Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật chống hành vi kinh doanh đa cấp bất chính tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
__________________

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
HỆ CHÍNH QUY
KHĨA 34 (KHĨA HỌC 2009 - 2013)

PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI
KINH DOANH ĐA CẤP BẤT CHÍNH
TẠI VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Lớp
Giáo viên hướng dẫn

:
:
:
:

Huỳnh Lan Phương
0955010175
Chất Lượng Cao 34
Th.S Nguyễn Thị Thanh Lê

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ trợ từ Giáo
viên hướng dẫn là Th.S Nguyễn Thị Thanh Lê. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực và đảm bảo tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Những số
liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Ngồi
ra, đề tài cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ
quan tổ chức khác, và cũng được thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
trước Hội đồng về kết quả khóa luận của mình.

TP Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 7 năm 2013
Tác giả

Huỳnh Lan Phương


LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH ĐA CẤP BẤT CHÍNH .................3
1.1 Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh ... 3
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh ............................................................. 3
1.1.2 Tổng quan về cạnh tranh không lành mạnh và hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ...................................................................................................... 6
1.2 Khái quát về kinh doanh đa cấp .......................................................................... 8
1.2.1 Khái niệm kinh doanh đa cấp ........................................................................ 8
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh đa cấp ................................................ 10
1.2.3 Ưu điểm của hoạt động kinh doanh đa cấp ................................................. 12
1.3 Kinh doanh đa cấp bất chính – Hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............. 14

1.3.1 Khái niệm kinh doanh đa cấp bất chính ...................................................... 14
1.3.2 Đặc điểm của hành vi kinh doanh đa cấp bất chính .................................... 15
1.3.3 Phân biệt kinh doanh đa cấp hợp pháp với kinh doanh đa cấp bất chính ... 17
1.3.4 Tác động tiêu cực của hành vi kinh doanh đa cấp bất chính....................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................21
CHƯƠNG 2: ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI KINH DOANH ĐA
CẤP BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM ........................................................................22
2.1 Khái niệm điều chỉnh pháp luật ........................................................................ 22
2.2 Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với hành vi kinh doanh đa cấp bất chính tại
Việt Nam ........................................................................................................... 23
2.2.1 Quy định về các hành vi của kinh doanh đa cấp bất chính ......................... 23
2.2.2 Quy định về quản lý và xử phạt các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính . 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................38
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CHỐNG KINH DOANH ĐA CẤP BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM .39
3.1 Thực tiễn thực hiện pháp luật về kinh doanh đa cấp bất chính ........................ 39
3.1.1 Thực tiễn cấp phép và quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp ..................... 39
3.1.2 Thực tiễn xử lý hành vi kinh doanh đa cấp bất chính ................................. 43


3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống
kinh doanh đa cấp bất chính ............................................................................. 50
3.2.1 Bổ sung và hồn thiện pháp luật chống kinh doanh đa cấp bất chính ........ 50
3.2.2 Giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống kinh
doanh đa cấp bất chính ................................................................................ 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..........................................................................................55
KẾT LUẬN ...............................................................................................................56


LỜI MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
Kinh doanh đa cấp xuất hiện trên thế giới vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX,
gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học người Mỹ Karl Renborg (1887-1973). Thâm
nhập vào thị trường Việt Nam hơn mười năm nay, kinh doanh đa cấp đã có những
ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự phát triển kinh tế và xã hội nước ta. Hiện nay kinh doanh
đa cấp đã được nhìn nhận một cách cơng tâm hơn so với thời điểm đầu xuất hiện, tuy
nhiên, những định kiến tiêu cực về phương thức kinh doanh này vẫn chưa thể hồn
tồn xóa bỏ. Ngun nhân chính xuất phát từ việc một số doanh nghiệp đã lợi dụng
các dạng biến tướng của kinh doanh đa cấp nhằm thu lợi bất chính, gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho người dân và đất nước. Nhìn một cách khách quan, bản chất
kinh doanh đa cấp mang nhiều đặc điểm tích cực, đây là một loại hình kinh doanh
giàu tiềm năng phát triển, và đã đạt được một số thành tựu nhất định ở các nước trên
thế giới. Thừa nhận sự tồn tại của kinh doanh đa cấp đồng thời tạo ra cơ chế phát triển
bền vững cho loại hình này chính là tơn trọng quyền tự do kinh doanh của các doanh
nghiệp và phù hợp với chủ trương phát triển của Đảng và Nhà nước. Một minh chứng
cụ thể cho lập luận nói trên là việc Nhà nước đã ban hành khung pháp lý thừa nhận
tính hợp pháp của kinh doanh đa cấp và xây dựng một cơ chế quản lý hợp lý đối với
hình thức kinh doanh này.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động kinh doanh đa cấp vẫn còn diễn biến rất phức
tạp, các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính vẫn xảy ra và gây nhiều tác động tiêu
cực cho xã hội. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh hoạt
động kinh doanh đa cấp vẫn chưa hoàn thiện. Ngồi những quy định đúng đắn có giá
trị thực tiễn còn tồn tại những quy định chưa hợp lý và những điểm hạn chế nhất định,
gây khó khăn trong thực tế quản lý. Do vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải
thực hiện những bài nghiên cứu, đánh giá nhằm nhận thức rõ hơn về loại hình kinh
doanh này và những hành vi kinh doanh đa cấp bất chính có thể xảy ra. Chính vì thế
việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh, hoạt động quản lý của Nhà nước và tình hình
thực tế là rất cần thiết và các nghiên cứu đó sẽ tạo cơ sở, tiền đề để hoàn thiện các
quy định pháp luật về chống hành vi kinh doanh đa cấp bất chính. Vì các lý do trên,
tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật chống hành vi kinh doanh đa cấp bất chính tại Việt

Nam” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tác giả mong muốn được tạo ra cái nhìn cụ thể hơn về phương thức kinh doanh
đa cấp cùng những vấn đề xung quanh nó, qua đó chứng minh được sự cần thiết của
việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hành vi kinh doanh đa cấp, đặc biệt là tầm
quan trọng của pháp luật trong công tác phịng chống các hành vi kinh doanh đa cấp
bất chính. Theo đó, tác giả mong muốn có thể đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm
1.

1


xây dựng, hồn thiện, nâng cao tính khả thi và hiệu quả áp dụng trên thực tế của các
quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở những quy định của pháp luật và những kiến thức nền tảng chung về
pháp luật cạnh tranh cũng như về phương thức kinh doanh đa cấp, đề tài tập trung
nghiên cứu về hành vi kinh doanh đa cấp bất chính cùng những biểu hiện và tác động
tiêu cực của hành vi này, pháp luật điều chỉnh và cơ chế quản lý nhà nước đối với
hành vi, từ đó xác định những vấn đề cịn tồn tại về mặt pháp lý trong thực tiễn quản
lý hoạt động kinh doanh đa cấp và trong công tác đấu tranh phịng chống kinh doanh
đa cấp bất chính tại Việt Nam nhằm đưa ra phương hướng giải quyết những vấn đề
đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận, tác giả áp dụng phối hợp các phương pháp: duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phân tích, bình luận, so sánh, nhận xét, đánh giá, tổng hợp, thống kê,
liên hệ để nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu
Khóa luận bao gồm 2 chương:


Chương 1: Khái quát về kinh doanh đa cấp bất chính

Chương 2: Điều chỉnh pháp luật đối với hành vi kinh doanh đa cấp bất chính,
thực tiễn thực hiện và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống kinh doanh
đa cấp bất chính
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng
Đây là đề tài nghiên cứu dựa trên việc phân tích đánh giá các quy định pháp lý
hiện hành và tình hình thực tiễn, từ đó đưa ra những lý luận, bình luận và quan điểm
riêng của tác giả. Một số cơng trình nghiên cứu của các sinh viên khóa trước cũng đã
khai thác đề tài này, tuy nhiên hầu hết đều được thực hiện trong giai đoạn pháp luật
về cạnh tranh nói chung và về kinh doanh đa cấp nói riêng mới được ban hành và đưa
vào thực hiện. Do vậy, trong điều kiện hiện tại, sau gần mười năm thực thi Luật Cạnh
tranh 2004 cùng các văn bản pháp luật khác điều chỉnh hoạt động kinh doanh đa cấp,
các tình huống sự việc thực tế và những bất cập của pháp luật đã diễn biến phức tạp
hơn, tác giả mong muốn thực hiện đề tài này nhằm cập nhật và phân tích những vấn
đề mới nhất về kinh doanh đa cấp mà các đề tài trước chưa có cơ hội để tiếp cận, hy
vọng rằng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Do những hạn chế nhất định về mặt thời gian cũng như giới hạn về mặt nhận
thức của người viết, khóa luận vì thế khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Xin chân
thành cảm ơn cơ Nguyễn Thị Thanh Lê đã hướng dẫn nhiệt tình cùng tất cả các bạn
đã quan tâm, giúp đỡ và đóng góp thêm những nhận xét có giá trị, hỗ trợ tác giả hồn
thành đề tài này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 7 năm 2013.
2


