Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG PHÁP LUẬT HẢI QUAN VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN QUẢN TRỊ - LUẬT

SVTH:

LÊ THỊ HỒNG NGA

LỚP:

QUẢN TRỊ - LUẬT

KHÓA:

34

KHOA:

QUẢN TRỊ

GVHD:

PGS.TS PHAN HUY HỒNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÁNG 7/2014



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
--------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN QUẢN TRỊ - LUẬT

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG PHÁP LUẬT HẢI QUAN VIỆT NAM

SVHD: LÊ THỊ HỒNG NGA
KHÓA: 34-MSSV: 0955060063
GVHD: PGS.TS PHAN HUY HỒNG

TP.HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan khóa luận “Quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan Việt
Nam” là kết quả của quá trình nghiên cứu nghiêm túc của chính tác giả, thơng qua tìm
hiểu, tham khảo, phân tích, kế thừa các tài liệu, bài viết, báo cáo chính thống và nhìn
nhận, đánh giá của bản thân dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phan Huy Hồng.
Mọi tài liệu sử dụng trong quá trình nghiên cứu đều đã được trích dẫn đầy đủ
trong khóa luận theo quy định của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả khóa luận

Lê Thị Hồng Nga


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

EU

Liên minh châu Âu

WCO

Tổ chức Hải quan thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hải quan là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ việc kiểm tra, giám sát hoạt
động trao đổi hàng hóa, giao lưu thương mại của mỗi quốc gia qua biên giới. Với tốc
độ phát triển của giao lưu thương mại giữa các quốc gia đồng nghĩa lượng chủ thể
tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, khối lượng hàng hóa lưu thơng qua biên giới tăng
mạnh dẫn đến lượng công việc ngày càng nhiều mà nguồn lực của Hải quan để thực
hiện công tác quản lý không tăng tương ứng. Điều tất yếu đặt ra là cơ quan hải quan
phải thay đổi cách thức quản lý thủ công truyền thống để đơn giản hóa, hiện đại hóa
thủ tục hải quan nhằm đảm bảo thuận lợi trong q trình lưu thơng hàng hóa đồng thời
phát hiện, ngăn chặn, hạn chế những hành vi, nguy cơ vi phạm pháp luật của các chủ
thể chịu sự quản lý của Hải quan khi tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa, giao lưu
thương mại. Trước tình hình đó, áp dụng quản lý rủi ro đã và đang là sự lựa chọn

chiến lược của Hải quan các nước. Kỹ thuật quản lý rủi ro đã được Hải quan các nước
như Mỹ, EU, Singapore… áp dụng từ lâu và đem lại những hiệu quả rất lớn trong
quản lý hải quan, phịng chống bn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới và đảm
bảo an ninh. Mặc dù Hải quan Việt Nam mới chỉ áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong
hoạt động nghiệp vụ hải quan từ năm 2006 đến nay trong điều kiện phát triển còn
thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn khá lạc hậu và hạn chế; tuy nhiên đã đem lại một số
hiệu quả nhất định. Hiện tại chúng ta đang trên đà tích cực đẩy mạnh hiện đại hóa
cơng tác quản lý hải quan, triển khai áp dụng một cách hiệu quả kỹ thuật quản lý rủi ro
theo tiêu chuẩn thế giới cụ thể là chuẩn mực của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
trong Cơng ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan, Khung tiêu chuẩn
về an ninh và tạo thuận lợi thương mại tồn cầu; lộ trình thực hiện cam kết WTO và
các cam kết khác của Việt Nam trong các Điều ước, Hiệp định hợp tác quốc tế.
Thông qua việc nghiên cứu, tác giả mong muốn đưa đến một cái nhìn tổng quát
về áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong quản lý hải quan dưới góc nhìn quản lý rủi ro
trong hoạt động nghiệp vụ hải quan theo pháp luật hải quan Việt Nam và một số tiêu
chuẩn, chuẩn mực của WCO về quản lý rủi ro trong Hải quan.
2. Tình hình nghiên cứu
Đối với vấn đề tác giả đang nghiên cứu, hiện nay có một số nghiên cứu dưới các
góc độ khác nhau, như sau:

1


Đề tài cấp Bộ : “Dự án hiện đại hóa Hải quan, phương án quản lý thương
mại và cửa khẩu, chiến lược thực thi và phịng ngừa, chính sách Quản lý rủi ro” của
Bộ Tài chính, năm 2005
Luận án tiến sỹ kinh tế : “ Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa Hải quan Việt
Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Ngọc Túc - Trường Đại
học Ngọai thương Hà Nội, năm 2007
Luận văn thạc sỹ Luật : “Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan” của

Nguyễn Tường Linh – Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2005
Luận văn thạc sỹ Luật: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan trong
quá trình thực hiện công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hòa thủ tục hải quan”
của Nguyễn Hồng Hạnh – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010
Luận văn thạc sỹ Luật: “Vi phạm hành chính và áp dụng trách nhiệm hành
chính trong lĩnh vực Hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Đàm Đức Tuyên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006
Luận văn thạc sỹ Luật: “Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải
quan tại Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp”, Nguyễn Trọng Trình –
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006
Luận văn thạc sỹ Luật: “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải
quan thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, của Nguyễn Nam Hồng Sơn – Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011
Bên cạnh đó cũng có một số tài liệu, bài viết như: Báo cáo nghiên cứu khả thi: “
Dự án hiện đại hóa Hải quan bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Thế giới” của Bộ Tài
chính, năm 2005; bài viết “Quản lý rủi ro trong lĩnh vực Hải quan” đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Hải quan số 11 của Thiên An năm 2005 hay bài viết “Quản lý rủi ro trong
kiểm tra Hải quan: những vấn đề cơ bản”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế tốn của
Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Huyền, năm 2008.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu, tác giả hướng đến ba mục tiêu căn bản sau đây:
Một là, thể hiện cách nhìn tổng thể về việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro
trong hoạt động nghiệp vụ hải quan thơng qua quy trình quản lý rủi ro.
Hai là, phân tích một số quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý rủi ro
trong hoạt động nghiệp vụ hải quan, nội luật hóa các tiêu chuẩn trong Cơng ước Kyoto
về đơn giản hóa, hài hịa thủ tục hải quan đã được sửa đổi và Khung tiêu chuẩn về an
ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu của WCO mà Việt Nam tham gia.
2


