện cũng như
thanh tra thuế. Nếu như chúng ta không sớm khắc phục những hạn chế này thì mục
tiêu đặt ra khi ban hành luật sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi. Chính vì thế, công tác quản
lý TNCN ở Việt Nam cần phải được hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu trong xu
thế hội nhập và phát triển nhanh chóng hiện nay.
Xuất phát từ thực tế trên của Việt Nam, trên giác độ quản lý để góp phần đẩy
mạnh công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, nhằm chống lại nạn thất thu thuế thu
nhập cá nhân và tăng ngân sách nhà nước, đó cũng chính lá lí do mà em chọn làm
nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân”
để viết luận văn tốt nghiệp cuối khóa của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Với mục tiêu khái quát lại các vấn đề liên quan đến thuế TNCN mà em đã được
học, cũng như tìm thêm công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong
những năm qua, những khó khăn, tồn tại chủ quan lẫn khách quan mà các cơ quan
quản lí thuế gặp phải, qua đó có một số đề xuất nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên
nhân trong công tác quản lí hiện nay đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lí. Hy vọng qua bài viết này, giúp người đọc hiểu thêm về thuế TNCN cũng
như công tác quản lí thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đầu tiên người viết sẽ nên lên khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân, từ đó đi

sâu nghiên cứu vào thực trạng trong công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân từ khi luật
thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích và
tổng hợp, các phương pháp định tính, định lượng, các công cụ thống kê, và sưu tầm
các tài liệu liên quan.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục đề tài tham khảo, và phụ lục,
những nội dung chính của đề tài được trình bài trong ba chương:
* Chương I: Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân và công tác quản lý
về thuế thu nhập cá nhân.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 2 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

* Chương II: Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
* Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập
cá nhân ở nước ta.
Để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tận tình
của cô Ts.Lê Nguyệt Châu. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô, đã hướng dẫn
em trong thời gian qua.
Do thời gian và vốn kiến thức còn nhiều hạn hẹp nên chắc chắn không thể tránh
được những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để bài viết
được hoàn thiện hơn!
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 3 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ
CÔNG TÁC QUẢN LÍ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân

1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và
phát triển của Nhà nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư
cùng với sự phân chia giai cấp, Thuế được giai cấp thống trị dùng như một công cụ để
tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói chung
hay của giai cấp thống trị nói riêng. Vì thế, Thuế được xem như một phạm trù vừa có
tính lịch sử vừa là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của Nhà nước trong quá
trình tồn tại và phát triển của mình. Giai cấp thống trị- vua chúa sử dụng thuế như một
công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, qua
tiến trình tiến triển của lịch sử, hiện nay thuế vẫn được sử dụng với đúng mụch đích
của nó nhưng bản chất của Thuế ở các nước lại không giống nhau, nó tùy thộc vào
bản chất Nhà nước và cách thức sử dụng nguồn thu từ thuế. Do đó, cũng tồn tại nhiều
khái niệm khác nhau về thuế do quan điểm về Thuế ở các nước khác nhau như:
Thuế là một khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã
hội, Thuế là khoản thu có tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp theo luật định.
Marx viết
(1)
“Thuế là cở sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho
bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước".
Các nhà nguyên cứu kinh tế khác cho rằng
(2)
“Thuế là hình thức phân phối thu nhập
tài chính của Nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị,
tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn
lại”.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về Thuế khác nhau nhưng chúng ta cũng nhận thấy
những điểm tương đồng sau: Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức,
cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có những điều kiện nhất định. Thuế mang tính bắt
buộc và không mang tính hoàn trả trực tiếp, ngang giá. Một phần thuế nộp vào ngân
sách Nhà nước được trả về với người dân một cách gián tiếp dưới nhiều hình thức

khác nhau như trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng khác.
(1)
Nguồn: Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện hành, Tác giả- Pts Nguyễn Thị Kim Tuyển, Pts Phan
Mỹ Hạnh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998.( từ trang 267-305).
(2)
Nguồn: Phát biểu của chủ tịch ủy ban Thuế của chính phủ Nhật bản, trên www.vibonline.com.vn
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 4 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Trên cơ sở nhưng khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN
theo pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu
nhập của cá nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của
cá nhân vào ngân sách nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thông qua việc khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không
thu thuế đối với các khoảng thu nhập từ kinh doanh, đầu tư,…
(3)
. Thuế này được coi là
loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế
thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là Anh
Quốc vào năm 1799. Lúc đầu Anh Quốc đưa vào thực hiện như một hình thức thu
tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính
thức áp dụng vào năm 1942, một số nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế
này như Ðức (1899), Hoa Kỳ (1903), Pháp (1916). Các nước Châu Á như: Thái Lan
áp dụng năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-xia năm 1949,
Trung quốc năm 1984; Những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như
Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992
Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN. Ưu điểm của
cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước.
Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua

thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những
cá nhân có nhiều người phụ thuộc.
1.1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do
là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối
tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế cũng là người chịu thuế, người
chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế sang cho các đối
tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân
thuộc diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước
hay ở nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu
nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú
(3)
Giáo trình luật tài chính 2, Ts Lê Nguyệt châu, tr. 22
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 5 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu
nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc theo
luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền lực, sức mạnh
của Nhà nước.
- Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp.
Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho
Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc
gia đều gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác (như phúc lợi
công cộng, chăm sóc sức khỏe…).

Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm:
công dân nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường
xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải tính
thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy,
khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng
phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh
người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng
thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm
càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại thuế
khác vì việc tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ
cấu kinh tế.
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn của
điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành Luật thuế TNCN ở nước
ta là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ
thống thuế nên thuế TNCN vừa mang vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các
vai trò riêng mà các loại thuế khác không có được.
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế- xã hội
* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước
Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung
nên cũng góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 6 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

được tính với diện rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó,
thuế TNCN tác động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc
gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời
sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự

tăng lên của thu nhập bình quân đầu người.
* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố
như khả năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân
đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã
tạo ra sự khác nhau về thu nhập của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc
tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề
này, các nước đã dùng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN
được xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của những người có thu
nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của
các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Để kiểm soát thu nhập dân cư, nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản
lý quỹ tiền lương, tiền công, chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê
khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu có thể chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để thống
kê thu nhập dân cư phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định
chính sách phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng
lên.
Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải pháp tăng
cường hoặc giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu xã
hội giảm hoặc tăng, từ đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó
chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách thuế thu nhập cá
nhân góp phần tác dụng đáng kể.
* Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ
việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của
pháp luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng
quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân
Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 7 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên,
một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế TNCN.
1.1.3.2 Đối với hệ thống thuế
* Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược
điểm là có tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi
tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải
chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến từng
phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này
* Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN
Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế TNCN
còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng
giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh
nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm
thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá
nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối
với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng
thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện
hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập với kinh tế
thế giới. Việc ban hành Luật thuế TNCN là bước thể chế hoá đường lối chính sách
của Đảng về lĩnh vực tài chính tiền tệ đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách
thuế theo mục tiêu chiến lược Chính phủ đã hoạch định.
Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như hướng phát triển hoàn chỉnh của
chính sách thuế TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung yêu cầu của Luật thuế thu nhập cá

nhân mới ban hành để tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế, vận động toàn dân hiểu
biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ,
công chức, công dân theo quy định của Luật Quản lý thuế, ban hành ngày 29/11/2006.
Tóm lại, Thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Dù
không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói
chung, thuế TNCN nói riêng chính là là việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 8 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao,
hội nhập và phát triển, thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy
động nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập cá nhân sẽ ngày
càng tăng và sẽ ngày một dồi dào. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn
nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước
chậm phát triển.
1.1.4. Giới thiệu khái quát về Luật thuế thu nhập cá nhân
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 05 lần sửa đổi, bổ
sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày
10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào
ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2001).
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần một
năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007, tại kỳ
họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam khoá XII đã thông qua Luật
thuế TNCN. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009, gồm 35 điều 4 chương, là
một văn bản luật được soạn thảo “công phu” nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy

đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao (gồm 34 điều 8 chương) và phù hợp hơn với điều
kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay như:
Quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh đang nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, cá nhân có thu
nhập từ tiền lương, tiền công và một số thu nhập theo Pháp lệnh Thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được điều chỉnh theo Luật thuế thu nhập cá
nhân. Ngoài ra, có bổ sung thêm với đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu
thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế,
quà tặng. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập
bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều
được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc điều tiết thu
nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ
tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 9 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những
đơn vị kinh doanh có quy mô lớn).
Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ hơn đối
tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập,
kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư
trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc
tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung
thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là “cá nhân có nơi ở
thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để
ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”
(4)
. Quy định như vậy làm cho việc xác

định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết các đối tượng nộp thuế và
mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập được phân
chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp
lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không
thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng
thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông
lệ quốc tế. Luật thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn chế này với việc phân
loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế
bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư
vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác
(bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà
tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù
hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy
định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp
dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng
biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu
nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ
chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn
trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc
sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà
(4)
Luật thuế thu nhập cá nhân,ngày 01 tháng 01 năm 2009, điều 2 điểm b
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 10 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

ở, đất ở duy nhất được miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các
cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với
trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh

thuế khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng cho một hợp đồng hoặc một lần
phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, có
một quy định đáng chú ý là Luật thuế thu nhập cá nhân quy định miễn thuế đối với
thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ
nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ
với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em
ruột với nhau. Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập
từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các
hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng
khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng,
các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
được miễn thuế thu nhập cá nhân. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút khoản
tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền
kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi
đồn vốn của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã bổ sung các khoản
thu nhập sau vào diện miễn thuế từ thu nhập như thu nhập từ tiền lương làm việc ban
đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ;
lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và
từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ,
từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập
hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận;
thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Đối với khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được
trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác.
Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt
động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu qua thuế"
của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà nước

bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện. Chẳng
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 11 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