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH ĐA CẤP BẤT CHÍNH
1.1 Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh

1.1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Khái niệm “cạnh tranh” tồn tại trong mọi lĩnh vực, khơng có cạnh tranh xã hội
khó có thể tồn tại và phát triển như hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay, để định nghĩa
khái niệm “cạnh tranh” vẫn còn nhiều quan điểm khơng thống nhất, nên tùy thuộc
vào mục đích nghiên cứu và hướng tiếp cận mà khái niệm “cạnh tranh” sẽ có những
cách hiểu khác nhau.
Theo nghĩa thơng thường, “cạnh tranh” được hiểu là hành động “đua tranh để
dành ưu thế về mình” hoặc “sự cố gắng giành phần thắng về mình giữa những người,
những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau” 1. Ở góc độ này, cạnh tranh
được tiếp cận như một hiện tượng xã hội thường ngày giữa các chủ thể xã hội. Các
chủ thể này vì cùng hướng tới một lợi ích nên đua tranh để giành về mình những lợi
thế nhất định.
Trong kinh doanh, cạnh tranh được hiểu là “sự tranh đua giữa những người sản
xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, bị chi phối bởi quan hệ cung – cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu
thụ và thị trường có lợi nhất”. 2
Cũng theo góc độ này, các nhà nghiên cứu pháp luật định nghĩa cạnh tranh là
“các hành động thể hiện nỗ lực của các chủ thể kinh doanh cùng một loại hoặc một
nhóm hàng hóa, dịch vụ cụ thể nhằm lơi kéo khách hàng sử dụng sản phẩm hàng hóa
dịch vụ do mình cung cấp với mục đích chiếm thị phần lớn hơn trên thị trường” 3.
Theo đó, cạnh tranh còn được xem là động lực cơ bản nhằm thúc đẩy thị trường phát
triển. Theo Cục Quản lý Cạnh tranh Việt Nam, cạnh tranh là “yếu tố đảm bảo duy trì
tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế
Việt Nam, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trị trụ cột, đảm bảo sự vận
hành hiệu quả của cơ chế thị trường”. 4
Như vậy, cạnh tranh, mà cụ thể là cạnh tranh trong kinh doanh – đối tượng được
nghiên cứu trong khóa luận này, là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc
giành lợi thế về yếu tố sản xuất, khách hàng, nhằm nâng cao vị thế của doanh nghiệp

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh

chấp thương mại, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr 9.
2
Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam />%A1nh%20tranh&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=30140 13:00 07/5/2013.
3
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd, tr 10.
4
15:10 07/5/2013.
1

3


đó trên thị trường. Cạnh tranh được thừa nhận như một quy luật sinh tồn tất yếu mà
bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường cũng đều phải chấp nhận. Cạnh tranh
công bằng thúc đẩy doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chạy đua với các doanh
nghiệp khác và với người tiêu dùng. Do đó, doanh nghiệp buộc phải tự tìm cách nâng
cao năng lực sản xuất của mình để tạo được hiệu quả kinh doanh tối ưu, mở rộng thị
trường cũng như nâng cao uy tín của mình trên thị trường.
Bên cạnh đó, cạnh tranh lành mạnh còn tạo ra nền kinh tế thị trường năng động
với số lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng phong phú, chất lượng hàng hóa ngày càng
cao, giá cả hợp lý, phù hợp với mọi tầng lớp tiêu dùng. Do đó cũng mang lại nhiều
sự lựa chọn hơn đối với hàng hóa và dịch vụ cũng như hướng tới lợi ích tốt nhất cho
người tiêu dùng. Tuy nhiên, cạnh tranh cùng với những đặc trưng cơ bản của nó sẽ
có những mặt tích cực như đã nêu trên cũng như những hạn chế nhất định, đòi hỏi
Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, rà sốt chặt chẽ nhằm tạo ra mơi trường cạnh
tranh tối ưu cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.1.1.2 Đặc điểm của cạnh tranh
Nhìn nhận dưới góc độ là cạnh tranh trong kinh doanh - một hiện tượng trong
nền kinh tế thị trường, cạnh tranh nhìn chung mang các đặc điểm cơ bản sau 5:
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh

có mục đích kinh doanh khác nhau.
Mỗi hiện tượng xã hội đều hình thành dựa trên những tiền đề nhất định. Cũng
vậy, cạnh tranh chỉ hình thành khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động
độc lập, có mục đích kinh doanh khác nhau nhưng đều hướng tới một hoặc một số
đối tượng như nguyên, nhiên, vật liệu hay khách hàng, và cùng mong muốn giành
được ưu thế và lợi ích về phía mình. Đặt trường hợp trên thị trường chỉ có một doanh
nghiệp duy nhất, hoặc nếu tất cả các doanh nghiệp đều có chung một mục tiêu kinh
doanh là làm lợi cho một chủ thể nhất định, hoặc mỗi doanh nghiệp chỉ hướng đến
những đối tượng khác nhau thì sẽ khơng tồn tại sự mâu thuẫn về lợi ích cũng như
định hướng hoạt động, do đó sẽ khơng xuất hiện cạnh tranh.
Thứ hai, cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các doanh nghiệp, là phương
thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh mà yếu tố quyết
định là sự lựa chọn của khách hàng.
Các doanh nghiệp khi bước chân vào thị trường đều mong muốn đạt được những
lợi ích nhất định, mà chủ yếu là lợi nhuận. Đó khơng chỉ là mục đích kinh doanh mà
cịn là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khơng ngừng đưa ra các chiến lược nhằm
nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa với mức chi phí thấp nhất và hiệu
quả cao nhất. Mà khách hàng là một yếu tố quan trọng quyết định thành công hay thất
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình luật cạnh
tranh, MUTRAP, tr 11 - 12.
5

4


bại của doanh nghiệp, là chủ thể tạo ra động lực thúc đẩy sự ganh đua giữa các doanh
nghiệp với nhau. Chính vì thế mà các doanh nghiệp ngày nay luôn ra sức cạnh tranh
để giành giật khách hàng về phía mình. Vì vậy, họ ln phải đề ra các chính sách và
giải pháp nhằm đáp ứng những yêu cầu để làm vừa lòng khách hàng một cách tối ưu.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh chính là tranh

giành thị trường.
Nếu phân chia thị trường liên quan 6 thành những phần riêng biệt, mỗi doanh
nghiệp hướng đến một phần khác nhau, ví dụ như một đối tượng người tiêu dùng nhất
định, thì giữa các doanh nghiệp sẽ khơng phát sinh mâu thuẫn lợi ích dẫn đến tranh
giành thị trường. Tương tự đối với nguồn nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất,
kinh doanh, nếu mỗi doanh nghiệp cần những vật phẩm khác nhau, cạnh tranh sẽ
khơng có cơ sở để xuất hiện. Tuy nhiên, các ví dụ nêu trên chỉ có thể xảy ra trong
một xã hội lý tưởng. Trên góc độ kinh tế, mỗi thị trường liên quan hiện nay và trong
tương lai có thể dự đốn sẽ tiếp tục là một thị trường chung và mọi người tiêu dùng
trong đó đều là đối tượng hướng tới của tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong thị
trường. Do vậy, bản chất hành vi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là sự tranh giành
giữa các doanh nghiệp đối với từng phần của thị trường liên quan.
Theo đó, để xác định có tồn tại cạnh tranh hay khơng thì trước hết cần phải xác
định các doanh nghiệp có hoạt động trên cùng một thị trường liên quan hay không.
Việc xác định này dựa trên khả năng thay thế về đặc tính, mục đích sử dụng, hay giá
cả của sản phẩm và dựa vào khu vực địa lý mà các doanh nghiệp hoạt động. Nếu hai
doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm hoàn toàn khác nhau về cả đặc tính, mục
đích sử dụng hay chênh lệch quá lớn về giá cả thì người tiêu dùng hầu như không
phải cân nhắc lựa chọn giữa các sản phẩm này, do đó sẽ khơng tồn tại cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp. Hoặc nếu các doanh nghiệp này cùng sản xuất những sản phẩm có
thể thay thế cho nhau nhưng lại kinh doanh trên các khu vực khác nhau thì cũng
khơng có sự tranh giành khách hàng, vì thế trong trường hợp này cạnh tranh cũng
khơng thể tồn tại.
Nói tóm lại, “cạnh tranh” được nghiên cứu trong khóa luận này là một hiện
tượng kinh tế diễn ra giữa các doanh nghiệp có cùng thị trường liên quan, cùng hướng
đến những đối tượng giống nhau, nhưng có mục đích khác nhau, do đó cùng tranh
đua với nhau để giành giật thị trường và đạt được lợi nhuận cao nhất trên thương
trường.

Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004, thị trường liên quan bao gồm: thị trường sản phẩm liên

quan và thị trường địa lý liên quan. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hố, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Thị trường địa lý liên quan là một khu vực
địa lý cụ thể trong đó có những hàng hố, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương
tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận.

6

5


1.1.2 Tổng quan về cạnh tranh không lành mạnh và hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
1.1.2.1 Cạnh tranh không lành mạnh
Trong quá trình hoạt động trên thị trường, doanh nghiệp muốn đạt được lợi
nhuận cao nhất đều phải cạnh tranh nhằm chiếm được thị phần tối đa. Có nhiều cách
thức để đạt được điều đó nhưng chung quy có thể phân thành hai loại: cạnh tranh lành
mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh không lành mạnh (trong tiếng Anh là “unfair competition”) là hành
vi áp dụng những điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi hơn cho một hoặc một số đối thủ
cạnh tranh nhưng không áp dụng đối với những chủ thể khác, hoặc là hành vi chủ
động làm tổn hại đến khả năng cạnh tranh công bằng và lành mạnh của các đối thủ
khác, từ đó hạ thấp vị trí của đối thủ trên thương trường. Nguyên nhân chính pháp
luật buộc phải điều chỉnh hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh là vì điều kiện để đạt
được lợi ích của chủ thể này chính là sự tổn hại của chủ thế khác, và việc đạt được
những lợi ích đó thường được thực hiện theo những cách bất hợp pháp và không công
bằng. 7
Thực tế đã và đang diễn rất nhiều hành vi cạnh tranh không công bằng và gây
bất lợi cho các doanh nghiệp yếu thế nhưng pháp luật chưa thể kịp thời cập nhật và
điều chỉnh. Vì vậy, nhu cầu sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh cũng luôn
được đặt ra nhằm không ngừng nâng cao chất lượng môi trường cạnh tranh cho các

doanh nghiệp và tạo điều kiện tốt nhất để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh
và hiệu quả nhất.
1.1.2.2 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây gọi tắt là Luật Cạnh tranh)
định nghĩa hành vi cạnh tranh không lành mạnh là “hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Theo nội dung quy định trên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trước hết
phải là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Chủ thể
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải là các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, kinh doanh trên các lĩnh vực, ngành nghề được pháp luật cho phép.
“Doanh nghiệp” theo Luật Cạnh tranh được hiểu là tất cả các tổ chức, cá nhân kinh
doanh, kể cả sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích, hoạt động trong các
ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở
Việt Nam 8. Hành vi có biểu hiện cạnh tranh khơng lành mạnh của các đối tượng
7
8

13:30 12/5/2013.
Khoản 1 Điều 2 Luật Cạnh tranh.

6


không phải là chủ thể kinh doanh như các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, các tổ
chức của người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế, v.v…
không phải là hành vi cạnh tranh không lành mạnh chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật
về cạnh tranh.
Ngồi ra, như đã phân tích điều kiện tồn tại đối với cạnh tranh, hành vi cạnh

tranh không lành mạnh cũng chỉ xảy ra giữa các chủ thể kinh doanh trên cùng một thị
trường liên quan và phải hướng đến các đối thủ cạnh tranh cụ thể. Các doanh nghiệp
trên những lĩnh vực khác nhau thường hỗ trợ cho nhau hơn là cạnh tranh với nhau.
Ví dụ: một doanh nghiệp chuyên khai thác nguyên liệu sẽ hợp tác với các doanh
nghiệp sản xuất để tạo đầu ra cho hàng hóa của mình, đồng thời cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác cũng cung cấp các nguyên liệu cùng loại hoặc tương tự có thể
thay thế được.
Tiếp theo, hành vi cạnh tranh đó phải trái với các chuẩn mực thơng thường về
đạo đức kinh doanh. Hiện nay khơng có quy định nào trong pháp luật cạnh tranh giải
thích về các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh. Do đó trên thực tế, khi
xác định hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh thường chỉ có thể căn cứ vào các dạng
hành vi được quy định trong pháp luật cạnh tranh, bao gồm: (1) chỉ dẫn gây nhầm
lẫn, (2) xâm phạm bí mật kinh doanh, (3) ép buộc trong kinh doanh, (4) gièm pha
doanh nghiệp khác, (5) gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, (6)
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, (7) khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh, (8) phân biệt đối xử của hiệp hội, (9) bán hàng đa cấp bất chính, và các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác. 9 Việc áp dụng pháp luật để xác định hành
vi cạnh tranh không lành mạnh không thể dựa trên khái niệm, đặc điểm của hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung, mà phải dựa trên dấu hiệu của từng hành vi
cụ thể được quy định trong Luật Cạnh tranh. Như vậy, pháp luật cạnh tranh quy định
về giới hạn của một số hành vi cạnh tranh hoặc nghiêm cấm một số hành vi nhằm đặt
ra tiêu chuẩn để xác định một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh 10. Tuy nhiên,
việc quy định bằng phương pháp liệt kê đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và sự trừu tượng trong việc xác định chuẩn mực đạo đức kinh doanh nói trên
dẫn đến thiếu tính bao qt khi áp dụng vì khơng thể dự liệu hết các dạng hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh. Do đó, việc vận dụng các tập quán kinh doanh đã được
thừa nhận rộng rãi và áp dụng trên thực tiễn nhằm bù đắp những lỗ hổng của pháp
luật. Tuy việc cập nhật quy định pháp luật để theo kịp thực tiễn gần như không thể
được thực hiện một cách tuyệt đối, nhưng các nhà làm luật phải kết hợp với các
chuyên gia để có thể dự báo tình hình cạnh tranh khơng lành mạnh trong phạm vi

tương lai gần, tránh tình trạng pháp luật bị lỗi thời, lạc hậu so với vi phạm thực tế.

9

Điều 39 Luật Cạnh tranh.
Điều 40 – 48 Luật Cạnh tranh.

10

7


Cuối cùng, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải là hành vi gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Đối tượng xâm hại của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là lợi ích của Nhà nước, của các doanh nghiệp khác, và của người
tiêu dùng. Thiệt hại mà hành vi đó gây ra có thể là thiệt hại đã xảy ra trên thực tế hoặc
có thể xảy ra nếu không kịp thời ngăn chặn. Cụ thể, đối với Nhà nước, thiệt hại thường
là sự phá vỡ trật tự cạnh tranh, làm suy giảm nền kinh tế, tổn thất nguồn thu, cũng
như làm tăng thêm áp lực trong việc xử lý các vụ việc vi phạm, gây ra sự tốn kém về
thời gian và kinh phí quốc gia. Đối với doanh nghiệp, đó có thể là thiệt hại về doanh
thu hay khả năng sinh lợi trong hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, họ có thể bị lừa dối bởi các thông tin
không trung thực, dẫn đến việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ khơng phù hợp hoặc khơng
đáp ứng đầy đủ chất lượng như mong đợi, hoặc có thể phải chịu tổn thất về kinh tế
cũng như tinh thần khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ khơng đảm bảo yêu cầu.
Hiện nay, cạnh tranh không lành mạnh cùng các dạng hành vi của nó ngày càng
biến đổi đa dạng và ẩn mình dưới nhiều hình thức tinh vi với các thủ đoạn khéo léo,
gây thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh chính đáng cũng như cho người tiêu
dùng, bên cạnh đó cịn gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong quá trình điều

tra và xử lý vi phạm. Như đã đề cập, một trong những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh phổ biến hiện nay chính là kinh doanh đa cấp bất chính. Tuy nhiên, trước khi
đề cập đến vấn đề kinh doanh đa cấp bất chính, ta cần phải hiểu rõ về kinh doanh đa
cấp, một hình thức kinh doanh tồn tại hợp pháp tại Việt Nam và trên thế giới.
1.2 Khái quát về kinh doanh đa cấp
1.2.1 Khái niệm kinh doanh đa cấp
Xuất hiện trên thế giới từ cuối thập niên 20 đầu thập niên 30 của thế kỷ XX,
kinh doanh đa cấp đến nay vẫn là một vấn đề có nhiều quan điểm bất đồng. Nhiều ý
kiến cho rằng đó là một hình thức kinh doanh lừa đảo nhằm trục lợi từ những người
nhẹ dạ cả tin, ngược lại có nhiều quan điểm ủng hộ rằng đó là một phương thức kinh
doanh hợp pháp và có tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên dù đứng về phía quan
điểm nào thì đó cũng chỉ là sự nhìn nhận từ một khía cạnh trên tổng thể đa sắc thái
của loại hình kinh doanh này.
Kinh doanh đa cấp, xuất phát từ thuật ngữ Multi – level marketing, do đó thường
đường hiểu là một phương thức tiếp thị sản phẩm, theo đó, hàng hóa sẽ được bán trực
tiếp cho người tiêu dùng từ nhà phân phối đầu tiên mà không phải thông qua các đại
lý hay cửa hàng bán lẻ. Thuật ngữ “kinh doanh đa cấp” xuất hiện đầu tiên nhưng đã
gây ra nhiều cái nhìn tiêu cực cho cơng chúng do những mặt trái mà loại hình kinh
doanh này mang lại, vì thế về sau ít được sử dụng. Sau này khi nhắc đến loại hình
này, người ta thường biết nhiều đến các khái niệm như “kinh doanh theo mạng”, “kinh