Ba là, trên cơ sở nhìn nhận thực tiễn pháp lý, nghiên cứu kinh nghiệm một số

nước sẽ có những góp ý hồn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về áp dụng kỹ
thuật quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan.
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Với mục tiêu như đã trình bày ở trên, tác giả đề tài xác định nhiệm vụ nghiên
cứu cần tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý rủi ro trong Hải quan; quy
trình áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro.
Thứ hai, phản ánh những quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động
nghiệp vụ hải quan và sự phù hợp của pháp luật hải quan Việt Nam với các tiêu chuẩn
trong Công ước Kyoto và Khung tiêu chuẩn của WCO.
Tác giả xác định phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khía cạnh pháp lý
cụ thể dựa trên các quy định của pháp luật hải quan Việt Nam về việc áp dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan; Công ước Kyoto về đơn giản hóa,
hài hịa thủ tục hải quan đã được sửa đổi; Khung tiêu chuẩn về an ninh và tạo thuận lợi
thương mại tồn cầu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
Trên cơ sở nền tảng là tư duy biện chứng chủ nghĩa Mác – Lênin cho phép tác
giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách khách quan, nhìn nhận ở nhiều góc độ khác
nhau nhằm giải quyết vấn đề một cách thấu đáo.
Các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp cũng được vận dụng riêng rẽ
hoặc kết hợp trong quá tình nghiên cứu nhằm thể hiện rõ các nội dung liên quan của
đề tài.
6. Kết cấu của khóa luận:
Bên cạnh lời mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý hải quan và quản lý rủi ro trong quản lý hải
quan

3



Chương 2: Quy định về Quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan Việt Nam
Chương 3: Quản lý rủi ro trong hoạt động hải quan theo tiêu chuẩn của Tổ chức
Hải quan thế giới và một số kiến nghị hoàn thiện chế định quản lý rủi ro trong pháp
luật hải quan Việt Nam

4


TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ HẢI QUAN VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG QUẢN LÝ HẢI QUAN
Quản lý hải quan
Nhiệm vụ và nguyên tắc của quản lý hải quan

Thương mại quốc tế ngày càng phát triển và mở rộng kéo theo đó là hoạt động
trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng tăng. Quá trình tự do thương mại hàng
hóa đem đến cho các quốc gia sự thịnh vượng nhất định nhưng đi cùng với đó là
những vấn đề liên quan đến tình trạng bn lậu, trốn thuế, xuất nhập khẩu hàng hóa
thuộc danh mục cấm … Giữa các quốc gia trên thế giới còn tồn tại sự khác biệt trong
chính sách điều hành nền kinh tế, những tính tốn đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc;
cơ chế quản lý hải quan là yếu tố quan trọng trong quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh về kinh tế giữa các quốc gia. Hải quan - cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát hoạt động trao đổi hàng hóa, giao lưu thương mại qua biên giới, “là
cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Hải quan và thu thuế hải quan
và thuế khác, đồng thời cũng chịu trách nhiệm thi hành các luật khác có liên quan đến
việc nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển hoặc lưu kho hàng hóa.”1
Theo Điều 11 Luật Hải quan 2001 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005: “Hải
quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hố, phương tiện vận
tải; phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới; tổ chức

thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan
đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính
sách thuế đối với hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu.”
Trong đó kiểm tra hải quan là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ liên
quan và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải; giám sát hải quan là biện pháp
nghiệp vụ do cơ quan hải quan áp dụng để bảo đảm sự nguyên trạng của hàng hóa,
phương tiện vận tải đang thuộc đối tượng quản lý của hải quan.2Kiểm tra hải quan
được thực hiện trong q trình làm thủ tục hải quan và sau thơng quan, ở mức độ phù
hợp với kết quả phân tích thông tin, đánh giá chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức
độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan.
1
2

Khoản E6./ F10 chương 2 Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hịa thủ tục hải quan
Khoản 8, Khoản 9 Điều 4 Luật Hải quan 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2005

5


Hải quan là cơ quan nắm giữ vai trò “cửa ngõ”, sử dụng các hoạt động nghiệp
vụ: kiểm tra tờ khai, hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa, phúc tập hồ sơ, kiểm
tra sau thơng quan để kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải khi đi vào hay
đi ra khỏi một quốc gia. Chính sách hải quan tốt sẽ là điểm thu hút đầu tiên của mỗi
quốc gia đối với các tổ chức kinh tế, các quốc gia đang nỗ lực thực hiện hiện đại hóa,
đơn giản hóa các thủ tục hải quan: ứng dụng công nghệ thông tin trong việc làm thủ
tục thông quan hàng hóa thay vì khai báo thủ cơng, rút ngắn thời gian làm thủ tục
thơng quan hàng hóa xuất nhập khẩu; áp dụng quản lý rủi ro để phân loại kiểm tra,
giám sát nhằm tạo thuận lợi cho những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật đồng
thời hạn chế những rủi ro trong quản lý hải quan, phòng chống bn lậu, vận chuyển

trái phép hàng hóa qua biên giới.
Đó cũng là quan điểm của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO): “Hải quan có
nhiệm vụ đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội. Một mặt, tạo thuận lợi cho thương
mại hợp pháp và mặt khác, bảo vệ nền kinh tế và xã hội quốc gia chống lại những rủi
ro.”3
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam theo Điều 12 Luật Hải
quan 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2005:
“Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung,
thống nhất.
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động
Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên.”
Hải quan Việt Nam gồm có 3 cấp: Tổng cục; Cục Hải quan tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; chi cục hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan và đơn vị tương
đương hoạt động dưới sự quản lý thống nhất của Tổng cục Hải quan; trực thuộc Bộ
Tài chính. Gồm Tổng cục Hải quan, 34 cục Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và các chi cục Hải quan.
Vai trò của quản lý hải quan

Với những nhiệm vụ trên quản lý hải quan có những vai trò cơ bản sau:

3

Dịch từ WCO, Annual report 2012-2013

6



Một mặt đảm bảo giao lưu thương mại, lưu thông hàng hóa một cách
thuận lợi, mặt khác ngăn ngừa, hạn chế các hành vi tiêu cực trong hoạt động thương

mại qua biên giới.

Góp phần thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, thơng qua việc
thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; áp dụng các thủ
tục hải quan trong việc thực hiện các chính sách khuyến khích hay hạn chế, cấm xuất
nhập khẩu, quy định về thuế của hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh theo quy định
pháp luật.

Là một trong những yếu tố góp phần thúc đẩy phát triển thương mại, kinh
tế, xã hội. Thủ tục hải quan càng đơn giản, hiệu quả; trình độ, năng lực của cơng chức
hải quan càng chuyên nghiệp; chi phí cho quản lý hải quan ngày càng giảm thì càng
khuyến khích hoạt động đầu tư, giao lưu thương mại, phát triển kinh tế- xã hội. Hải
quan Việt Nam đang tiến hành đơn giản hóa, hiện đại hóa quản lý hải quan với việc áp
dụng đồng bộ thủ tục hải quan điện tử và áp dụng quản lý rủi ro trong các nghiệp vụ
hải quan; thực hiện theo các tiêu chuẩn của Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài
hịa thủ tục hải quan (Cơng ước Kyoto), Khung tiêu chuẩn về an ninh và tạo thuận lợi
thương mại toàn cầu (Khung tiêu chuẩn), thực hiện cam kết gia nhập WTO về Hải
quan.
Với sự phát triển của thương mại quốc tế hoạt động giao lưu hàng hóa qua biên
giới ngày càng tăng đi kèm với nó là những hành vi vi phạm, tiêu cực ngày càng phức
tạp. Khối lượng công việc, trách nhiệm đặt lên vai Hải quan ngày càng lớn nên việc
cải thiện, phát triển quản lý hải quan là điều cần thiết và cấp bách hiện nay. Theo
thống kê về kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1993-2013 và 4 tháng
đầu năm 20144 ta thấy hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng, trong 4 tháng đầu
năm 2014 theo Tổng cục Hải quan tính đến hết tháng 4/2014, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 90,97 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2013;
trong đó xuất khẩu là 46,51 tỷ USD, tăng 18,9% và nhập khẩu là 44,46 tỷ USD, tăng
12,2%. Đồng nghĩa việc cơ quan Hải quan phải giải quyết một lượng tờ khai hải quan
ngày càng lớn, nếu khơng giải quyết kịp thời thì lượng hàng hóa ứ đọng khơng được
thơng quan sẽ tăng ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và phát triển kinh


