Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của thành phố trực thuộc trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
fftrrvtyo

THI TUYỂN CƠNG CHỨC TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CỦA THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƢƠNG
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số chuyên ngành: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VÕ TRÍ HẢO
Học viên: VŨ THỊ DIỆP
Lớp: CHLHP&HC, KHĨA 23

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết đề tài luận văn “Thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành
chính nhà nƣớc của Thành phố trực thuộc Trung ƣơng” là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Tồn bộ nội dung được trình bày và kết quả nghiên cứu đạt được
trong luận văn này do tôi thực hiện, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. VÕ TRÍ
HẢO. Các tài liệu, số liệu tham khảo, trích dẫn trình bày trong luận văn này là
trung thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam kết của
mình.

Tác giả Luận văn

Vũ Thị Diệp



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................................3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................................3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài .................................................................3
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài ........................................................4
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................4
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THI TUYỂN CƠNG
CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CỦA THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƢƠNG .............................................................................4
1.1. Công chức trong cơ quan hành chính nhà nƣớc của Thành phố trực
thuộc Trung ƣơng ..................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố
trực thuộc trung ương ...........................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố
trực thuộc trung ương .........................................................................................10
1.1.3. Phân loại công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố
trực thuộc trung ương .........................................................................................11
1.2. Thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nƣớc của Thành phố
trực thuộc Trung ƣơng ........................................................................................12
1.2.1. Khái niệm thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của
Thành phố trực thuộc Trung ương .....................................................................12
1.2.2. Căn cứ, điều kiện, nguyên tắc thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành
chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương .....................................13
1.2.3. Thẩm quyền tổ chức thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành chính nhà
nước của Thành phố trực thuộc Trung ương ......................................................18



1.2.4. Trình tự, thủ tục thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước
của Thành phố trực thuộc Trung ương ...............................................................19
1.3. Phân biệt thi tuyển công chức với các hình thức tuyển dụng khác..........28
1.3.1. Phân biệt giữa thi tuyển và xét tuyển công chức......................................28
1.3.2. Phân biệt giữa thi tuyển và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công
chức ....................................................................................................................29
1.4. Kinh nghiệm lịch sử về công tác thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành
chính nhà nƣớc .....................................................................................................31
1.5. Những nhân tố tác động đến thi tuyển công chức trong cơ quan hành
chính nƣớc của Thành phố trực thuộc Trung ƣơng .........................................33
1.5.1. Nhóm nhân tố chính trị - pháp luật ..........................................................33
1.5.2. Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội ..................................................................35
1.5.3. Nhóm nhân tố khoa học – cơng nghệ .......................................................37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................40
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI TUYỂN CƠNG CHỨC TẠI
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN ...............................41
2.1. Thực trạng về đội ngũ cơng chức trong cơ quan hành chính của Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ ............................................................41
2.1.1. Thực trạng về đội ngũ cơng chức trong cơ quan hành chính của Thành
phố Hồ Chí Minh ................................................................................................41
2.1.2. Thực trạng về đội ngũ cơng chức trong cơ quan hành chính của Thành
phố Cần Thơ .......................................................................................................42
2.2. Thực trạng công tác thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà
nƣớc của Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ và giải pháp hồn
thiện .......................................................................................................................44
2.2.1. Tình hình thi tuyển cơng chức hành chính nhà nước của Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Cần Thơ ..........................................................................44
2.2.2. Thực trạng về căn cứ thi tuyển và giải pháp hoàn thiện...........................48
2.2.3. Thực trạng về điều kiện thi tuyển công chức và giải pháp hoàn thiện .....52



2.2.4. Thực trạng về thẩm quyền tổ chức thi tuyển cơng chức và giải pháp hồn
thiện ....................................................................................................................58
2.2.5. Thực trạng về trình tự, thủ tục thi tuyển và giải pháp hồn thiện ............59
2.2.6. Thực trạng về nội dung, hình thức thi tuyển và giải pháp hoàn thiện ......69
2.3. Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác thi tuyển công chức trong cơ
quan hành chính nhà nƣớc .................................................................................78
2.3.1. Hồn thiện pháp luật về thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính
nhà nước .............................................................................................................78
2.3.2. Đổi mới quan điểm về cơng tác thi tuyển công chức ..............................79
2.3.3. Đổi mới công tác thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước
............................................................................................................................79
2.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động thi tuyển ...............81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................82
KẾT LUẬN..............................................................................................................83