hạn như, một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng
(thu nhập bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10
triệu đồng. Khi đó, 10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu
thuế như sẽ được trình bày dưới đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này
giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường hợp này, coi
như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu
đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng. Việc bổ sung một số khoản thu
nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng
được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó khăn và thể hiện chính sách
khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế - xã
hội nhằm tăng cường lao động sản xuất…
Áp dụng giảm trừ gia cảnh cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng,
cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu
đồng/tháng và mở rộng áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ kinh doanh trước khi
xác định nghĩa vụ thuế. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo
nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp
thuế. Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên,
con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả
năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn
mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải
trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…). Đây chính là
vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhiều nhất, xuất phát từ cơ sở là, thay vì
áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng
đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp
dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế.
Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công

bằng hơn.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, áp dụng chịu thuế
theo thu nhập thường xuyên, tính thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với bốn mức
thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối với Luật thuế thu nhập cá nhân
thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng cho thu nhập từ kinh doanh và từ tiền
lương, tiền công, mức thuế suất thấp nhất còn 5% và mức thuế suất cao nhất là 35%,
với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy bậc áp dụng chung cho cả người Việt Nam
và người nước ngoài (cụ thể như bảng 1)
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 12 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Bậc
thuế
Thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất (%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 240 Trên 10 đến 20 15
4 Trên 240 đến 420 Trên 20 đến 35 20
5 Trên 420 đến 660 Trên 35 đến 55 25
6 Trên 660 đến 960 Trên 55 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35
Bảng 1 : Biểu thuế lũy tiến từng phần.
Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng bậc
thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế
suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện
tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động sự

đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải. Mặc khác, việc giảm mức
thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản
xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng.
Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu
thuế luỹ tiến toàn phần (như bảng 2):
Loại thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
1 Thu nhập từ đầu tư vốn 5
2 Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5
3 Thu nhập từ trúng thưởng 10
4 Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
5 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
Trường hợp không xác định được thu nhập tính thuế thì áp
dụng thuế suất tính trên gía bán
25
2
6 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
Đối với chuyển nhượng chứng khoán áp dụng thu thuế theo
từng phần
20
0.1
Bảng 2: Biểu thuế lũy tiến toàn phần.
Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối
với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 0.1% đến 20% tính trên toàn bộ thu
nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
Có thể nói, Luật thuế TNCN có rất nhiều điểm đổi mới phù hợp với thực tiễn và
khoa học so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 13 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

1.2 Khái quát về công tác quản lý thuế

1.2.1 Khái niệm về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Trước hết ta tìm hiều về quản lý thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý một cách có tổ chức, có hướng đích nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Về phương thức tác động và hiệu lực thì quản lý dựa vào pháp luật và các thể
chế, quy chế, nguyên tắc, mô hình đã định trước.
Về nội dung chức năng, quản lý bao gồm các việc như xây dụng kế hoạch xắp
xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động.
Về phạm vi tác động và hình thức thể hiện: quản lý là một phạm trù rộng, để tiến
hành quản lý, chủ thể quản lý phải tiến hành đồng bộ rất nhiều chức năng, trong đó có
chức năng lãnh đạo.
Như vậy quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của các cơ quan chức
năng trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế thu nhập cá nhân, để
thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu
nhà nước đặt ra.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Công tác quản lý thuế TNCN là một phần quan trọng của quản lý tài chính Nhà
nước, Công tác này cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao gồm toàn bộ các
công việc thuộc các lĩnh vực lập pháp và hành pháp, tư pháp về thuế TNCN. Nội
dung của công tác quản lý thuế TNCN bao gồm :
1.2.2.1. Quản lý các đối tượng nộp thuế, tính thuế và các khoản được khấu
trừ theo quy định
a. Xác định đối tượng nộp thuế
Thuế TNCN thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng đồng thời là
đối tượng nộp thuế. Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung quan
trọng của thuế TNCN, từ đó mới có thể vận dụng cách tính thuế cho phù hợp. Khi tiến
hành xác định đối tượng nộp thuế, người ta thường dựa vào hai tiêu thức là “nơi cư
trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú", một cá nhân được xác định là cư trú ở một nước phải
nộp thuế tại đó đối với mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi trên thế giới, còn
một cá nhân được xác định là không cư trú ở một nước chỉ phải nộp thuế cho phần thu