4

Phụ lục hình 4: : Bảng số liệu thống kê trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 19962013- Nguồn Tổng cục Hải quan – thống kê Hải quan ngay 18/10/2013 và hình 5: Kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu và cán cân thương mại hàng hóa theo tháng từ tháng 1/2013 đến tháng 4/2014 – Nguồn Tổng cục Hải quan

7


tế, kéo theo những rủi ro về vi phạm pháp luật sẽ ngày càng tăng; có thể gây phiền hà,
chậm trễ đối với các doanh nghiệp, chủ thể chấp hành tốt pháp luật, ngược lại tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp, chủ thể gian lận vi phạm, nguy cơ bỏ lọt, không phát hiện,
xử lý được vi phạm cao.
Theo báo cáo thường niên của WCO 2011-2012 và 2012- 2013:
“Hải quan đang hoạt động trong một môi trường ngày càng phức tạp và đặc tính
thay đổi nhanh chóng bởi mơ hình thương mại mới, nhu cầu tạo thuận lợi cho thương
mại tốt và hiệu quả hơn trong khi đồng thời phải đối phó với mối quan tâm phát triển
an tồn, an ninh và rủi ro mới.”5
“Hải quan được tham gia vào một loạt các lĩnh vực và nhằm mục đích tuân thủ,
thực thi, chống: gian lận thương mại, hàng giả, buôn lậu các sản phẩm có thể đánh
thuế tiêu thụ, ma túy, buôn bán người, rửa tiền, tội phạm điện tử, và bn lậu vũ khí,
vật liệu hạt nhân, các mặt hàng có ý nghĩa văn hóa và di sản, chất thải độc hại, và
nhiều hoạt động khác.”6
Vai trò quản lý hải quan trong bối cảnh phát triển của hoạt động giao lưu
thương mại giữa các quốc gia, những mối lo ngại về an ninh và rủi ro, khối lượng
công việc ngày càng nặng, không một cơ quan Hải quan nào có thể kiểm tra, giám sát
triệt để được từng lơ hàng, từng hoạt động. Đòi hỏi mỗi cơ quan Hải quan phải phân
bổ nguồn lực hợp lý, lựa chọn sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ hiệu quả và ở
mức độ phù hợp. Áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hải quan là một biện pháp hữu
hiệu, cần thiết cho Hải quan thế giới nói chung và Hải quan Việt Nam nói riêng. Ngay

từ năm 2005, cơ chế phân tích, đánh giá rủi ro, tiêu chí phân luồng đã được ngành Hải
quan Việt Nam thiết lập và triển khai tại các cấp hải quan, đánh dấu bằng sự ra đời của
Quyết định 2148/2005/QĐ-TCHQ về quy chế áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình
thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại (Quyết định
2148/2005/QĐ-TCHQ) ngày 1/12/2005 có hiệu lực vào ngày 1/1/2006, sau đó Bộ tài
chính ban hành Quyết định 48/QĐ-BTC ngày 4/7/2008 về việc ban hành quy định áp
dụng quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan (Quyết định 48/2008/QĐBTC). Theo báo cáo tổng kết thi hành Luật Hải quan 2002-2012 của Chính phủ ngày
02 tháng 8 năm 2013: Bắt đầu từ 01/01/2006, ngành Hải quan chính thức áp dụng kỹ
thuật quản lý rủi ro làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất, nhập khẩu thương mại; giải
5
6

Dịch từ WCO, Annual report 2011-2012
Dịch từ WCO, Annual report 2012-2013

8


toả được ách tắc tại khâu đăng ký tờ khai do các thông tin về nợ thuế và chủ hàng sẽ
được hệ thống máy tính xác định; đảm bảo khách quan trong việc quyết định hình thức,
mức độ kiểm tra, cũng như việc lựa chọn ngẫu nhiên lô hàng phải kiểm tra. Trên cơ sở
việc xây dựng, cập nhật, quản lý các hồ sơ rủi ro và hồ sơ doanh nghiệp, đã giúp cho
cán bộ, công chức hải quan quản lý, theo dõi các đối tượng có rủi ro về vi phạm pháp
luật hải quan, đồng thời, thiết lập tiêu chí phục vụ việc phân luồng kiểm tra trong
thơng quan và chuyển giao kiểm tra sau thông quan.
Áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro là cơ sở cần thiết để thực hiện hiện đại hóa, đơn
giản hóa trong quản lý hải quan; bắt kịp với tốc độ phát triển của giao lưu thương mại,
trao đổi hàng hóa quốc tế.
Quản lý rủi ro trong quản lý hải quan
Trong kinh tế học, chúng ta cũng bắt gặp thuật ngữ “quản trị rủi ro”. Quan điểm

của tác giả cho rằng về bản chất “quản trị rủi ro” và “quản lý rủi ro” tương đồng với
nhau, lý do pháp luật hải quan sử dụng khái niệm “quản lý rủi ro” là vì nó chỉ hoạt
động của cơ quan quản lý nhà nước chứ không phải chỉ hoạt động trong quản lý doanh
nghiệp. Quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan mang tính chất của hoạt động hành
chính quản lý nhà nước nhưng vẫn dựa trên nền tảng của quản trị rủi ro trong kinh tế
học.
Rủi ro trong quản lý hải quan

Rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan là nguy cơ không tuân thủ pháp luật
hải quan, pháp luật thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh,
quá cảnh (Khoản 1 Điều 3 Thông tư 175/2013/TT-BTC).
Quản lý hải quan là một hoạt động mang tính hành chính nhà nước nhằm đảm
bảo hoạt động lưu thơng hàng hóa, giao lưu thương mại, vận chuyển quốc tế được vận
hành một cách thuận lợi nhất dưới sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Hải quan đồng
thời phòng, chống các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép; chống thất thu thuế…
Trong phạm vi Khóa luận này tác giả sẽ chú trọng đề cập, phân tích quản lý rủi ro đối
với hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại. Những rủi ro thường gặp trong
quản lý hải quan:

Nhóm thứ nhất, rủi ro bắt nguồn từ các doanh nghiệp, tổ chức, xuất phát từ
động cơ kinh tế, lợi nhuận như: hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng cấm, trốn
thuế, gian lận thuế…
9