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến nền hành chính nhà nước là nhắc đến hệ thống thể chế quản lý,
điều hành, bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở để quản lý Nhà nước;
cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy cơ quan hành chính các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương; đội ngũ công chức hành chính. Trong đó, có
thể khẳng định yếu tố con người (cơng chức hành chính) ln là yếu tố có tính chất
quyết định và quan trọng nhất. Đội ngũ công chức có vị trí rường cột trong tổ chức,
hoạt động của các cơ quan hành chính, có vai trị quyết định đến sự phát triển của
đất nước, là đội ngũ trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp,

quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; tham mưu, hoạch định, tổ chức thực
hiện và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách. Để khơng ngừng
nâng cao hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước nói chung và của các cơ
quan hành chính nhà nước nói riêng, việc tuyển chọn những người thực sự có trình
độ, năng lực và đạo đức để trở thành một công chức hành chính nhà nước là nhiệm
vụ hàng đầu, vừa mang tính cấp thiết và vừa mang tính kế thừa, thường xuyên, liên
tục và lâu dài trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Muốn như vậy, hệ thống
pháp lý về cơng tác thi tuyển cơng chức hành chính phải được quy định một cách
chặt chẽ, hệ thống, hợp lý và thực sự mang lại hiệu quả, đảm bảo chất lượng công
chức được tuyển chọn.
Thời gian qua, bên cạnh những mặt làm được trong công tác thi tuyển công
chức hành chính như được tiến hành thường xuyên, liên tục tại tất cả các địa
phương trên cả nước; chất lượng đội ngũ công chức đang dần được nâng cao và chú
trọng hơn về chất lượng thì cơng tác thi tuyển cơng chức hành chính cịn bộc lộ
khơng ít những hạn chế, tồn tại, chưa phát huy được được hiệu lực pháp lý và hiệu
quả thật sự của các văn bản quy phạm pháp luật. Luật Cán bộ, công chức năm 2008
đến nay đã trở lên lỗi thời, có nhiều điểm khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế
và nhu cầu về chất lượng công chức trong thời đại mới, gây ra khơng ít khó khăn
cho các cơ quan khi áp dụng dẫn đến hiệu quả công tác thi tuyển công chức khơng
cao.
Ngồi ra, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ công chức hiện nay vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý nhà nước; số lượng công chức ngày càng tăng do việc
tuyển dụng tràn lan, không đúng chủ trương tinh giản biên chế của nhà nước; việc
áp dụng quy định pháp luật không thống nhất giữa các tỉnh, Thành phố trong thi


2

tuyển công chức dẫn đến chênh lệch về số lượng, chất lượng cơng chức; nội dung
thi tuyển cịn chưa thật sự phù hợp và phản ánh đúng năng lực của người dự thi; vấn

đề tiếp nhận người trúng tuyển công chức và tập sự cơng chức cịn nhiều bất cập, sai
sót.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, tồn tại như trên, có nguyên
nhân khách quan cũng có các nguyên nhân chủ quan tuy nhiên việc quy định chưa
thật sự chặt chẽ, đầy đủ và hợp lý của các quy định pháp luật về vấn đề thi tuyển
công chức là ngun nhân hàng đầu. Do đó hồn thiện hệ thống pháp luật và thực
hiện thi tuyển công chức hành chính nhà nước bảo đảm tăng về chất, giảm về lượng
trong bộ máy hành chính nhà nước nói chung và trong cơ quan hành chính nhà nước
của Thành phố trực thuộc Trung ương nói riêng là một trong những vấn đề cần
được nghiên cứu.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành
chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương” làm Luận văn thạc sĩ Luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về cơng chức nói chung và thi tuyển cơng chức nói riêng, hiện
nay có ý nghĩa và tầm quan trọng hết sức to lớn, được nhiều tác giả quan tâm với
phạm vi và mức độ khác nhau.
Trong phạm vi Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, hiện nay chưa có một
đề tài khóa luận hay luận văn nào nghiên cứu về vấn đề “thi tuyển công chức hành
chính”. Tuy nhiên, cũng đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về cơng tác tuyển dụng
cơng chức nói chung. Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Quang Lâm với
đề tài “Bầu cử, sử dụng cán bộ và tuyển dụng, sử dụng công chức trong cơ quan
hành chính nhà nước cấp tỉnh tại tỉnh Lâm Đồng” (2013)…Bên cạnh đó, cũng có
các bài viết đề cập đến các góc độ khác nhau liên quan đến cơng tác tuyển dụng
công chức như bài viết “Một số vấn đề về đổi mới tuyển dụng công chức ở Việt
Nam” (2016) của PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Hải đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà
nước (số 5) năm 2016,…Đặc điểm chung của các đề tài, bài viết nêu trên đều có
phạm vi nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực trạng cơng tác tuyển dụng cơng chức
nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về các nội dung của thi
tuyển cơng chức hành chính nhà nước.