8


doanh nhiều tầng”, hay khái niệm “bán hàng đa cấp” (Multi – level selling of goods)
– được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật Việt Nam. 11
Nếu chỉ đề cập đến kinh doanh đa cấp dưới góc độ là một phương thức tiếp thị
sản phẩm để bán hàng thì bản chất của loại hình kinh doanh này sẽ khơng được thể
hiện rõ. Ngồi mục đích bán hàng, kinh doanh đa cấp còn nhằm tuyển dụng thêm các
cá nhân khác tham gia vào mạng lưới bán hàng 12 và nhận được các khoản “hoa hồng”

ở nhiều cấp khác nhau. Doris Wood, chủ tịch Hiệp Hội Kinh Doanh Đa cấp quốc tế
đã nói “Những ai thích kinh doanh cần phải biết ba điều, thứ nhất – biết bán hàng,
thứ hai – biết đỡ đầu và thứ ba – biết đào tạo những người mà bạn đỡ đầu. Bán hàng,
đỡ đầu và đào tạo”, đó chính là cơ sở của kinh doanh đa cấp. 13
Trong tác phẩm “Kinh doanh theo mạng từ A đến Z” của Don Failla, kinh doanh
đa cấp được định nghĩa là một hình thức kinh doanh trong đó, hoạt động kinh doanh
được tổ chức thành nhiều tầng bao gồm những cá nhân riêng biệt, nhằm lưu hành
hàng hóa từ điểm sản xuất đến người tiêu dùng qua những mối giao tiếp giữa mọi
người với nhau. Việc phân phối sản phẩm được thực hiện bởi tất cả các tầng và vì thế
mỗi người sẽ chỉ gánh một phần nhỏ trong toàn bộ hoạt động kinh doanh, và hoa hồng
do vậy cũng được chia cho tất cả các tầng, hoa hồng của tầng trên sẽ phụ thuộc vào
doanh số mà tầng dưới đạt được. 14
Tương tự với cách hiểu trên, trong quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam,
kinh doanh đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thơng
qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; hàng hóa được
tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc
địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc
của người tham gia. Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền
thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người
tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó
được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. 15
Như vậy, kinh doanh đa cấp có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau,
tuy nhiên điểm mấu chốt của hình thức kinh doanh này là những người nghiên cứu
về sản phẩm phải tiếp xúc trực diện với những người sử dụng nó, trực tiếp thực hiện

Vì pháp luật cạnh tranh Việt Nam chỉ điều chỉnh hoạt động kinh doanh đa cấp trong phạm vi mua bán hàng
hóa chứ khơng điều chỉnh về cung ứng dịch vụ, nên trong các văn bản pháp luật, hoạt động kinh doanh đa cấp
thường được hiểu đơn giản là “bán hàng đa cấp”.
12
Một số tài liệu và sách tham khảo còn dùng các khái niệm “đỡ đầu” hay “tuyển mộ" khi đề cập đến công

việc tuyển người trong các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp.
13
/>14:00 08/5/2013, Richard Poe, Làn sóng thứ ba – kỷ nguyên mới của kinh doanh theo mạng, Tủ sách sưu tầm,
tr 50.
14
/>13:00 18/5/2013.
15
Khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh.
11

9


công việc bán hàng, tự tuyển người vào mạng lưới bán hàng của mình và hưởng hoa
hồng trên những cơng việc đó, vì vậy kinh doanh đa cấp cịn được gọi theo cách thông
thường là “bán hàng trực tiếp”(Direct selling).
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh đa cấp
Không phải ngẫu nhiên mà kinh doanh đa cấp hấp dẫn được nhiều người tham
gia vào mạng lưới bán hàng. Ngay từ khi ra đời, kinh doanh đa cấp thực chất là một
phương thức kinh doanh giàu tiềm năng mang nhiều đặc tính ưu việt hơn so với các
phương thức kinh doanh, tiếp thị tồn tại từ trước. Nhìn chung, kinh doanh đa cấp có
một số đặc điểm cơ bản như sau 16:
Thứ nhất, kinh doanh đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa.
Doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp sẽ thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp
với người tiêu dùng mà không cần phải thông qua các cửa hàng bán lẻ hay các đại lý
phân phối. Điều này giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được một khoản chi phí khá lớn
trong việc thành lập hệ thống phân phối cũng như tuyển dụng nhân viên, giá thành
của sản phẩm vì thế cũng sẽ giảm xuống, nhờ đó làm lợi cho người tiêu dùng. Bên
cạnh đó, người tiêu dùng cịn có được cơ hội mua sản phẩm trực tiếp từ gốc sản xuất,
không phải chịu các rủi ro trong quá trình phân phối sản phẩm như trong các hình

thức kinh doanh khác. Có thể nói rằng phương thức “mua gốc - bán ngọn” này mang
lại lợi ích cho cả phía doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Hơn nữa Nhà nước cũng
được lợi trong việc giảm bớt các thủ tục hành chính khi các doanh nghiệp khơng phải
thành lập đại lý bán hàng theo pháp luật thương mại và tiết kiệm được nguồn tài
nguyên để các đại lý đó thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, doanh nghiệp kinh doanh đa cấp tiếp thị hàng hóa thơng qua những
người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau.
Cần phải lưu ý hai vấn đề, một là, doanh nghiệp kinh doanh đa cấp tiếp thị hàng
hóa thơng qua những người tham gia. Nói rằng các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp
thiết lập mối quan hệ mua bán trực tiếp với người tiêu dùng không thông qua đại lý
hay cửa hàng bán lẻ khơng có nghĩa là doanh nghiệp tự thực hiện tất cả các hoạt động
kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ đứng ra tổ chức hoạt động kinh doanh đa cấp, còn
người trực tiếp thiết lập quan hệ mua bán với người tiêu dùng chính là những người
tham gia kinh doanh đa cấp. Người tham gia ở đây được hiểu là những cộng tác viên
trong việc tiếp thị, bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp. Họ sẽ tiến hành mọi hoạt động
để thúc đẩy và tổ chức việc bán hàng như giới thiệu hàng hóa, cho khách hàng dùng
thử sản phẩm, mua sản phẩm từ doanh nghiệp và bán lại cho khách hàng… Như vậy,
những người tham gia này hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp, nhân danh chính mình
chứ khơng phải đứng trên danh nghĩa của doanh nghiệp trong việc thiết lập quan hệ
Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Tính khơng lành mạnh của hành vi bán hàng đa cấp bất chính theo Luật Cạnh
tranh năm 2004, Tạp chí khoa học pháp lý (3), tr 4 - 5.

16

10


với khách hàng. Những mối quan hệ đó được xây dựng dựa trên sự tín nhiệm của
khách hàng, mà cụ thể là của người thân, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng…
của những người tham gia đối với họ. Chính vì vậy, họ hồn tồn tự chịu trách nhiệm

về các hành vi của mình khi tham gia vào các mối quan hệ này. Hơn nữa, những
người tham gia không phải là nhân viên của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp sẽ
không chịu trách nhiệm cho bất cứ hành vi nào của họ trước khách hàng ngoại trừ các
vấn đề về chất lượng hàng hóa và thơng tin về sản phẩm.
Hai là, những người tham gia kinh doanh đa cấp được tổ chức thành nhiều cấp
khác nhau. Khi một người tham gia vào mạng lưới bán hàng, họ sẽ được huấn luyện
không phải chỉ để học cách bán hàng hay tăng doanh số, mà còn phải học cách “đỡ
đầu” những người khác. Theo ông Nguyễn Tiến Dũng, bản chất của doanh nghiệp
kinh doanh đa cấp chính là “sao chép”. 17 Trong doanh nghiệp kinh doanh đa cấp,
người đi trước sau khi học hỏi và tìm hiểu kỹ càng thì đào tạo và giúp đỡ người đi
sau để cùng nhau thành đạt. Khi một người đào tạo một người mới có nghĩa là họ
đang thực hiện công việc tạo ra “bản sao” của chính họ. Việc cần thiết là làm sao để
sự sao chép cứ tiếp tục phân thành nhiều tầng xuống nữa, tạo thành các “tuyến dưới”
(downline). Một điều đáng lưu ý là số người tham gia ở cấp sau bao giờ cũng nhiều
hơn ở cấp trước, cứ như vậy, mạng lưới được tổ chức thành các cấp khác nhau và
càng ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, giữa cấp trên và cấp dưới trong hệ thống
kinh doanh đa cấp thường không phải là mối quan hệ mệnh lệnh – phục tùng mà hoàn
toàn độc lập với nhau. Việc phân cấp khơng có ý nghĩa trong hoạt động mua bán, tiếp
thị mà chỉ áp dụng trong chính sách trả thưởng cho người tham gia.
Thứ ba, hàng hóa được bán trực tiếp tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng
hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp
hoặc của người tham gia.
Đối tượng khách hàng mà những người tham gia hướng đến thường là người
thân, bạn bè, đồng nghiệp hay hàng xóm láng giềng nên việc giới thiệu thường diễn
ra tại nhà riêng hay nơi làm việc của những người đó. Người bán không cần phải
mang tất cả sản phẩm dùng để kinh doanh đi khắp nơi như một cửa hàng di động,
việc họ cần là mang thơng tin mà họ có được đến với người tiêu dùng, truyền miệng
cho người tiêu dùng những đặc tính về sản phẩm và giới thiệu về sản phẩm như chính
họ là những người tiêu dùng và tin cậy sản phẩm. Do đó, cơng việc của họ không cố
định tại một địa điểm hay một thời gian nào nhất định. Nhờ vậy, công việc này cũng