Nhóm thứ hai, rủi ro bắt nguồn từ chính hoạt động quản lý hành chính của
cơ quan Hải quan. Đó là những sai phạm của những cán bộ thi hành công vụ, những
vấn đề về đạo đức hay do cơ cấu tổ chức của bộ máy Hải quan hoạt động khơng hiệu
quả, trình độ năng lực nghiệp vụ của nhân viên cịn hạn chế…


Nhóm thứ ba, rủi ro bắt nguồn từ những “lổ hổng” pháp lý, cơ sở pháp lý
chặt chẽ sẽ góp phần hạn chế được hai nhóm rủi ro trên. Chính những sơ hở pháp luật
tạo cơ hội cho những doanh nghiệp, tổ chức vi phạm, gian lận; ngược lại pháp luật
chặt chẽ, nghiêm minh thì những doanh nghiệp đó rất khó để lọt qua được sự kiểm
sốt và tất nhiên bộ máy quản lý sẽ hoàn thiện hơn.
Ngồi ra cịn nhiều cách phân loại khác như rủi ro trong khâu vận chuyển, trong
quá trình thực hiện nghiệp vụ hải quan, rủi ro trong cung cấp thông tin…
Nguyên nhân:

Do bối cảnh kinh tế - xã hội, quy định pháp luật: Kinh tế - xã hội càng
phát triển, pháp luật càng chặt chẽ thì mức độ tuân thủ pháp luật càng cao. Pháp luật
sơ hở, quy định chưa phù hợp, hiệu quả thực thi thấp thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao là
điều dễ hiểu. Bởi lẽ, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu hàng hóa ngày càng
mở rộng, vùng biên giới rộng lớn lực lượng hải quan khơng thể kiểm sốt hết mọi hoạt
động, hành vi vi phạm pháp luật.

Do năng lực của cán bộ, cơ quan hải quan chưa đáp ứng đủ yêu cầu.
Những cán bộ công chức hải quan là người nắm quyền thực thi pháp luật, cơ quan hải
quan là tổ chức đảm bảo lưu thơng hàng hóa thuận lợi vừa đảm bảo kiểm soát ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy năng lực cán bộ, cơ cấu tổ chức cùng trang
thiết bị, công nghệ… là những yếu tố tác động đến nguy cơ rủi ro xảy ra cao hay thấp.

Do công nghệ phục vụ quản lý hải quan lạc hậu. Công nghệ là một trong
những yếu tố then chốt quyết định sự thành công, nếu cơng nghệ lạc hậu, Hải quan
khơng thể kiểm sốt chặt chẽ, đầy đủ với một số lượng hàng hóa lưu thông ngày càng
lớn.

Do ý thức chấp hành pháp luật, nhận thức, yếu tố đánh đổi lợi ích của các
nhà xuất, nhập khẩu. Một tâm lý thường gặp của họ là làm thế nào để tránh được sự

kiểm soát của hải quan, làm thế nào để có lợi nhuận cao nhất, yếu tố đánh đổi lợi ích
giữa việc tuân thủ pháp luật và vi phạm pháp luật là rất lớn. Bởi thuế là một khoản thu
lớn mà nhà nước đánh vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và đó cũng là khoản
thu tác động khơng nhỏ đến lợi ích của các doanh nghiệp.
Vậy để ngăn ngừa, hạn chế những rủi ro đó nên thực hiện từ đâu? Theo tác giả,
nên bắt nguồn từ nơi phát sinh, nơi có thể nhận diện, xử lý, kiểm soát rủi ro là từ các
hoạt động nghiệp vụ hải quan. Hải quan thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của
10


mình thơng qua các hoạt động nghiệp vụ như: kiểm tra hồ sơ, tờ khai hải quan, kiểm
tra thực tế hàng hóa, phúc tập hồ sơ, kiểm tra sau thơng quan. Hàng hóa, phương tiện
vận tải muốn thơng quan phải thực hiện những thủ tục hải quan theo quy định; được
chấp nhận thông quan sau khi cán bộ hải quan tiến hành các hoạt động nghiệp vụ và
nhận thấy rằng đủ điều kiện thông quan theo quy định pháp luật. Hoạt động nghiệp vụ
hải quan chặt chẽ, hiệu quả tất yếu sẽ hạn chế, phòng chống, ngăn ngừa những rủi ro,
vi phạm pháp luật.
Sơ lược về quản lý rủi ro trong quản lý hải quan
Khái niệm quản lý rủi ro trong quản lý hải quan

Theo EU: “quản lý rủi ro có thể được định nghĩa là: một hệ thống kỹ thuật để
xác định và thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng rủi ro xảy ra.
Chiến lược quốc tế và quốc gia có thể được thực hiện hiệu quả bằng cách thu thập dữ
liệu và thơng tin, phân tích và đánh giá rủi ro, quy định hành động và giám sát kết
quả.”7
Trong báo cáo “Background paper on risk management” của WCO tại diễn đàn
Quản lý rủi ro diễn ra vào ngày 28- 29 tháng 6 năm 2010 ở Brussels định nghĩa quản
lý rủi ro như sau: “Quản lý rủi ro là một hệ thống ứng dụng của quy trình quản lý và
thực tiễn để cung cấp những thông tin cần thiết về những nguy cơ, rủi ro.”
Thông tư 175/2013/TT-BTC quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong nghiệp vụ

hải quan của Bộ Tài chính ngày 29 tháng 11 năm 2013 (Thơng tư 175/2013/TT-BTC)
định nghĩa: “Quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan là việc áp dụng có hệ
thống các quy định pháp luật, các quy trình, biện pháp nghiệp vụ để xác định, đánh
giá và phân loại các rủi ro có tác động tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hải
quan, quản lý thuế, làm cơ sở để cơ quan Hải quan phân bổ hợp lý nguồn lực, áp dụng
hiệu quả các biện pháp quản lý hải quan, quản lý thuế.”
Có thể có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý rủi ro trong hoạt động
nghiệp vụ hải quan nhưng ta có thể hiểu đó là q trình nhằm xác định, đánh giá, phân
tích thơng tin về những nguy cơ, rủi ro trong quản lý hải quan để có các biện pháp
nhằm phịng ngừa, kiểm sốt phù hợp.