nhập phát sinh tại nước đó.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 14 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” lại quy định: một cá nhân phải nộp
thuế thu nhập cá nhân ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát sinh
tại nước đó.
Hiện nay, đa số các nước tính thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư trú”. Tuy nhiên,
khái niệm thế nào là một cá nhân cư trú tại một nước lại được định nghĩa khác nhau
trong luật thuế TNCN của các nước. Rất có nhiều nước quy định cá nhân cư trú là
người định cư tại nước đó hoặc những người đến nước đó không thường xuyên nhưng
tổng số ngày ở tại nước đó vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương lịch hay
năm tài chính). Tuy nhiên, một số nước lại đưa ra những định nghĩa về cá nhân cư trú
cụ thể hơn và có điểm khác với định nghĩa nêu trên.
Chẳng hạn như Nhật Bản đưa ra một định nghĩa tương đối phức tạp, trong đó có 3
khái niệm khác nhau là cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không thường
xuyên và cá nhân không cư trú. Cụ thể là :
+ Cá nhân cư trú thường xuyên là cá nhân định cư thường xuyên ở Nhật Bản liên
tục từ 1 đến 5 năm trở lên .
+ Cá nhân cư trú không thường xuyên là cá nhân không có ý định cư trú thường
xuyên tại Nhật nhưng có nơi thường trú ở Nhật từ 1 năm trở lên và không được quá 5
năm .
+ Cá nhân không cư trú là cá nhân không có nơi định cư tại Nhật Bản và sống tại
Nhật Bản ít hơn 1 năm .
Các cá nhân nước ngoài đến Nhật Bản sẽ được coi là có nơi cư trú tại Nhật Bản
trừ khi các hợp đồng lao động hoặc các giấy tờ khác chỉ rõ rằng họ sẽ ở lại Nhật Bản
ít hơn một năm. Các cá nhân cư trú thường xuyên bị tính thuế trên thu nhập từ mọi
nguồn; các cá nhân cư trú không thường xuyên bị tính thuế trên thu nhập có nguồn
gốc từ nước ngoài nhưng được trả tại Nhât Bản hoặc chuyển đến Nhật Bản. Các cá
nhân không cư trú chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản.

(5)
Ở Trung Quốc quy định, một cá nhân đang cư trú trong biên giới của Trung Quốc
hoặc những người không cư trú, nhưng cuộc sống bên trong biên giới của Trung
Quốc cho không ít hơn một năm phải nộp thuế thu nhập cá nhân trên bấc kỳ thu nhập
thu được từ bên trong hay bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một cá nhân không phải
là người cư trú cũng như cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc hoặc những
(
5)
/> GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 15 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

người không cư trú và sống bên trong biên giới ít hơn một năm phải nộp thuế thu
nhập cá nhân trên bất kỳ thu nhập thu được từ bên trong biên giới Trung Quốc.
(6)
Luật thuế TNCN ở Việt Nam quy định, cá nhân bao gồm cá nhân cư trú và không
cư trú. Đối với cá nhân cư trú thì phải có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính
trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt
tại Việt Nam hoặc có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở
đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng
thuê có thời hạn, có thu nhập chịu thuế phát sinh bấc cứ trong và ngoài lãnh thổ
Việt Nam điều phải nộp thuế còn cá nhân không cư trú thì không đáp ứng về điều
kiện nêu trên nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam cũng
phải nộp thuế.
Sự phân biệt cư trú hay không cư trú của một đối tượng nộp thuế là rất quan
trọng, để xác định đối tượng nộp thuế đó phải nộp thuế ở mức độ nào. Như vậy, có
thể thấy tùy vào chính sách và trình độ quản lý của từng nước mà mỗi nước sẽ đưa ra
các định nghĩa đối tượng nộp thuế sao cho phù hợp với tình hình của mình.
b. Xác định đối tượng tính thuế
Việc xác định đối tượng tính thuế là một trong những nội dung quan trọng hàng
đầu được đề cập đến trong chính sách thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam cũng như

các nước trên thế giới. Căn cứ vào đó, người ta có thể thấy rằng loại thuế thu nhập cá
nhân áp dụng có công bằng không, thuế này tạo được nguồn thu như thế nào cho ngân
sách nước đó. Để tính được thuế TNCN phải nộp, trước tiên phải xác định được
những khoản thu nhập nào là đối tượng chịu thuế, khoản thu nhập nào là đối tượng
không chịu thuế và tính toán thu nhập đó như thế nào. Sau đó, căn cứ vào một số quy
định khác trong chính sách thuế như các khoản miễn giảm, khấu trừ… cơ quan thuế
xác định được thu nhập tính thuế. Từ thu nhập tính thuế và thuế suất sẽ xác định được
thuế phải nộp, sao cho người nộp thuế chấp nhận và để luật thuế có tính khả thi cao.
Có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu kinh tế, xã hội trong việc thu thuế TNCN.
Theo pháp luật thuế TNCN, để xác định đối tượng tính thuế đối với người có thu
nhập trước hết, chúng ta cần xác định một khái niệm cho thuật ngữ “thu nhập”. Cho
đến nay, hầu hết các đạo luật về thuế TNCN ở các nước thường chỉ quy định những
khoản thu nhập nào phải tính thuế. Tuy nhiên, trên thực tế cũng tồn tại một số quan
niệm về thu nhập như sau: “Thu nhập là giá trị nhận được của một pháp nhân hay thể
(
6)

personal_icm_tax_99.html
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 16 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

nhân nào đó trong một khoảng thời gian nhất định không phân biệt nguồn gốc phát
sinh. Giá trị đó có thể được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay các giá trị vật chất,
phi vật chất nhưng có thước đo chung là tiền tệ”.
(7)
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân kiếm được
trong một khoảng thời gian (thường là một năm) sau khi đã khấu trừ đi các chi phí để
tạo ra thu nhập đó. Mặc dù luật thuế TNCN quy định 10 nhóm thu nhập chịu thuế ta
có thể chia thành hai nhóm: Thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên.