vô cùng linh hoạt, chủ động, và tận dụng được nhiều cơ hội, cũng như tiết kiệm được
các khoản chi phí khi không phải thuê/ mua và vận hành địa điểm bán lẻ.

Nguyễn Tiến Dũng (2008), Những điều cần biết về Kinh doanh theo mạng, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội,
tr 15.

17

11


Thứ tư, người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham
gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được
doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.
Tiền hoa hồng là khoản tiền người tham gia nhận được theo tỷ lệ phần trăm trên
tổng kết quả bán hàng. Khi một người tham gia vào mạng lưới kinh doanh đa cấp,
tiền hoa hồng mà họ nhận được không chỉ từ kết quả bán hàng của bản thân họ (hoa
hồng trực tiếp) mà cịn có được do kết quả bán hàng của người tham gia cấp dưới
(hoa hồng gián tiếp). Ngoài ra họ cịn có thể nhận được các khoản tiền thưởng và lợi
ích kinh tế khác như phương tiện đi lại, các chuyến du lịch… khi đạt được doanh số
bán hàng lớn và tuyển dụng được nhiều người tham gia cấp dưới mình. Cách thức
phân chia hoa hồng và trả thưởng như vậy vừa kích thích người tham gia tiêu thụ
hàng hóa đồng thời tạo động lực để họ tích cực xây dựng và phát triển mạng lưới
phân phối của mình.
Như vậy, cùng với những đặc trưng nêu trên, kinh doanh đa cấp đã mang lại
khơng ít những ảnh hưởng tích cực cho nền kinh tế thị trường hiện đại cũng như thu
hút được mạng lưới đông đảo người tham gia trên khắp thế giới. Những ưu điểm đó
sẽ được phân tích cụ thể sau đây.
1.2.3 Ưu điểm của hoạt động kinh doanh đa cấp

1.2.3.1 Đối với các công ty kinh doanh đa cấp
Kinh doanh đa cấp là phương thức tiếp thị hàng hóa trực tiếp, do đó các doanh
nghiệp có thể loại bỏ các khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí quảng cáo. Việc tiếp
thị của các doanh nghiệp này chủ yếu do những người tham gia thực hiện. Tuy các
doanh nghiệp cũng phải bỏ ra một số chi phí cho việc in ấn catalogue, một số dùng
để tạo lập các trang thông tin điện tử để người tiêu dùng tiện tra cứu các thông tin về
sản phẩm, nhưng nhìn chung các chi phí này là một phần nhỏ trong tổng chi phí quảng
cáo, tiếp thị mà những doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức thông thường khác
phải bỏ ra. Chẳng hạn một chương trình quảng cáo có độ dài vài chục giây được thực
hiện trên đài truyền hình có thể tiêu tốn hết hàng trăm triệu hay hàng tỷ đồng của
doanh nghiệp, hay các pa-nô quảng cáo được giăng trên đường phố cũng vô cùng tốn
kém, thậm chí cịn có thể gây mất mỹ quan đơ thị. Bên cạnh đó, hàng hóa thường
được phân phối từ những người tham gia đến tay người tiêu dùng, vì vậy doanh
nghiệp khơng phải tốn các chi phí vận chuyển thơng thường. Nhờ đó, doanh nghiệp
có thể hạ thấp giá thành hoặc sử dụng chi phí tiết kiệm được để nâng cao chất lượng
hàng hóa, tăng cường năng lực cạnh tranh, tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, với một đội ngũ người tham gia đông đảo, doanh nghiệp kinh doanh
đa cấp khơng cần phải tốn nhiều chi phí nhưng vẫn tạo lập được một lực lượng tiếp
thị, tư vấn khổng lồ, hùng mạnh. Mỗi người tham gia đều thực hiện công việc tiếp thị

12


hàng hóa dựa trên những mối quan hệ sẵn có của mình, và chính những người thân
thuộc của họ lại trở thành những kênh tiếp thị tiếp theo cho sản phẩm.Có thể nói việc
tiếp thị hàng hóa ở đây được thực hiện theo phương thức truyền miệng: “một đồn
mười, mười đồn trăm”. Như vậy với một lượng người tham gia đông đảo ở nhiều
tầng, nhiều cấp khác nhau, doanh nghiệp kinh doanh đa cấp sẽ có được một mạng
lưới tiếp thị đa kênh rộng lớn.
1.2.3.2 Đối với người tiêu dùng

Khi các doanh nghiệp đa cấp phát triển, hàng tiêu dùng cũng trở nên đa dạng
hơn, người tiêu dùng vì vậy có nhiều sự lựa chọn hàng hóa chất lượng tốt với giá cả
hợp lý hơn. Hàng hóa của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp sẽ chỉ được cung cấp
bởi chính những người tham gia chứ khơng được bán rộng rãi tại các cửa hàng hay
siêu thị, do đó thường là các sản phẩm độc đáo, có giá trị sử dụng đặc biệt, hạn chế
được hàng giả, hàng nhái kém chất lượng. Hơn nữa khi doanh nghiệp tiết kiệm được
các chi phí trong q trình phát triển sản phẩm cũng như tiếp thị hàng hóa, giá thành
cũng sẽ được giảm xuống, làm lợi cho người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, khơng chỉ có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với gốc sản xuất, người
tiêu dùng cịn có thể dễ dàng tham gia vào mạng lưới, trở thành một người tham gia
kinh doanh đa cấp, được mua hàng với giá sỉ và kiếm thêm thu nhập trong những
khoảng thời gian nhàn rỗi.
1.2.3.3 Đối với xã hội
Đối với xã hội, khi các doanh nghiệp giảm được các chi phí quảng cáo, vận
chuyển thì cũng giúp xã hội tiết kiệm được một khoản khá lớn tài nguyên và tiền bạc,
nhờ đó tạo cơ sở để phát triển bền vững trong tương lai.
Hơn nữa, khi các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp phát triển mạnh, nền kinh tế
hàng hóa cũng trở nên đa dạng hơn với tính cạnh tranh cao hơn. Các doanh nghiệp
khác cũng vì thế phải ra sức nâng cao năng lực sản xuất, phát triển sản phẩm, tăng
cường năng lực cạnh tranh. Thêm vào đó, kinh doanh đa cấp chủ yếu cung cấp các
mặt hàng tiêu dùng thường ngày, do đó kích thích tiêu dùng và sự ln chuyển hàng
hóa, nhờ vậy tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và đẩy mạnh sự vận động
xã hội.
Ngoài ra, như đã đề cập, kinh doanh đa cấp cũng là một lĩnh vực có thể giúp
huy động được nguồn vốn nhàn rỗi và tận dụng được sức lao động dư thừa. Những
người tham gia kinh doanh đa cấp thường phải đầu tư một khoản tiền để mua sản
phẩm từ doanh nghiệp và bán lại cho người tiêu dùng. Vì thế, nguồn vốn được luân
chuyển thường xuyên, giảm tình trạng tồn đọng vốn ở nơi này nhưng thiếu hụt ở nơi
khác. Thêm nữa, vì người tham gia khơng bị giới hạn về độ tuổi, giới tính, thời gian,
cũng như khơng gian làm việc, nên những người muốn tận dụng quỹ thời gian nhàn