7

Dịch từ EU Commission, DG Taxation and Customs Union (2007) standardised framework for risk management in
the customs administrations of the EU

11


Định nghĩa quản trị rủi ro dưới góc độ kinh tế và định nghĩa quản lý rủi ro trong
hoạt động hải quan về bản chất là tương đồng ; đều là q trình xác định, đánh giá,
phân tích những nguy cơ, rủi ro, chỉ khác nhau trong ngữ cảnh áp dụng, một bên trong
hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận cịn một bên là trong mơi trường quản lý hành
chính nhà nước.
“Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện, liên
tục và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm sốt, phịng ngừa và giảm thiểu những tổn
thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro đồng thời tìm cách biến rủi ro
thành những cơ hội thành cơng”8
Xây dựng quy trình quản lý rủi ro9


Mỗi cơ quan Hải quan ở mỗi quốc gia phải xây dựng cho mình khung tiêu
chuẩn về quản lý rủi ro10. Đầu tiên phải xác định cho mình nhiệm vụ, mục tiêu, đưa ra
các cam kết, kế hoạch riêng; từ đó những người người đứng đầu, quản lý ban hành các
chính sách, kế hoạch, quyết định để thực hiện. Am hiểu mơi trường riêng biệt của
mình, mỗi cơ quan Hải quan đề ra một chính sách quản lý rủi ro riêng cho mình với
việc thiết lập những khung chuẩn trong quản lý rủi ro. Sau đó được cụ thể hóa thực
hiện áp dụng trong hoạt động quản lý của mình, kiểm tra, giám sát, đánh giá những
điểm tích cực, hạn chế nhằm liên tục cải tiến, hồn thiện khung quản lý rủi ro phù hợp
nhất. Và quy trình quản lý rủi ro là một điểm quan trọng trong xây dựng, thực hiện
khung quản lý rủi ro. Trong mục này tác giả sẽ phân tích các giai đoạn xây dựng quy
trình quản lý rủi ro theo đề xuất của Tổ chức Hải quan thế giới WCO (quy trình quản
lý rủi ro trong Hải quan Việt Nam sẽ được đề cập ở chương 2).
Mỗi tổ chức Hải quan khác nhau cần xây dựng chiến lược, thiết lập khung quản
lý rủi ro phù hợp với mình, chiến lược đó phải được thực hiện bằng một quy trình
quản lý rủi ro với sự liên kết chặt chẽ, tương tác lẫn nhau giữa các bước. Theo EU quy
trình quản lý rủi ro có 4 bước sau: bối cảnh (context), phân tích rủi ro (risk analysis),
xử lý rủi ro (treatment), giám sát (monitoring); theo WCO gồm có 5 bước: thiết lập bối
cảnh; đánh giá rủi ro; xử lý rủi ro; giám sát, kiểm tra và tài liệu, thơng tin liên lạc,
8

Đồn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Đạt, Hà Đức Sơn (2013), Quản trị rủi ro và khủng hoảng, Nhà xuất bản lao động
– xã hội
9

Phụ lục hình 2: Quy trình quản lý rủi ro theo WCO “customs risk management compendium”

10

Xem thêm Sơ đồ về khung quản lý rủi ro (phụ lục hình 1) theo khuyến nghị của WCO, trong việc xây dựng một
cơ cấu tổ chức cho áp dụng quản lý rủi ro


12


tham vấn. Pháp luật Việt Nam cũng có quy định tương đồng với WCO tại Quyết định
3273/QĐ – TCHQ ngày 30 tháng 12 năm 2013 ban hành quy định áp dụng quản lý rủi
ro trong quản lý hải quan quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh quá cảnh (Quyết định 3273/QĐ-BTC)
về quy trình quản lý rủi ro.
Hiểu rõ môi trường của tổ chức là một bước quan trọng trong phát triển quy
trình khung quản lý rủi ro của tổ chức đó… Mỗi tổ chức hải quan cần thiết lập chính
sách quản lý rủi ro cho riêng mình, phù hợp với các chiến lược mục tiêu và kế hoạch
tương ứng11.

Xây dựng bối cảnh: Bối cảnh ở đây chính là mơi trường ứng dụng của quy
trình quản lý rủi ro, ở mỗi mơi trường hải quan khác nhau thì chúng ta không thể thiết
lập chiến lược như nhau. Bởi nó cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguồn lực, chính
sách pháp luật, tác động xã hội… Cơ quan Hải quan không chỉ đảm bảo tuân thủ theo
những quy định trong nước mà còn cả những cam kết trong Hiệp định song phương,
Công ước quốc tế mà quốc gia mình tham gia ký kết. Chính vì vậy để xác định đúng
bối cảnh chiến lược quản lý hải quan, phải trả lời được câu hỏi “Họ mong đợi đạt
được những thành quả gì?” Có thể nói cách khác là họ phải xác định được tầm nhìn,
sứ mệnh của mình là gì hay xác định chính sách quản lý ưu tiên và mục đích trong
chính sách, chiến lược là gì?
Hải quan Việt Nam đang hướng đến mục tiêu hiện đại hóa quản lý hải quan với
kế hoạch đưa vào áp dụng đồng bộ hải quan điện tử trên cả nước, áp dụng quản lý rủi
ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan, phù hợp với chính sách quản lý hải quan trong
nước, Công ước Kyoto, Khung tiêu chuẩn của WCO và cam kết gia nhập WTO về hải
quan.
Để thực hiện chiến lược hiệu quả, địi hỏi khi xây dựng quy trình quản lý rủi ro

phải nắm được năng lực của tổ chức Hải quan thực hiện quản lỷ rủi ro, nhằm trả lời
cho câu hỏi: Làm thế nào để Hải quan đạt được những thành quả đó? Để trả lời
được câu hỏi này cần đi từ những cán bộ quản lý, cán bộ cấp cao bởi họ là người đưa
ra chiến lược, ra quyết định áp dụng quy trình quản lý rủi ro; đến cơ sở vật chất kỹ
thuật, kỹ thuật ở đây cũng là một yếu tố quan trọng trong quản lý rủi ro, với một lượng
lớn thông tin, hoạt động trao đổi hàng hóa thương mại hướng ra tồn cầu thì hoạt động
thủ cơng của nhân viên khơng thể đáp ứng được chất lượng quản lý, nhu cầu làm thủ
11

Dịch từ volume 1, WCO Customs risk management compendium

13


tục hải quan của người xuất, nhập khẩu; và những chun gia phân tích rủi ro, nhân
viên áp dụng địi hỏi phải là những người có năng lực, kinh nghiệm… Có thể sử dụng
phân tích SWOT trong kinh tế học để đánh giá cụ thể những điểm mạnh (strengths),
điểm yếu (weaknesses), cơ hội (opportunities), thách thức (threats) riêng của từng tổ
chức hải quan từ đó đưa ra chiến lược phù hợp.
Hải quan Việt Nam đang thực hiện hiện đại hóa với sự giúp đỡ của Nhật trong
công nghệ để triển khai Hải quan điện tử, đồng thời cũng trang bị thêm máy móc, thiết
bị hiện đại như các loại máy soi container hiện đại loại lớn… Một vấn đề cũng đáng
lưu tâm hiện nay của Hải quan Việt Nam là đào tạo những cán bộ hải quan có đủ năng
lực.
Cấu trúc tổ chức trong xây dựng chiến lược quản lý rủi ro có thể chia thành 3
cấp như sau:
Cấp cao nhất: gồm một số người như Bộ trưởng hay người đứng đầu một
cơ quan chuyên biệt nào đó là những người đề ra quan điểm pháp luật cho chiến lược
trong và ngoài nước.
Cấp tiếp theo: là những người chịu trách nhiệm về tài chính, cơng cụ phân