 Thu nhập thường xuyên: Được hiểu là các khoản thu nhập phát sinh thường
xuyên, có tính chất đều đặn và ổn định trong tháng, trong năm và có thể dự tính được,
bao gồm:
- Thu nhập từ kinh doanh: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ; Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công: Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất
tiền lương, tiền công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo
quy định của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ
cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có
yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp
luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp
một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động,
trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm
theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi
trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội; Tiền thù lao dưới các hình thức; Tiền nhận được
từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và
các tổ chức; Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc
không bằng tiền; Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu
được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng
quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm
pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
(
7)
Theo bách khoa từ điển.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 17 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Trong đó thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng cá nhân,

bình quân tháng trong năm nằm trong giới hạn phải nộp thuế do biểu thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao quy định.
 Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập phát sinh theo từng
lần, từng đợt riêng lẻ, không có tính chất đều đặn, nằm trong mức giới hạn phải nộp
thuế thu nhập, được tính theo biểu thuế toàn phần bao gồm: Thu nhập từ đầu tư vốn,
bao gồm: Tiền lãi cho vay; Lợi tức cổ phần; Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình
thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn
trong các tổ chức kinh tế; Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; Thu nhập từ
chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở
hữu hoặc sử dụng nhà ở; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước;
Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
- Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: Trúng thưởng xổ số; Trúng thưởng trong các
hình thức khuyến mại; Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; Trúng
thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
- Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử
dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; Thu nhập từ chuyển giao công nghệ;
- Thu nhập từ nhượng quyền thương mại;
- Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ
sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử
dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ
sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử
dụng.
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân kiếm được
trong một khoảng thời gian (thường là một năm) sau khi đã khấu trừ đi các chi phí để
tạo ra thu nhập đó. Tuy nhiên không phải nước nào cũng đưa tất cả các nguồn thu
nhập ở trên vào diện thu nhậo tính thuế.

c. Xác định các khoản khấu trừ để tính thuế
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi tính thuế TNCN là đối tượng tính thuế
phải là thu nhập do người đóng thuế toàn quyền sử dụng theo quy định của pháp luật.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 18 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng tính thuế là thu nhập đã khấu trừ đi các khoản chi
phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó với một số giới hạn nhất định. Tùy theo đặc điểm
kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia mà người ta quy định những khoản khấu trừ phù
hợp. Tuy nhiên, về cơ bản có một nguyên tắc chung: Tất cả các chi phí trực tiếp liên
quan đến việc tạo ra thu nhập cá nhân đều được khấu trừ để xác định thu nhập thực
nhận được, sau đó trừ tiếp một số khoản mang tính chất xã - hội trước khi tính thuế.
Chẳn hạn như:
Thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, dịch vụ của các hộ kinh
doanh cá thể không thuộc diện tính thuế thu nhập doanh nghiệp (các chi phí cần thiết
và liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập
mà người nộp thuế đã thực hiện);
Thu nhập từ tiền lương, tiền công, hưu trí, trợ cấp xã hội và các khoản tương tự
(cho phép trừ ra khỏi thu nhập một mức nào đó gọi là chi phí nghề nghiệp như: ca sĩ,
nhà báo, nhạc công…);
Thu nhập từ lãi cổ phần, lãi cho vay, lãi tiền gửi (chi phí mua các chứng khoán có
giá);
Thu nhập từ thừa kế (theo quan hệ thừa kế là trực hệ, quan hệ vợ chồng hay quan
hệ khác);
Các khoản trả có tính chất lương như trợ cấp ốm đau, lương hưu, trợ cấp tai nạn
lao động, trợ cấp thất nghiệp… được chi trả từ quỹ bảo hiểm xã hội do chúng là đối
tượng của chính sách xã hội nên nhiêu nước không thu thuế đối với các khoản thu
nhập này.
Các khoản phúc lợi xã hội như sử chữa nhà cửa, thiên tai,chữa bệnh, dịch họa
hoặc chi phí của người tàn tật…Thu nhập được sử dụng cho các khoản chi phí này

thường được miễn thuế thu nhập. Sở dĩ như vậy là để bảo đảm bảo có sự bình đẳng
với những người không phải chi những khoản chi phí này.
Các khoản chi phí nuôi người phụ thuộc mang tính chất gánh nặng gia đình cũng
được quy định thành một khoản khấu trừ tùy theo quy đđịnh của Nhà nước. Tất cả
các khoản chi phí trên thường được các nước quy định một giới hạn khấu trừ cụ thể
gọi là suất miễn thu.
Các khoản chi phí cá nhân khác nhằm tái tạo sức lao động, chi phí đảm bảo điều
kiện sống tối thiểu của cá nhân.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 19 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Đây là một trong những đặc điểm của thuế TNCN là có quan tâm đến sinh hoạt
của đối tượng nộp thuế và tính thuế theo khả năng. Điều này cũng cho thấy thu nhập
cá nhân luôn gắn với các chính sách xã hội.
1.2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế
Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay không thì
sự thành công trong việc thực hiện các chính sách thuế, còn phụ thuộc rất lớn vào sự
hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán bộ thuế, cũng như người
nộp thuế. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi người dân trong xã hội, cơ
quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách thuế
Công tác tập huấn về tuyên truyền thuế TNCN sẽ được tổ chức theo từng cấp.
Công tác này cần phải được thực hiện trước hết từ cán bộ thuế, theo đó mỗi địa
phương sẽ cử một đại diện lãnh đạo Cục Thuế, một lãnh đạo phòng thuế thu nhập cá
nhân hoặc một lãnh đạo phòng có kiến thức am hiểu sâu về thuế thu nhập cá nhân, có
kỹ năng thuyết trình tốt. Sau tập huấn sẽ là các giáo viên để phổ biến, hướng dẫn lại
cho cán bộ thuế ở địa phương; các đại biểu quốc hội trên địa bàn; các cơ quan hành
chính sự nghiệp; các hiệp hội; đoàn thể; các doanh nghiệp và nhân dân…, đảm bảo
cho mọi người điều nắm bắt được những nội dung cơ bản nhất của luật.
Nội dung của đợi tập huấn chia làm hai phần: đầu tiên sẽ hệ thống, đánh giá lại
tình hình thực hiện chính sách điều tiết về thuế TNCN. Tiếp theo là phổ biến nội dung