rỗi để kiếm thêm thu nhập có thể dễ dàng tham gia bán hàng theo phương thức này,

13


qua đó giải quyết được một lượng lớn việc làm cho người dân lao động, nâng cao thu
nhập và chất lượng cuộc sống.
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực mà kinh doanh đa cấp mang lại, hình
thức kinh doanh này cũng có những mặt hạn chế nhất định. Vì vậy mà nhiều doanh
nghiệp đã lợi dụng danh nghĩa kinh doanh đa cấp để tiến hành các hoạt động không
lành mạnh, thường được gọi là kinh doanh đa cấp bất chính và sẽ được trình bày chi
tiết ở những nội dung sau đây.
1.3 Kinh doanh đa cấp bất chính – Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.3.1 Khái niệm kinh doanh đa cấp bất chính
Như đã đề cập ở mục 1.1.2, kinh doanh đa cấp bất chính là một trong những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Từ một
hình thức kinh doanh chân chính và hợp pháp, nhiều doanh nghiệp đã chọn cách lợi
dụng mặt tiêu cực của phương thức này để biến kinh doanh đa cấp thành một công
cụ trục lợi bất chính. Do đây là một hiện tượng biến tướng của kinh doanh đa cấp
(hợp pháp) và mỗi ngày một trở nên tinh vi hơn nên rất khó để có thể đưa ra một khái
niệm chính xác về hành vi này. Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát nhất ta có thể
hiểu rằng đó là hành vi thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng hay kết nạp những người
dưới cấp trong hệ thống. Khi ấy, giá trị hàng hóa thật khơng được tạo ra do khơng có
sự lưu thơng hàng hóa, tất cả là giá trị ảo, và lợi nhuận thu được không phải từ kết
quả bán hàng mà là từ những người tham gia cấp dưới. Chính vì vậy mà kinh doanh
đa cấp bất chính cịn được gọi là “mơ hình tháp ảo” (pyramid scheme) hay “mơ hình
lừa đảo dạng kim tự tháp”.
Theo Luật Cạnh tranh quy định, kinh doanh đa cấp bất chính là việc doanh
nghiệp thực hiện các hành vi nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp, bao gồm:

− Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá
ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng
đa cấp;
− Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại;
− Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
− Cung cấp thơng tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng
đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, cơng dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác
tham gia. 18

18

Điều 48 Luật Cạnh tranh.

14


Cũng như các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác, hành vi kinh
doanh đa cấp bất chính là những hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong
q trình kinh doanh, trái với các chuẩn mực thơng thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng,
bị pháp luật và xã hội lên án. Nhưng để nhận biết được đâu là kinh doanh đa cấp bất
chính đang ẩn danh dưới lớp vỏ bọc hợp pháp khi mà các doanh nghiệp ln có những
thủ đoạn tinh vi để che đậy hành vi của mình, chúng ta cần phải hiểu rõ được các dấu
hiệu đặc trưng của hành vi kinh doanh bất chính này.
1.3.2 Đặc điểm của hành vi kinh doanh đa cấp bất chính
Về mặt nguyên tắc, ta có thể nhận diện hành vi kinh doanh đa cấp bất chính dựa
trên những đặc điểm nêu sau:
Thứ nhất, hành vi kinh doanh đa cấp bất chính mang bản chất của sự chiếm

dụng vốn. Quy định của pháp luật cạnh tranh cấm các doanh nghiệp yêu cầu người
muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả
một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp. Hiểu một cách
đơn giản, các hành vi như vậy đều mang tính chất chiếm dụng vốn bất hợp pháp, mục
đích thơng thường là đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng không đạt được, điều này
trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Nói đó là chiếm dụng vốn bất hợp pháp bởi
vì: Một là, đặt cọc theo quy định tại Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005 là “việc một
bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí q, đá q hoặc vật có giá trị khác
trong một thời hạn để bảm đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự” 19. Ở đây,
mục đích của người tham gia là phân phối hàng hóa và thu lợi nhuận, và quá trình
này được tiến hành theo phương thức mua đứt bán đoạn, có nghĩa là người tham gia
sẽ bỏ ra một khoản tiền đầu tư, mua hàng hóa của doanh nghiệp, sau đó bán lại cho
người tiêu dùng, cơng việc mua bán sau đó của người tham gia là hồn tồn độc lập
với doanh nghiệp. Vì vậy việc doanh nghiệp buộc người muốn tham gia phải đặt cọc
để tham gia vào mạng lưới bán hàng là hồn tồn vơ lý và khơng phù hợp với các quy
định của pháp luật Việt Nam. Hai là, người tham gia là người phân phối hàng hóa,
giúp mở rộng thị phần, khơng phải là người tiêu thụ chính, việc buộc người muốn
tham gia phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu là không phù hợp. Trên thực tế,
để trở thành người tham gia, nhiều người đã bị buộc phải bỏ ra những khoản tiền lên
đến hàng triệu để mua hàng hóa trong khi khơng có nhu cầu sử dụng những hàng hóa
đó. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp thường lập luận rằng, người tham gia phải sử
dụng hàng hóa và hiểu rõ được các đặc tính của hàng hóa thì mới có thể có lịng tin ở
sản phẩm và tiếp thị cho người tiêu dùng một cách hiệu quả. Nhưng khơng phải bất
kỳ sản phẩm nào cũng có thể được dùng và mang lại hiệu quả cho mọi đối tượng, giả
sử một người có thể trọng bình thường bị buộc phải bỏ ra hơn ba triệu để mua một

19

Bộ luật dân sự Số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, Điều 358.


15


hộp thực phẩm chức năng giúp cho việc tăng hoặc giảm cân thì sẽ vơ cùng bất hợp
lý. Ba là, người muốn tham gia phải bỏ ra một khoản tiền để được tham gia. Khoản
tiền đó nên được hiểu như thế nào khi những người này đã phải bỏ một khoản đầu tư
để mua hàng hóa và bán lại cho người tiêu dùng một cách độc lập và tự chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Thậm chí vì để lấy lại những khoản tiền đã bỏ ra, họ có
thể áp dụng nhiều chiêu trò bất hợp pháp nhưng doanh nghiệp hồn tồn khơng phải
chịu trách nhiệm về những hành vi đó. Vậy thì việc doanh nghiệp thu một khoản tiền
ban đầu như vậy thực chất chỉ nhằm mục đích phân chia cho những người tham gia
cấp trên. Do đó, những hành vi như vậy đều là những hành vi thể hiện sự bất chính
trong kinh doanh đa cấp và bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hành vi kinh doanh đa cấp bất chính phản ánh chiến lược dồn hàng
cho người tham gia. Người tham gia chỉ là trung gian buôn bán, không phải là người
tiêu thụ, không phải ai cũng có nhu cầu đối với hàng hóa mà họ kinh doanh. Do đó
nếu người tham gia khơng bán được hàng, doanh nghiệp phải cam kết mua lại hàng
hóa đã bán cho người tham gia nếu hàng hóa đó vẫn đảm bảo chất lượng và số lượng
như ban đầu. Việc khơng cam kết mua lại hàng hóa từ người tham gia, biến họ thành
người tiêu dùng bất đắc dĩ là không hợp lý và trái quy định của pháp luật. Hơn nữa
mức 90% mà pháp luật quy định là mức giá hợp lý mà nhiều nước áp dụng. Nếu
doanh nghiệp cam kết mua lại nhưng với mức giá quá thấp tức là đã ép giá và thu lợi
dựa trên tổn thất của người tham gia. Do vậy hành vi này mang tính bất chính và trái
với các quy định của pháp luật.
Thứ ba, hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính
khơng nhằm tiêu thụ hàng hóa mà nhằm tập trung lơi kéo, dụ dỗ người tham gia.
Đứng trên phương diện về mục đích hoạt động của doanh nghiệp và mục đích của
người tham gia khi bước vào mạng lưới kinh doanh đa cấp, lợi nhuận mà doanh
nghiệp và người tham gia thực sự đạt được chỉ khi hàng hóa đã đến tay người tiêu
dùng. Dù là hoa hồng có được do bản thân người tham gia bán được hàng hóa hay do

người tham gia cấp dưới mà họ bảo trợ, hướng dẫn bán được thì trong mọi trường
hợp, hàng hóa vẫn phải đến tay người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đa cấp có thể cho
phép người tham gia nhận hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác từ việc
tuyển dụng tuyến dưới, nhưng việc tuyển dụng này phải nhằm mục đích đào tạo để
họ cũng trở thành một phân phối viên giúp doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa. Nếu việc
tuyển dụng người tham gia cấp dưới này kết hợp với hành vi buộc người tham gia
phải đặt cọc, mua hàng hóa ban đầu hay trả một khoản tiền để tham gia như đã nói
trên nhằm mục đích chủ yếu để thu lợi và chia cho các cấp trên thì đó là hành vi bất
chính. Hơn nữa nếu số lượng người tham gia càng nhiều, các khoản góp vào ban đầu
càng lớn thì số lợi bất chính mà doanh nghiệp thu được sẽ càng cao. Do đó, một số
doanh nghiệp kinh doanh bất chính thường khuyến khích những người tham gia dụ
dỗ thêm nhiều người khác vào mạng lưới kinh doanh đa cấp để nhận hoa hồng, tiền
16