tích rủi ro, kỹ thuật, tổ chức hoạt động, xây dựng chính sách pháp luật, cơ sở hạ tầng,
đào tạo nhân lực… Họ chính là người chuyển từ chiến lược trong môi trường của tổ
chức về quản lý rủi ro sang chính sách hoạt động cụ thể.
Cuối cùng là những cán bộ hải quan thực hiện một cách có hiệu quả những
quy định để đạt được mục tiêu mà hai cấp trên đã đề ra.
Tóm lại, để thiết lập bối cảnh ta cần giải quyết được những vấn đề sau:12Các
mục tiêu trong bối cảnh (trong môi trường của cơ quan Hải quan) nơi diễn ra q trình
quản lý rủi ro là gì? Mơi trường hoạt động (vận hành) là gì? Khả năng và nguồn lực
sẵn có cho quản lý rủi ro là gì? Những tiêu chí nào được sử dụng để đánh giá rủi ro và
xác định tiêu chí bổ sung khi cần thiết? Phạm vi và giới hạn của quản lý rủi ro là gì?
Sự mong đợi của các bên liên quan: Chính phủ, các tổ chức bị ảnh hưởng, thương
nhân và các khu vực cá nhân khác là gì? Những chi tiết khác về quá trình hoặc hành
động quản lý rủi ro.
Bước thiết lập bối cảnh cần chỉ ra mục tiêu rõ ràng, khu vực hay nơi nào có rủi
ro, xác định được những tiêu chí và những giới hạn, tham số để đánh giá rủi ro.

12

Dịch từ volume 1, WCO Customs risk management compendium

14





Đánh giá rủi ro: đây là bước khá phức tạp trong quy trình
Nhận biết rủi ro
Đầu tiên là phải nhận biết được rủi ro, ở giai đoạn này thông tin là yếu tố quyết
định. Vì tất cả những thơng tin có thể trở thành nguồn dữ liệu rủi ro, nên việc đánh

giá, nhận định chính xác những thơng tin đó là điều cần thiết. Cần đến những người
nắm rõ quy định của pháp luật để đánh giá vấn đề đó phù hợp với pháp luật hay
khơng? Có thể xảy ra sai phạm ở chỗ nào ?… Nguồn của thông tin cần được mở rộng
cập nhật kịp thời thậm chí là mua thông tin nếu cần thiết và đôi khi kinh nghiệm và
năng lực của cán bộ hải quan lại trở thành một nguồn thông tin đáng giá để nhận biết
rủi ro.
Trong giai đoạn này cần giải quyết được các câu hỏi sau:13Các nguồn của
những rủi ro là gì? Những rủi ro có thể xảy ra là gì? Tại sao? Và như thế nào? Cần
kiểm sốt những gì để phát hiện hoặc ngăn chặn rủi ro? Những trách nhiệm kiểm soát
nội bộ và bên ngồi là gì? Cần nghiên cứu những gì và bao nhiêu là cần thiết với một
rủi ro cụ thể? Làm thế nào để có được những thơng tin đáng tin cậy?
 Phân tích rủi ro
Sau khi nhận dạng được rủi ro đó là gì, ta tiến hành phân tích rủi ro dựa trên tần
suất và mức độ nghiêm trọng của nó. Phân tích rủi ro khá phức tạp bởi nó được đánh
giá tập hợp từ nhiều nguồn thông tin, kết hợp giữa kinh nghiệm kiến thức của con
người và cả kỹ thuật trong tính tốn sác xuất vì vậy nó khơng phải là một phân tích
khoa học chính xác; có thể mang tính định lượng hoặc định tính, có khi kết hợp giữa
định tính và định lượng. Cũng khơng thể nói định tính hay định lượng chính xác hơn
trong phân tích rủi ro, bởi muốn sử dụng định lượng thì thơng tin phải thật sự đầy đủ,
chính xác nhưng không phải lúc nào cũng cập nhật được thơng tin kịp thời và tính tin
cậy của thơng tin không luôn được đảm bảo, hơn nữa không phải thông tin nào ta cũng
có thể lượng hóa. Vì vậy theo quan điểm của tác giả, mặc dù phân tích những rủi ro,
nguy cơ dựa trên cơ sở bằng chứng trong phạm vi thơng tin có thể đã được nhận biết
nhưng kiến thức về môi trường, kinh nghiệm đánh giá của những người thực hiện
phân tích cũng là yếu tố cần phải sử dụng và xem xét.
Phân tích rủi ro cũng xem xét những rủi ro hiện có, những rủi ro đã xảy ra, được
cơ quan Hải quan ghi nhận trên thực tế, tuy nhiên nên phân tích lại những rủi ro đó
dựa trên những dữ liệu hiện tại để đánh giá chính xác hơn. Ngồi ra cịn có những rủi
ro tiềm ẩn, đây là những rủi ro chưa được phát hiện nhưng có khả năng xảy ra, những
rủi ro này cũng được phân tích trên dữ liệu hiện có nếu có các nguy cơ tồn tại trong

13

Dịch từ volume 1, WCO Customs risk management compendium

15


điều kiện hiện tại để đánh giá về khả năng và hậu quả nếu xảy ra rủi ro đó nhằm có
biện pháp phịng ngừa thích hợp.
 Đánh giá, đo lường rủi ro
Có nhiều hệ thống xếp hạng rủi ro khác nhau, nhưng thông thường người ta sử
dụng ma trận 3x314 để đánh giá rủi ro theo 3 mức: cao, trung bình, thấp. Tương ứng
với mỗi mức cơ quan Hải quan sẽ có cách xử lý khác nhau, Hải quan mỗi nước khác
nhau cũng sẽ xác định mức độ rủi ro có thể chấp nhận được qua đánh giá sự đánh đổi
với lợi ích. Theo WCO Hải quan ở mỗi nước sẽ có nhiều yếu tố tác động quyết định
khả năng rủi ro sẽ bị giám sát: khả năng/năng lực nội bộ, khả năng thực hiện hiệu quả
xử lý rủi ro, xếp hạng/phân cấp rủi ro, tác động đến danh tiếng, chi phí/lợi ích của
phương pháp xử lý…