Luật thuế TNCN với những giải thích rõ ràng, chi tiết về một số điểm cần lưu ý.
Để thành công trong công tác tuyên truyền, phổ biến thuế, các cơ quan thuế cần
phải phối hợp với nhau như: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ
Thông tin và Truyền thông tổ chức tốt việc tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, các nội
dung cơ bản của Luật, các văn bản hướng dẫn và thủ tục hành chính về thuế thu nhập
cá nhân đến tất cả các cơ quan, doanh nghiệp và mọi người dân hiểu, thực hiện và
giám sát việc thực hiện. Chủ động triển khai hệ thống hỗ trợ, hướng dẫn về thuế; Bộ
trưởng các Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật Thuế thu nhập cá nhân
trong phạm vi Bộ, ngành, địa phương mình; Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình ở địa phương dành thời lượng thoả
đáng để tuyên truyền, phổ biến về Luật Thuế thu nhập cá nhân. Các báo của Trung
ương và địa phương dành chuyên mục để phổ biến, đăng tải các ấn phẩm tuyên truyền
về thuế thu nhập cá nhân, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi, áp phích, tổ chức các cuộc
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 20 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

thi tìm hiểu về thuế TNCN
(8)
…để nhân dân nắm bắt các quy định về đối tượng thuộc
diện nộp thuế, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng đồng thời tạo trong cán bộ và các
tầng lớp nhân dân, tổ chức ý thức tự giác chấp hành quy định của Luật, ủng hộ, tự
giác và đồng tình trong việc chi trả thu nhập… qua đó kịp thời biểu dương các cá
nhân tự giác thực hiện và chấp hành nghiêm túc các quy định về nộp thuế; phát hiện,
phê phán kịp thời những hiện tượng, hành vi vi phạm quy định của Luật thuế thu nhập
cá nhân cũng như bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ thực hiện
Luật thuế thu nhập cá nhân trong cộng đồng xã hội.
1.2.2.3. Công tác đào tạo cán bộ công chức trong quản lý thuế
(9)


Từ khi mới thành lập ngành thuế đã xác định công tác đào, tạo bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công chức thuế là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu. Hơn 16 năm qua cơ quan thuế từ Trung ương đến địa phương đã
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhiều hình thức: vừa đào tạo chính quy vừa
tăng cường tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thuế và học hỏi các nước trên thế
giới và tiến hành như sau:
Thực hiện được mục tiêu trên, đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế sẽ được đào
tạo, bồi dưỡng tập trung theo ba nội dung cơ bản: Một là giáo dục đạo đức, tác phong
nghề nghiệp, trách nhiệm pháp luật và phương pháp giao tiếp, ứng xử. Hai là đào tạo,
bồi dưỡng các kiến thức kinh tế, pháp luật liên quan nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ quản lý. Ba là đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng quản lý
thuế theo cấp độ từ cơ bản đến chuyên sâu và nâng cao từng loại công chức thực hiện
các chức năng và lĩnh vực quản lý thuế khác nhau, trước mắt tập trung vào các kỹ
năng tuyên truyền pháp luật thuế và hỗ trợ người nộp thuế; thanh tra kiểm tra, kiểm
tra; quản lý kê khai và kế toán thuế; quản lý nợ thuế và cưỡng chế thu nợ thuế; dự báo
thu ngân sách nhà nước về thuế, quản lý thuế thu nhập cá nhân… Theo Tổng cục
thuế, tổng nhu cầu đào tạo về nghiệp vụ quản lý thuế hiện nay là khoảng 264.000
(năm 2010) lượt người bình quân 66.000 lượt người/năm. Trong đó nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng cho công chức lãnh đạo cấp Ban, cấp Cục Thuế khoảng 1.700 lượt người,
bình quân 430 lượt người/năm.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi nhân tố đều
có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo tính chất và trạng thái
của nhân tố đó. Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước là phải
(8)
Chỉ thị số 22/2008/CT-TTg
(
9)