thưởng và những lợi ích kinh tế khác. Nếu vậy, những người tham gia vào các doanh
nghiệp này cũng chỉ quan tâm đến vấn đề dụ dỗ người khác để được lợi chứ không
chú ý đến việc tiếp thị và tiêu thụ hàng hóa. Điều này hồn tồn đi ngược lại với đạo
đức kinh doanh thơng thường, vì vậy, đây là hành vi kinh doanh bất chính cần được
loại trừ.
Thứ tư, hành vi kinh doanh đa cấp bất chính là hành vi mang tính chất lừa dối.
Việc lừa dối ở đây là lừa dối đối với cả người tham gia và người tiêu dùng. Về phía
người tham gia, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính thường cung cấp cho
họ những thơng tin sai lệch về tính chất và cơng dụng của hàng hóa, từ đó vận động
họ dụ dỗ người khác tham gia bằng chính những thơng tin đó. Doanh nghiệp cịn lừa
dối người tham gia về các lợi ích mà họ có thể nhận được, tạo cho họ sự huyễn hoặc
và ảo tưởng về phương thức làm giàu bất chính này. Chính vì vậy, phần lớn những
người tham gia bị các doanh nghiệp này lừa đảo thuộc tầng lớp sinh viên hoặc người
lao động nghèo, với ham muốn làm giàu một cách nhanh chóng và dễ dàng, họ thường
sa chân vào những cạm bẫy mà các doanh nghiệp này đặt ra. Về phía người tiêu dùng,

họ lại bị chính những người tham gia cung cấp các thơng tin sai lệch về hàng hóa,
mua những hàng hóa khơng đảm bảo chất lượng hoặc khơng đúng với mục đích sử
dụng mà họ mong muốn. Điều này bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp kinh doanh
bất chính thường chỉ chú ý đến lợi nhuận có được từ người tham gia mới, khơng tập
trung phát triển sản phẩm, vì thế hàng hóa của họ thường khơng đảm bảo chất lượng
và khơng đáp ứng đúng đặc tính sử dụng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này sẽ cung
cấp những thông tin giả tạo về sản phẩm, gây nhầm lẫn cho người tham gia và người
tiêu dùng, từ đó trục lợi bất chính. Ngồi ra, với những thơng tin gian dối mà doanh
nghiệp cung cấp, người tiêu dùng còn thể bị dụ dỗ tham gia vào mạng lưới và trở
thành nạn nhân của những hành vi trái pháp luật do những doanh nghiệp này thực
hiện.
Trên đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện hành vi kinh doanh đa cấp
bất chính. Đó là những hành vi đi ngược với bản chất lành mạnh của phương thức
kinh doanh thông thường, đe dọa đến đời sống xã hội, phá vỡ trật tự cạnh tranh và
gây tổn hại đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp, cần phải được pháp
luật nghiêm cấm và tiến tới loại trừ.
1.3.3 Phân biệt kinh doanh đa cấp hợp pháp với kinh doanh đa cấp bất chính
Mặc dù kinh doanh đa cấp bất chính có những dấu hiệu nhận biết cơ bản như đã
phân tích nhưng trên thực tế, khơng đơn giản để có thể phân biệt được đâu là kinh
doanh đa cấp hợp pháp, đâu là kinh doanh đa cấp bất chính. Bằng những thủ đoạn
tinh vi, bản chất bất chính có thể dễ dàng lẩn trốn trong một hình thức hợp pháp. Dưới
đây khơng phải là tồn bộ tiêu chí phân biệt giữa hai mặt trái, phải của hình thức kinh
doanh này nhưng sẽ góp phần giúp ta nhận thức được những điểm khác nhau cơ bản
giữa chúng.
17


Trong cả hai hình thức này, người tham gia đều được tổ chức theo cấu trúc hình
tháp nhiều tầng, và mỗi người đều có quyền tuyển thêm những người mới dưới cấp
mình. Do vậy thoạt nhìn có vẻ giống nhau, nhưng nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy trong

mơ hình kinh doanh đa cấp thông thường luôn tồn tại hai dịng chảy, hàng hóa sẽ chảy
từ đỉnh của hình tháp xuống, và tiền thưởng sẽ lưu thông từ dưới lên. Có nghĩa là
cơng ty sẽ cung cấp nguồn hàng cho những người tham gia để họ phân phối cho người
tiêu dùng. Cịn hoa hồng và tiền thưởng được tính một phần dựa trên doanh thu của
bản thân mỗi người tham gia đạt được, một phần dựa vào doanh thu của những người
tham gia cấp dưới đạt được. Đối với mô hình tháp ảo, dịng hàng chỉ mang tính hình
thức, khơng thực sự có giá trị, chỉ tồn tại một dịng chảy là tiền góp vào từ những
người tham gia mới chia dần lên những cấp trên. Do vậy đây là một mơ hình khơng
bền vững, một khi tổng số lượng người tham gia vượt mức mà doanh nghiệp có thể
phân phối lợi nhuận kiếm được từ những người tham gia mới thì các chủ doanh nghiệp
sẽ rời bỏ doanh nghiệp, để lại những khoản nợ lớn cho cả một kim tự tháp ảo.
Vì thế, điểm khác biệt lớn nhất của hai hình thức này chính là kế hoạch trả hoa
hồng và nguồn gốc lợi nhuận. Một bên xuất phát từ lợi nhuận kinh doanh, một bên
lấy từ các khoản mà những người tham gia mới đóng góp vào. Do bản chất của kinh
doanh đa cấp hợp pháp là tiếp thị truyền miệng nhờ vào những quan hệ thân quen vì
mục đích bán hàng, thu lợi nhuận. Cịn bản chất của kinh doanh đa cấp bất chính là
một loại hành vi mang tính chất lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản chứ khơng hề quan
tâm đến việc bán lẻ hàng hóa, và lợi nhuận có được khơng phải là lợi nhuận thực sự
theo đúng nghĩa trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp là tiếp thị, bán
lẻ hàng hóa, và tuyển dụng thêm người tham gia nhằm mục đích đào tạo phân phối
viên cho doanh nghiệp. Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính,
hoạt động chủ yếu là nhằm chiêu dụ người tham gia mới để thu tiền, việc bán hàng ở
các doanh nghiệp này cũng chỉ nhằm mục đích dụ dỗ người tham gia chứ không
hướng đến tiêu dùng. Tuy nhiên, đứng trên khía cạnh này rất khó xác định một doanh
nghiệp kinh doanh đa cấp đang hoạt động bất chính. Bởi hầu hết các doanh nghiệp
đều yêu cầu người tham gia mới mua một số sản phẩm và đóng những khoản tiền
nhất định khi gia nhập mạng lưới. Có thể với kinh doanh đa cấp thơng thường, việc
người tham gia mới phải mua hàng hóa nhằm mục đích dùng thử và hiểu rõ hơn về
sản phẩm mà mình sẽ kinh doanh và đóng những khoản tiền để mua tài liệu hoặc

phục vụ cho các khóa học hướng dẫn và đào tạo, còn đối với kinh doanh đa cấp bất
chính, hàng hóa thực sự khơng có giá trị, vì thế việc người tham gia phải mua hàng
hóa hay đặt cọc cũng chỉ là một hành vi mang tính chất lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nhưng điều này trên thực tế rất khó phân biệt. Hơn nữa, chiêu thức dụ dỗ hay cách
thức tuyển dụng của các doanh nghiệp này cũng tương tự nhau, đều đánh vào mong
muốn làm giàu của người dân lao động để thu hút họ tham gia vào mạng lưới.
18


Ngồi ra, nếu trong kinh doanh đa cấp thơng thường, người tham gia cấp dưới
hồn tồn độc lập và có thể bứt phá cao hơn cả những người tham gia trước thì trong
kinh doanh đa cấp bất chính, người ở tầng cao ln có thu nhập cao hơn người ở tầng
dưới, và càng tham gia muộn thì cơ hội kiếm tiền càng thấp. Điều này có thể được lý
giải như sau, trong kinh doanh đa cấp thông thường, những người cấp dưới có được
thu nhập khi tiêu thụ được hàng hóa, và họ có thể độc lập tạo dựng mạng lưới cho
riêng mình. Do vậy khả năng đột phá là rất cao nếu như đó là những người có năng
lực. Cịn đối với kinh doanh đa cấp bất chính, các khoản thu phát sinh khi có người
mới tham gia, càng ở tầng cao thì càng có nhiều cấp dưới, càng nhận được nhiều
khoản tiền thu được từ việc tuyến dưới đóng góp hoặc mua hàng. Thêm nữa, việc
mua hàng ở các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính là bắt buộc đối với người
tham gia. Đối tượng bị ép mua và tiêu dùng là người tham gia, mục đích phân phối
hàng hóa đến tay người tiêu dùng của một doanh nghiệp kinh doanh đa cấp hồn tồn
khơng đạt được. Vì thế ở hình thức kinh doanh đa cấp bất chính khơng tồn tại yếu tố
tự nguyện mà chủ yếu là lôi kéo và ép buộc. Tuy vậy đây là phạm trù khá trừu tượng
nên cũng không dễ dàng nhận biết được giữa thật và giả, phải và trái.
Tóm lại, kinh doanh đa cấp bất chính thường ẩn mình dưới các hình thức chân
chính và hợp pháp rất khó nhận biết, bất cứ ai thiếu cảnh giác đều có thể là con mồi
cho loại hình kinh doanh bất chính này. Kinh doanh đa cấp bất chính vì thế đã gây
ảnh hưởng tiêu cực cho nhiều đối tượng và để lại những hậu quả nặng nề cho toàn xã
hội.