3

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hệ thống lại vấn đề lý luận về thi
tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước kết hợp khảo sát thực tiễn áp
dụng Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và các quy định pháp luật hiện hành có liên
quan quy định về thi tuyển cơng chức để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật hành chính về thi tuyển cơng chức hành
chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương theo đúng tinh thần cải cách
hành chính. Để đạt được mục đích trên luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Nghiên cứu và hệ thống toàn bộ những vấn đề lý luận và pháp lý về công
tác thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Phân tích và đánh giá những quy định của Luật Cán bộ công chức năm
2008 và các quy định pháp luật hiện hành có liên quan về thi tuyển cơng chức trong
cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương.
- Đánh giá đúng thực trạng cơng tác thi tuyển cơng chức hành chính nhà
nước tại một số Thành phố trực thuộc Trung ương và đưa ra kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện đối với công tác này.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học tác giả tập trung nghiên cứu một
số vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn về thi tuyển cơng chức tại cơ quan
hành chính nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở phương pháp luận: Để đạt được những mục đích đề ra, trong quá trình
nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật.

Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp khoa học như:
phân tích, thống kê, tổng hợp và đối chiếu so sánh.
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp ở Chương 1 nhằm
khái qt hóa tình hình nghiên cứu của đề tài cũng như tổng hợp, đánh giá cơ sở lý
luận và cơ sở pháp lý của công tác thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính
nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương để làm nền tảng cho Chương 2. Ở
Chương 2, tác giả đã nghiên cứu theo phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực


4

tiễn, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng hợp, đánh giá thực tiễn để giải quyết
những vấn đề còn hạn chế, vướng mắc. Tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê,
so sánh, đối chiếu và tổng hợp để đánh giá thực trạng, những hạn chế trong thi
tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của một số Thành phố trực
thuộc Trung ương để đưa ra những kiến nghị, giải pháp cho đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
Đề tài là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống dưới
góc độ lý luận đồng thời đưa ra thực trạng và giải pháp hồn thiện, đổi mới cơng tác
thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên Cao học Luật và
những ai quan tâm đến đề tài này. Mặt khác, với chủ trương của Đảng và Nhà nước
ta trong tiến trình cải cách hành chính và chế độ công vụ công chức hiện nay, đề tài
sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công việc thực tế như cán bộ làm công tác
tuyển dụng cơng chức hành chính nhà nước.
7. Kết cấu luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thi tuyển công chức trong cơ quan

hành chính nhà nước của thành phố trực thuộc trung ương.
Chương 2: Thực trạng công tác thi tuyển cơng chức tại cơ quan hành chính
nhà nước của Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ và giải pháp hoàn
thiện.