Tập chí thuế nhà nuốc số 22


(140) tháng 6-2007
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 21 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực cũng như phát huy những ảnh hưởng tích
cực nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
1.2.3.1. Chính sách chung của Nhà nước
Thuế TNCN là sắc thuế nhạy cảm và phức tạp vào bậc nhất trong các sắc thuế ở
nước ta. Thuế này trực tiếp tác động đến túi tiền của người dân trong điều kiện mức
sống của đa số dân còn thấp, lại không am tường pháp luật và thủ tục thuế, cũng chưa
có đủ ý thức công dân để thật thà khai báo thu nhập.
Khả năng kiểm soát và chứng minh thu nhập cá nhân rất hạn chế, đặc biệt đối với
khu vực hành nghề tự do và kinh doanh nhỏ. Đối tượng nộp thuế đa dạng, thu nhập
tính thuế không đồng nhất, bao gồm từ tiền công, tiền lương của người lao động đến
lãi của những nhà kinh doanh, nhà đầu tư Tính nhạy cảm và phức tạp như vậy đòi
hỏi phải rất thận trọng để tránh những sai sót không đáng có trong chính sách và biện
pháp, có thể tạo ra những phản ứng xã hội.
Một chính sách thuế được cho là công bằng, nếu không có biện pháp quản lý khả
thi tất yếu sẽ dẫn tới bất công trong thực tế. Thực tế thu thuế thu nhập cá nhân hiện
hành đối với những người hành nghề tự do cho thấy rõ như vậy.
Để bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp ngay từ đầu, đòi hỏi các
nhà soạn thảo luật giải trình biện pháp và Quốc hội chỉ thông qua từng chính sách khi
biện pháp được giải trình có tính khả thi, trả lời được rõ ràng, cụ thể và có sức thuyết
phục những câu hỏi còn vướng mắt khi áp dụng chính sách thuế Tính thuế thế nào?
Chẵng hạn như:
- Theo luật thuế TNCN, thu nhập chịu thuế từ kinh doanh của hộ nhỏ được xác định
bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi phí. Như vậy đối với các hộ nhỏ trước nay vẫn thu
Thuế Giá trị gia tăng và Thuế Thu nhập doanh nghiệp bằng cách khoán thì cách tính
doanh thu và chi phí những hộ này thế nào?

- Đối với thu nhập từ lao động của những người thu nộp tại nguồn, cách thu đối với
những người có thu nhập ở nhiều nơi, cách quyết toán và hoàn thuế như thế nào để
bảo đảm đơn giản về thủ tục mà lại không thất thu, giải quyết nhanh gọn, không phiền
hà cho người nộp thuế. Cách thu đối với những người hành nghề tự do làm sao đơn
giản thủ tục nhưng đặt được thu nhập của họ vào tầm kiểm soát của cơ quan thuế.
Đây là hai vấn đề về mặt biện pháp cần được giải quyết ổn thỏa.
- Biện pháp thu thuế trong những trường hợp chuyển nhượng chứng khoán. Đối với
những chứng khoán giao dịch qua thị trường chứng khoán, dự luật quy định thu tại
nguồn, tức là qua các công ty chứng khoán. Vậy các công ty này vừa phải thường
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 22 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

xuyên thu thuế khi phát sinh mỗi chuyển nhượng, vừa phải quyết toán thuế cả năm
cho từng khách hàng của mình hay sao? Giải quyết ra sao khi một nhà đầu tư lại mua
bán thông qua nhiều công ty chứng khoán? Những chuyển nhượng ngoài thị trường
chứng khoán có thu thuế hay không và nếu thu thì dùng biện pháp nào? Có chính sách
phân biệt và cách phân biệt nhà đầu tư dài hạn và nhà đầu tư ngắn hạn?
- Luật quy định thu nhập chịu thuế chuyển nhượng bất động sản tính bằng cách lấy
giá bán trừ giá mua hay chi phí tạo lập. Cách tính giá bán và giá mua hay chi phí tạo
lập như thế nào, đặc biệt là đối với những bất động sản tạo lập đã lâu đời?
- Thuế TNCN lần này có chính sách giảm trừ gia cảnh được dư luận hoan nghênh.
Song về mặt biện pháp thực hiện lại không hề đơn giản. Không đòi hỏi người nộp
thuế chứng minh về người phụ thuộc được giảm trừ, khó loại trừ khả năng man khai.
Nếu đòi hỏi chứng minh thì vấn đề trở nên rắc rối. Trong thực tế, chứng minh quan hệ
ruột thịt không khó, vì đã có nhiều giấy tờ ghi nhận hoặc có thể dựa vào xác nhận của
chính quyền địa phương. Song chứng minh về quan hệ nuôi dưỡng là vấn đề tế nhị,
riêng tư của từng gia đình và có rất nhiều kịch bản có thể xảy ra. Chính quyền địa
phương không thể xác nhận. Vậy thủ tục cụ thể thế nào cho vừa đơn giản, không gây
phiền hà, vừa chống man khai hoặc tạo được lòng tin rằng không có khai man.
Đó là những câu hỏi trong nhiều câu hỏi của cuộc sống cần phải giải đáp bằng