Xử lý rủi ro: quyết định, hành động để xử lý những rủi ro được xác định theo ma
trận đánh giá, đo lường rủi ro.
Ở những mức độ rủi ro có thể chấp nhận được dựa trên sự so sánh tương quan
giữa lợi ích khi chấp nhận và những thiệt hại do nguy cơ, rủi ro đó mang lại. Ví dụ
như những mặt hàng quý hiếm, nguyên vật liệu cần cho sản xuất ở một mức độ rủi ro
nào đó ta có thể chấp nhận để nhập khẩu chúng. Nhưng chấp nhận trong trường hợp
này khơng có nghĩa là khơng quản lý, mà vẫn phải theo dõi nếu nhận thấy mức độ rủi
ro thay đổi với nguy cơ xảy ra cao hơn mức có thể chấp nhận được thì ta phải xử lý.
Những rủi ro ở mức độ cao, tùy theo từng cách đánh giá, các tiêu chí quản lý rủi
ro mà Hải quan mỗi nước sẽ quyết định xử lý rủi ro đó hay không. Điều quan trọng
nhất ở việc xử lý rủi ro là hiểu được nguyên nhân tại sao xảy ra rủi ro và tập trung giải

quyết những nguyên nhân đó. Bởi theo tác giả Hải quan cứ ra sức quản lý, ngăn chặn
nhưng nguyên nhân tạo ra rủi ro vẫn tồn tại thì rủi ro đó vẫn cứ xảy ra, biện pháp quản
lý sẽ không đạt hiệu quả mong đợi.
Chuyển giao rủi ro, là một biện pháp thường hay được sử dụng trong kinh tế bởi
đây là một cách chủ động để đối phó rủi ro chứ khơng bị động như khi chấp nhận hay
xử lý rủi ro. Chuyển giao ở đây có nghĩa là “san sẻ” bớt nguy cơ rủi ro trong quản lý
Hải quan cho một bên khác nhằm làm giảm nhẹ bớt rủi ro cho công tác quản lý hải
quan, xin nêu một số ví dụ chuyển giao rủi ro trong quản lý hải quan như sau: hồn
thiện quy định pháp luật, trang bị cơng nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tăng cường tự khai hải quan và chịu trách nhiệm về thông tin đã khai báo của
người thực hiện xuất nhập khẩu… Nếu pháp luật hồn thiện hơn, cơng nghệ hiện đại,
cán bộ năng lực tốt thì nguy cơ rủi ro giảm, tần suất xảy ra rủi ro nhỏ hơn; doanh
14

Phụ lục hình 3: Ma trận đánh giá rủi ro

16


nghiệp chủ động linh hoạt hơn trong khai hải quan nhưng đồng thời họ phải chịu trách
nhiệm về những thông tin đó nên địi hỏi sự tự nguyện chấp hành pháp luật, cịn ngược
lại nếu khơng có những yếu tố trên mọi biện pháp, trách nhiệm xử lý, phòng, chống rủi
ro đều phụ thuộc vào quản lý của Hải quan. Nhưng cũng nhấn mạnh rằng ở đây
chuyển giao rủi ro khơng đồng nghĩa với chuyển giao trách nhiệm.
Ngồi ra ta có thể chấm dứt rủi ro đó bằng cách cấm hoặc tránh thực hiện
những hành động mang lại rủi ro. Tuy nhiên, đây không phải là cách phổ biến mà chỉ
được áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Khi Việt Nam đã gia nhập nền kinh tế
toàn cầu thì việc bảo hộ cho nền kinh tế trong nước khơng cịn là vấn đề đơn giản như
trước, khơng cịn là “chuyện của riêng ta” mà trở thành câu chuyện của nhiều bên liên
quan, những nước có lợi ích bị ảnh hưởng, những ràng buộc trong các cam kết của

Việt Nam.

Giám sát và kiểm tra
Ở bước này cho thấy được hiệu quả của quá trình quản lý rủi ro, đồng thời thay
đổi, cải tiến những hạn chế của quy trình quản lý để đạt được hiệu quả tối ưu; cần đặt
ra một số câu hỏi sau:15
Những giả định về rủi ro đã đánh giá vẫn cịn hiệu quả?
Có bất kỳ rủi ro mới hay nguy cơ mới nào không?
Hiệu quả và tác động của các phương pháp xử lý rủi ro?
Những phương pháp xử lý hiệu quả?
Quản lý và kiểm soát thế nào là hợp lý?
Phương pháp xử lý phù hợp với quy định của pháp luật?
Làm thế nào để cải thiện quy trình quản lý rủi ro?


Tài liệu, thơng tin liên lạc và tham vấn

Tài liệu, thông tin liên lạc, những tham vấn trong và ngoài nước cần được chú
trọng và thu thập kịp thời, phù hợp với quá trình quản lý rủi ro. Khơng chỉ là những
thơng tin, tài liệu đáp ứng cho việc quản lý rủi ro đang tồn tại, xảy ra ở hiện tại mà còn
cho bất kỳ những nguy cơ, rủi ro nào đang tiềm ẩn có thể xảy ra ở tương lai.

15

Dịch từ volume 1, WCO Customs risk management compendium

17


Việc quản lý, thu thập các thông tin, tài liệu địi hỏi phải đảm bảo tính đầy đủ,

kịp thời, minh bạch và trách nhiệm cao. Hải quan một số nước đã sử dụng đến lực
lượng tình báo để thu thập thơng tin ở nước ngồi như Hải quan Anh và EU… phục vụ
cho áp dụng quản lý rủi ro. Để đảm bảo rằng thơng tin đó có tính minh bạch, chính xác
cao cũng như trách nhiệm của người thu thập, thông tin tài liệu thu thập được cần cho
biết tại sao lại áp dụng biện pháp quản lý rủi ro? Tại sao lại dẫn đến quyết định đó?
Thơng tin cần được lưu trữ lại làm nguồn tư liệu cho quản lý rủi ro sau này.
Kết luận chương 1: Áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hải quan là biện pháp
cần thiết giúp Hải quan kiểm tra, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu, quá cảnh của
hàng hóa, phương tiện qua biên giới một cách hiệu quả, vừa đảm bảo cho hoạt động
giao lưu hàng hóa thuận lợi, vừa phát hiện, xử lý, phòng ngừa những hành vi vi phạm
pháp luật. Quản lý rủi ro trong quản lý hải quan được xây dựng theo một quy trình với
các bước được tiến hành theo trình tự. Chương này giúp trả lời được những vấn đề
sau: Quản lý hải quan là gì? Tại sao cần áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hải quan?
Và quy trình quản lý rủi ro trong quản lý hải quan. Làm nền tảng cho việc tìm hiểu
quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan Việt Nam sẽ được trình bày ở Chương 2 của
Khóa luận này.

18


QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG PHÁP LUẬT HẢI QUAN
VIỆT NAM
Quy định của pháp luật hải quan Việt Nam về quản lý rủi ro
“Kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thơng tin, đánh giá việc
chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để
bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu.”16
Điều 15 Luật Hải quan 2001 sửa đổi bổ sung 2005 về nguyên tắc tiến hành thủ
tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan quy định kiểm tra hải quan được thực hiện
trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro: phân tích thơng tin, đánh giá chấp hành

pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật.
Hải quan Việt Nam bắt đầu áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro từ 1/1/2006 với sự
ra đời của Quyết định 2148/2005/QĐ-TCHQ ngày 2 tháng 12 năm 2005 của Tổng cục
Hải quan về việc ban hành “ quy chế áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại”, sau đó là Quyết định
48/2008/QĐ-BTC ngày 4/7/2008 của Bộ Tài chính “ ban hành quy định áp dụng quản
lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan” và được thay thế bởi Thông tư
175/2013/TT-BTC ngày 29/11/2013. Ban đầu chỉ mới áp dụng quản lý rủi ro trong
làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất, nhập khẩu thương mại; đến Quyết định
48/2008/QĐ-BTC quản lý rủi ro đã được áp dụng trong hoạt động nghiệp vụ hải quan
tuy nhiên quy định còn khá đơn giản: chỉ đưa ra một số định nghĩa, quy trình áp dụng,
nguyên tắc áp dụng ... Từ kinh nghiệm thực tiễn áp dụng và nhu cầu hoàn thiện quy
định pháp luật đồng thời nhằm nội luật hóa các tiêu chí của WCO, thực hiện các cam
kết quốc tế; năm 2013 với sự ra đời của Thông tư 175/2013/TT-BTC, Quyết định
3273/2013/QĐ-BTC đã tạo nên một cơ chế pháp lý chặt chẽ, chi tiết và phù hợp hơn:
các từ ngữ được định nghĩa, giải thích rõ hơn; liệt kê cụ thể những rủi ro trong quản lý
hải quan, quản lý thuế; trình tự áp dụng quản lý rủi ro được thay đổi hợp lý hơn; quy
định chi tiết nội dung áp dụng quản lý rủi ro; quy định cụ thể áp dụng quản lý rủi ro
với từng đối tượng riêng biệt; quy trình quản lý rủi ro được sơ đồ hóa, quy định phù
hợp với tiêu chuẩn WCO… Trong chương này tác giả sẽ lần lượt trình bày những quy

16

Khoản 1a Điều 15 Luật Hải quan 2001 sửa đổi bổ sung 2005

19


định trên nhằm thể hiện một cách tổng quát về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hải
quan Việt Nam.

Kỹ thuật quản lý rủi ro được áp dụng trong các hoạt động nghiệp vụ hải quan
quy định tại Luật Hải quan gồm: kiểm tra tờ khai hải quan, kiểm tra hàng hóa, lựa
chọn phúc tập tờ khai hải quan, kiểm tra sau thông quan, quản lý thuế và hỗ trợ các
hoạt động nghiệp vụ khác.
Những rủi ro trong quản lý hải quan, quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh bao gồm17:
Các nguy nguy cơ do khơng tn thủ quy trình, quy định trong thực hiện thủ tục
hải quan, thủ tục thuế, kiểm tra, giám sát hải quan; khơng tn thủ chính sách quản lý
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, q cảnh; khơng tn thủ pháp luật thuế trong quản lý
hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; các nguy cơ do vi phạm các quy định
về phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; về trị giá hải quan; về xuất xứ hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu; về kiểm tra chất lượng; kiểm dịch động vật, thực vật; kiểm tra
vệ sinh an tồn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; về môi trường
trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; các nguy cơ hàng giả, vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, q cảnh hàng hóa;
nguy cơ bn bán, vận chuyển ma túy, tiền chất; nguy cơ buôn bán, vận chuyển vũ
khí, chất phóng xạ; nguy cơ bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới; và các nguy cơ không tuân thủ pháp luật khác trong quản lý hải quan, quản lý
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh.
Nguyên tắc, trình tự áp dụng quản lý rủi ro trong pháp luật hải quan
Nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong nghiệp vụ hải quan

Quyết định 48/2008/QĐ-BTC quy định các nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro
như sau:
 Nguyên tắc 1: Tạo điều kiện thuận lợi đối với các tổ chức, cá nhân chấp hành tốt
pháp luật về hải quan, kiểm soát chặt chẽ với đối tượng không tuân thủ quy định pháp
luật.
 Ngun tắc 2: Thu thập, phân tích thơng tin, đánh giá rủi ro được thực hiện ở
trước, trong và sau thơng quan theo các tiêu chí được quy định trong từng thời điểm

17

Điều 3 quyết định 3273/2013/QĐ-BTC

20


trong pháp luật hải quan. Hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh bị kiểm tra, giám sát, kiểm tra sau thông quan khi: khơng tn thủ
pháp luật, có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kết quả phân tích,đánh giá xác định mức độ
rủi ro cao và lựa chọn ngẫu nhiên.
 Nguyên tắc 3: Miễn kiểm tra với các đối tượng không thuộc trường hợp được nêu
ở nguyên tắc 2.
 Nguyên tắc 4: Cơ quan hải quan áp dụng quản lý rủi ro theo Quy trình và các quy
định về quyền hạn, trách nhiệm được quy định tại Quyết định 48/2008/QĐ-BTC.
 Nguyên tắc 5: Các quy trình nghiệp vụ hải quan phải được xây dựng, áp dụng
trên các quy định về áp dụng quản lý rủi ro.
Thông tư 175/2013/TT-BTC thay thế Quyết định 48/2008/QĐ-BTC quy định
các nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro cụ thể, rõ ràng và thể hiện rõ hơn bản chất của
quản lý rủi ro:
 Nguyên tắc “kiểm soát chặt chẽ các đối tượng không tuân thủ quy định pháp
luật” trong Quyết định 48/2008/ QĐ-BTC được thể hiện cụ thể hơn trong Thông tư
175/2013/TT-BTC là “việc áp dụng quản lý rủi ro để phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn
kịp thời các hành vi vi phạm”. Ngoài ra, Quyết định 48/2008/QĐ-BTC chỉ đề cập việc
chấp hành pháp luật hải quan, Thông tư 175/2013/TT-BTC ngồi pháp luật hải quan
cịn phải tn theo pháp luật thuế. Có thể nói đây là một điểm tiến bộ so với Quyết
định 48/2008/ QĐ-BTC vì như đã nêu ở trên cơ quan hải quan cịn có nhiệm vụ tổ
chức thực hiện chính sách về thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
 Khơng liệt kê những trường hợp bị kiểm tra, giám sát áp dụng các nghiệp vụ hải
quan như Quyết định 48/2008/QĐ-BTC mà quy định “hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,

quá cảnh, phương tiện vận tải, hành lý của hành khách xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
phải được đánh giá rủi ro để áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát hải quan và các biện
pháp nghiệp vụ cần thiết khác nhau ở mức độ phù hợp nhằm đảm bảo tuân thủ pháp
luật hải quan và pháp luật thuế”. Theo nhận định của tác giả, đây cũng là một quy định
phát triển hơn so với Quyết định 48/2008/QĐ-BTC bởi nếu liệt kê sẽ có những trường
hợp mà pháp luật không dự trù hết, hơn nữa theo hướng quy định tại Thông tư
175/2013/TT-BTC phù hợp với chuẩn mực 6.1 Cơng ước Kyoto: “Mọi hàng hóa kể cả
phương tiện vận tải khi nhập vào hay rời khỏi lãnh thổ Hải quan đều là đối tượng kiểm
tra Hải quan.”
 Cơ sở đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật dựa trên tiêu chí quản lý rủi ro,
thơng tin nghiệp vụ và thơng tin, dữ liệu có trên hệ thống thông tin của ngành Hải
quan tại thời điểm đánh giá. Quyết định 48/2008/QĐ-BTC còn nêu khá chung khi quy
21


×