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THI TUYỂN CƠNG CHỨC TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CỦA THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC
TRUNG ƢƠNG
1.1. Công chức trong cơ quan hành chính nhà nƣớc của Thành phố trực
thuộc Trung ƣơng
1.1.1. Khái niệm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành
phố trực thuộc trung ương
* Về khái niệm cơng chức
Các quốc gia trên thế giới có quy định khá khác biệt về công chức. Nền công
vụ truyền thống Pháp quy định về công chức rất rõ ràng. Điều 2 Chương II Quy chế
chung về công chức Nhà nước của Pháp năm 1994 xác định: "Công chức là người
được bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên với thời gian làm việc trọn vẹn và
được biên chế vào một ngạch trong thứ bậc của các cơ quan hành chính Nhà nước,
các cơ quan ngoại biên hoặc các công sở Nhà nước". Trong những năm gần đây,
một khái niệm khác được thừa nhận là: "Cơng chức bao gồm tồn bộ những người
được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm
việc thường xuyên trong một công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và
được biên chế vào một ngạch của nền hành chính cơng". Theo cách hiểu này, cơng
chức Pháp gồm 3 loại: Cơng chức hành chính Nhà nước, cơng chức trực thuộc cộng
đồng lãnh thổ và công chức trực thuộc các công sở tự quản.
Ở Anh, khái niệm công chức chỉ bao hàm những nhân viên công tác trong

ngành hành chính.
Ở Mỹ, tất cả các nhân viên trong bộ máy hành chính của Chính phủ đều
được gọi chung là công chức, bao gồm những người được bổ nhiệm về chính trị
(cịn gọi là cơng chức chính trị), những người đứng đầu bộ máy độc lập và những
quan chức của ngành hành chính. Quan hệ giữa Chính phủ và cơng chức là quan hệ
giữa ông chủ và người làm thuê, ngồi việc điều chỉnh theo Luật hành chính, quan
hệ này còn được điều chỉnh bằng hợp đồng dân sự.
Qua ba nền hành chính phát triển trên có thể thấy, mỗi quốc gia đều xác định
một phạm vi những người là công chức riêng. Tuy nhiên, hầu hết công chức đều
mang một số đặc điểm sau: là cơng dân nước đó, được tuyển dụng giữ một công
việc thường xuyên trong cơ quan hành chính Nhà nước, được bổ nhiệm vào một


6

ngạch nhất định, làm việc trong công sở, chỉ được làm những gì pháp luật cho phép,
trong biên chế và hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước.
Ở nước ta, cả một thời kỳ dài trước đây, do điều kiện chiến tranh và thực
hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan,
đơn vị của Đảng, của nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong doanh
nghiệp, lâm nông trường…đều được gọi chung trong cụm từ “cán bộ công nhân
viên chức” mà chưa có sự phân định rõ ràng.
Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về "Quy
chế công chức", đây được xem là văn bản pháp luật đầu tiên có liên quan trực tiếp
đến khái niệm “công chức”. Quy chế xác định rõ nghĩa vụ, quyền lợi của công chức,
cùng các thể lệ về việc tổ chức, quản trị và sử dụng các ngạch cơng chức trong tồn
quốc, theo đó "những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngồi nước,
đều là cơng chức"1.
Đến thời kỳ đổi mới (sau năm 1986), trước yêu cầu khách quan cải cách nền

hành chính và địi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơng chức nhà nước, khái
niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991
của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Cơng dân Việt nam được tuyển dụng và bổ
nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở Trung
ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước”2.Như vậy,
khái niệm công chức tại Nghị định này đã được xác định rõ ràng và nhiều tiêu chí
hơn so với Sắc lệnh 76/SL rất nhiều, đặc biệt Nghị định cịn nêu ra chế độ làm việc
của cơng chức là theo ngạch, bậc và hưởng lương từ Ngân sách nhà nước.
So với Nghị định 169/HĐBT chỉ đưa ra khái niệm công chức, Pháp lệnh Cán
bộ, công chức năm 1998 ra đời, là văn bản pháp lý cao nhất của nước ta tính đến
thời điểm đó về cán bộ, cơng chức, đã đưa ra khái niệm chung về cán bộ, công
chức. Theo Pháp lệnh, những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của
Đảng, Nhà nước, đoàn thể được gọi chung trong một cụm từ là “cán bộ, công
chức”. Lúc này, phạm vi và đối tượng đã được thu hẹp lại hơn nhưng vẫn gồm cả
khu vực hành chính, khu vực sự nghiệp và các cơ quan của Đảng, đoàn thể. Vấn đề
1

Điều 1, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định về quy định về quy chế công
chức
2
Điều 2, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định về quy định về quy chế công
chức