những biện pháp khả thi với những lý lẽ thuyết phục. Có vậy chính sách mới có tính
khả thi. Và để trả lời được, các biện pháp cần được nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn
nữa. Do đó thời gian nghiên cứu của các các cơ quan soạn thảo luật và cả của Quốc
hội cần phải kéo dài hơn.
1.2.3.2 Cơ sở vật chất của ngành thuế
Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế TNCN. Những quy
định trong chính sách về diện thu thuế, phương thức kê khai, nộp thuế, quyết toán
thuế… phụ thuộc rất nhiều vào khả năng đáp ứng của ngành thuế. Khả năng này lại
phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật chất của ngành thuế. Cũng như vậy, sự phát triển của
hệ thống ngân hàng và ứng dụng các tiến bộ khoa học về tin học và mạng sẽ là một
nhân tố rất hữu ích cho cơ quan thuế trong việc quản lý thu thuế hiệu quả, chính xác,
kịp thời và tiết kiệm chi phí. Nếu như các khoản thu nhập được thanh toán qua hệ
thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản séc hoặc bằng thẻ ATM cá nhân thì sẽ rất
thuận tiện cho cơ quan thuế trong việc giám sát. Phương pháp thu thuế TNCN thông
qua hệ thống ngân hàng, điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi phí cho cơ quan
thuế, vừa kiểm soát chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy, sự
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 23 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm với việc phát triển hình thức thanh toán qua
tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện tốt công tác quản lý thuế
TNCN và xây dựng mạng thông tin nội bộ và phần mềm ứng dụng để quản lý cơ sở
dữ liệu sẽ đòi hỏi những chi phí bước đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn thì điều
này sẽ tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.
1.2.3.3 Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế
Trình độ đội ngũ cán bộ thuế đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý
thuế, đặc biệt là thuế TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các nội dung của công
tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện chính sách tới
thanh tra thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế.
Để có thể ban hành những chính sách thuế đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của

những thay đổi kinh tế xã hội và đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý
thuế TNCN thì đội ngũ cán bộ thuế cấp cao, ở tầm hoạch định chính sách cần phải có
trình độ cao về vấn đề thực tế cũng như cơ bản liên quan đến ngành thuế.
1.2.3.4. Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư
Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư ảnh hưởng lớn tới khâu quản lý thu
thuế và thanh tra thuế. Quản lý thuế TNCN khó khăn và phức tạp chủ yếu ở khâu
quản lý thu nhập của các đối tượng. Nếu như các khoản thu nhập được thanh toán qua
hệ thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản séc cá nhân thì sẽ rất thuận tiện cho cơ
quan thuế trong việc giám sát. Bên cạnh đó, nếu phương thức thanh toán trong dân cư
chủ yếu thông qua ngân hàng thì nhà nước có thể áp dụng phương pháp thu thuế
TNCN thông qua hệ thống ngân hàng. Điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi
phí cho cơ quan thuế, vừa kiểm soát chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế.
Chính vì vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm với việc phát triển hình
thức thanh toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện tốt công
tác quản lý thuế TNCN.
1.2.3.5 Tính nghiêm minh của luật pháp
Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, luật pháp được thực hiện nghiêm minh
sẽ đảm bảo việc vi phạm luật giảm đi. Các đối tượng nộp thuế cũng như cơ quan thu
thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ biết rằng
khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị phát hiện. Như vậy, công
tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt được hiệu quả.
1.2.3.6. Tình hình kinh tế, mức sống của người dân và trình độ dân trí của
đối tượng nộp thuế
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 24 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Hiệu quả của công tác quản lý thu thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ
phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu vực,
số đối tượng nộp thuế thu nhập nhiều sẽ giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu
được, ngược lại có ít đối tượng nộp thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một

đồng thuế thu được sẽ cao. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của
cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói
riêng, khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu
quả hơn.
Trình độ của người dân tác động mạnh mẽ đến ý thức chấp hành pháp luật nói
chung và pháp luật thuế nói riêng, tỉ lệ thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi
người dân có ý thức chấp hành luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế.
Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra. Chính vì vậy, công tác quản lý thu thuế và thanh tra
thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn. Tóm lại, trình độ dân trí của người
dân càng cao thì ý thức chấp hành pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế càng lớn,
đồng thời nó cũng ảnh hưởng một phần tới công tác quản lý thuế TNCN.
1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý thuế
Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thuế để quản lý thuế TNCN cũng như các sắc
thuế khác. Tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, bộ máy
quản lý thuế cũng được xây dựng một cách tương ứng.
Ngày 7/8/1990, hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 218-HĐBT về việc
thành lập ngành thuế nhà nước, hợp nhất ba hệ thống tổ chức: Thu quốc danh, thuế
công thương nghiệp, thuế nông nghiệp. Ngành Thuế nhà nước được tổ chức qua ba
cấp từ tổng cục thuế, cục thuế đến chi cục thuế, được xác định rõ quyền hạn, trách
nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế ngành dọc cấp trên và chính
quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách
chế độ thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc “song hành lãnh
đạo”.
Sau một thời gian hoạt động, do nhận thấy những hạn chế trong hệ thống thuế nhà
nước và để phù hợp với tình hình mới, nên Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định
số 115/2009/QĐ-TTg, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính như sau:
* Về vị trí và chức năng:
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 25 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm

×