1.3.4 Tác động tiêu cực của hành vi kinh doanh đa cấp bất chính
1.3.4.1 Đối với người tham gia
Khơng ai khác, người tham gia chính là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp và chịu
nhiều tổn thất nhất từ các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính. Người tham gia là đối
tượng đầu tiên mà doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính tiếp cận và trục lợi.
Những thơng tin gian dối cũng sẽ được người tham gia tiếp nhận đầu tiên, những
khoản lợi bất chính cũng đoạt được từ phía người tham gia trước nhất. Càng có nhiều
người tham gia, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính càng kiếm được nhiều
nguồn thu bất hợp pháp.
Những người tham gia với mong muốn làm giàu đã bị dụ dỗ, lôi kéo vào mạng
lưới. Đó thường là những sinh viên hay những người lao động nghèo muốn có thêm
thu nhập. Khi phải bỏ ra những khoản tiền rất lớn để tham gia vào doanh nghiệp hoặc
để mua một số lượng hàng hóa ban đầu trong khi sản phẩm khơng có chất lượng hay
thậm chí khơng có giá trị sử dụng, họ khơng những khơng được gì mà cịn “tiền mất
tật mang”. Khơng những thế, những người tham gia khi đem hàng hóa đi tiếp thị với
người thân, bạn bè hay đồng nghiệp cịn làm xấu đi những mối quan hệ vốn có của
họ và mang tiếng là kẻ lừa đảo.

19


Từ khi kinh doanh đa cấp ra đời đến nay, rất nhiều người đã đạt được thành
công bằng con đường này, tuy vậy cũng khơng ít người đã rơi vào những cái bẫy mà
các doanh nghiệp kinh doanh bất chính đặt ra. Do vậy, khi muốn trở thành một người
tham gia trong mạng lưới kinh doanh đa cấp, trước hết mỗi người cần phải hiểu rõ về
loại hình kinh doanh này cũng như biết cách phân biệt đâu là kinh doanh đa cấp hợp
pháp và bất chính để có thể tránh được những trường hợp tiêu cực cũng như đạt được
mong muốn làm giàu một cách chân chính.
1.3.4.2 Đối với các cơng ty kinh doanh đa cấp hợp pháp
Trong tình hình hiện nay, ngày càng có nhiều người bị các doanh nghiệp kinh

doanh đa cấp bất chính lừa đảo. Vậy nên người dân cũng dần trở nên cảnh giác hơn
đối với các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp, đại đa số đều khơng đồng tình với
phương thức bán hàng này, khơng cần quan tâm là hợp pháp hay bất chính. Điều này
gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp hợp pháp. Thông
thường, những người tiếp thị vốn dĩ đã gặp rất nhiều khó khăn và khó lấy được lịng
tin từ người tiêu dùng. Vì thế, khi mà tai tiếng của các doanh nghiệp kinh doanh đa
cấp ngày một nhiều, việc tạo dựng lòng tin từ người tiêu dùng càng gặp nhiều cản trở
hơn nữa.
Như vậy, hành vi kinh doanh đa cấp bất chính đã dần phá hủy môi trường kinh
doanh lành mạnh, làm tổn hại đến năng lực cạnh tranh cũng như khả năng tìm kiếm
khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp hợp pháp, đồng thời làm giảm
uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp trên thương trường và biến hình thức
kinh doanh này trở thành một đốm đen trong cái nhìn của xã hội.
1.3.4.3 Đối với người tiêu dùng
Đối với những doanh nghiệp kinh doanh đa cấp thông thường, việc tiết kiệm
được các chi phí quảng cáo hoặc mở đại lý bán lẻ có thể giúp họ có thêm nguồn vốn
để mở rộng và phát triển sản phẩm, nhờ đó sản phẩm thường có chất lượng tốt và độc
đáo. Tuy nhiên, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính lại khơng hoạt động
vì mục đích tiếp thị và đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Do đó, vấn đề phát
triển sản phẩm khơng phải là điều mà các doanh nghiệp này quan tâm. Thậm chí họ
có thể tìm mọi cách để giảm giá trị thực của sản phẩm, và bằng việc tung ra các thông
tin giả tạo về đặc tính cũng như chất lượng sản phẩm, họ có thể nâng giá thành sản
phẩm lên đến hàng chục hàng trăm lần. Vì vậy, dù cho sản phẩm có đến được tay
người tiêu dùng thì đó cũng chỉ là những sản phẩm kém chất lượng và hầu như không
thể đáp ứng đúng công dụng mà doanh nghiệp tiếp thị.
Trên phương diện pháp luật, việc các doanh nghiệp cung cấp thông tin gian dối
để dụ dỗ người tiêu dùng mua hàng chính là hành vi lừa đảo bất hợp pháp và giao
dịch mua bán mà người tiêu dùng tham gia vào khơng cịn yếu tố tự nguyện do bị lừa
dối. Tuy vậy không phải bất cứ người tiêu dùng nào cũng có đủ kiến thức và hiểu biết
để nhận thức được những điều đó, vì thế cũng đã có khơng ít người tiêu dùng đã mất

20


rất nhiều tiền để “mua được” những sản phẩm hoàn tồn khơng có giá trị sử dụng gì,
thậm chí có thể gây hại đến sức khỏe và tính mạng của họ.
1.3.4.4 Đối với xã hội
Hành vi kinh doanh đa cấp bất chính gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp, người
tham gia và người tiêu dùng. Khi những con số về thiệt hại trở nên ngày một lớn thì
nền kinh tế xã hội cũng bị đe dọa ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp bị tổn thất về
doanh thu và thị phần, kéo theo hậu quả là phương thức kinh doanh đa cấp hợp pháp
bị hạn chế sẽ làm nền kinh tế bị giảm sút và kém phát triển. Số lượng người tham gia
và người tiêu dùng bị lừa dối nếu lên đến một con số quá lớn sẽ dẫn đến sự rối loạn
thị trường và mất ổn định xã hội.
Nhìn chung lại, kinh doanh đa cấp bất chính cũng như bất kỳ hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nào khác, một khi khơng có các cơ chế để hạn chế và loại trừ sẽ trở
thành hiểm họa cho nền kinh tế đất nước cũng như cho sự phát triển của xã hội. Nhà
nước và mỗi người dân cần phải nhận thức rõ các tác động tiêu cực của những hành
vi này nhằm có những biện pháp thích hợp để đối phó và xử lý chúng một cách kịp
thời và hiệu quả.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tuy đã xuất hiện từ lâu trên thế giới nhưng kinh doanh đa cấp dường như vẫn
còn nhiều mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Đó khơng chỉ là sự mới mẻ trong tư
duy mà còn là sự mới mẻ trong cách đón nhận. Khơng phải ai cũng có thể hiểu rõ về
loại hình kinh doanh này cùng những giá trị mà nó mang lại để đón nhận nó một cách
cơng tâm. Cũng khơng phải ai cũng nắm hết được những vấn đề bất cập phát sinh từ
kinh doanh đa cấp để phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Kinh doanh đa
cấp cùng với những ưu điểm của nó thực sự là một phương thức kinh doanh hiện đại
và giàu tiềm năng phát triển. Ngược lại, mơ hình tháp ảo, một biến tướng của kinh
doanh đa cấp đã gây ra vô số những ảnh hưởng tiêu cực cho cộng đồng và xã hội. Vì
vậy làm thế nào để phát huy được những điểm tốt và hạn chế được yếu tố bất chính

trong kinh doanh đa cấp để phương thức này trở thành một trào lưu phát triển mạnh
mẽ và đạt được những thành công lớn như trên thế giới là một vấn đề cần được quan
tâm ở Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được điều đó chính là sự
quản lý của Nhà nước và sự điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi kinh doanh đa
cấp. Ở Việt Nam, hành vi này được quản lý và điều chỉnh như thế nào, thực tế hiệu
quả thực hiện ra sao, làm thế nào để cải thiện những bất cập còn tồn tại trong quá
trình quản lý và điều chỉnh những hành vi đó, tất cả sẽ được trình bày cụ thể ở Chương
II.

21


×