7

ai là cán bộ, ai là công chức cũng chưa xác định được. Với quy định của Pháp lệnh
Cán bộ, cơng chức, các tiêu chí: Cơng dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương
từ Ngân sách nhà nước mới chỉ là những căn cứ để xác định một người có phải là

"cán bộ, công chức" hay không. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP
ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định đã cụ thể
hóa khái niệm cơng chức “là cơng dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao
giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành
chun mơn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp và cơng nhân quốc phịng”.
Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái niệm
gộp cả cán bộ, công chức và chỉ rõ 8 đối tượng được xác định là cán bộ công chức3.
Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008. Luật này có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Khoản 2 Điều 4 quy định về công
chức:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.4
* Về khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
Theo Giáo trình Luật hành chính Việt Nam 2010, bộ máy nhà nước là một
chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước

3
4


Khoản 1, Điều 1, Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003
Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ công chức năm 2008


8

Việt nam gồm bốn hệ thống cơ quan chính: “cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp,
cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát”5.
Cơ quan hành chính nhà nước (cơ quan hành pháp) là một loại cơ quan nhà
nước, một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Do vậy, ngoài những đặc điểm
chung như các hệ thống cơ quan khác, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc
điểm đặc thù như sau:
- Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước,
thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong
phạm vi, lĩnh vực nhất định. Như cơ quan tòa án chỉ tham gia vào hoạt động xét xử;
các cơ sở y tế thực hiện nhiệm vụ chun mơn trong lĩnh vực phịng và chữa bệnh.
- Cơ quan hành chính nhà nước nói chung là cơ quan chấp hành, điều hành
của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước
chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Ngồi ra, cơ quan hành
chính nhà nước cịn được trao thẩm quyền thành lập ra các cơ quan chuyên mơn để
giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hồn thành nhiệm vụ.
- Cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt và có
đối tượng quản lý rộng lớn. Ðó là hệ thống các đơn vị cơ sở như công ty, tổng công
ty, nhà máy, xí nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế; trong lĩnh vực giáo dục có trường
học; trong lĩnh vực y tế có bệnh viện...
- Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới hai
hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở hiến
pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên

nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành,
kiểm tra...hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn vị
cơ sở trực thuộc của mình.
Hiện nay, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước bao gồm:
- Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương: Chính phủ bao gồm các Bộ,
cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành
lập;
- Cơ quan hành chính ở địa phương: Ủy ban nhân dân các cấp và hệ thống cơ
quan có thẩm quyền chun mơn ở địa phương.
5

Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Trần Minh Hương chủ biên,
NXB Công an nhân dân, tr23.


9

Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
trong phạm vi thẩm quyền của mình thưc hiện hoạt động chấp hành - điều hành và
tham gia chính yếu vào hoạt động quản lý nhà nước.
* Khái niệm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước
Qua việc phân tích khái niệm cơng chức và cơ quan hành chính nhà nước, ta
rút ra khái niệm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước:
Cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước là cơng dân Việt Nam, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương bao gồm các cơ quan thuộc Chính phủ
là các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ thành lập; Ủy ban nhân dân các cấp và hệ thống cơ quan có thẩm quyền
chun mơn ở địa phương; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

* Khái niệm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố
trực thuộc Trung ương
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được chia thành 3 cấp:
- Cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh: tỉnh, Thành phố trực thuộc trung
ương;
- Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện: huyện, quận, thị xã, Thành phố
trực thuộc tỉnh;
- Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã: xã, phường, thị trấn.
Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung
ương là cơ quan hành chính nhà nước địa phương. Đây là các Thành phố nằm dưới
sự quản lý của Trung ương, khác với các Thành phố trực thuộc tỉnh nằm dưới sự
quản lý của tỉnh, chỉ tương đương cấp huyện. Thành phố trực thuộc Trung
ương phải là các đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I, và được xác định là các đô thị
trung tâm cấp quốc gia. Đây là các Thành phố lớn, có nền kinh tế phát triển, là khu
vực quan trọng về qn sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội là động lực phát triển
cho cả quốc gia chứ khơng cịn nằm bó hẹp trong một tỉnh, hay một vùng (liên tỉnh)
nữa. Các Thành phố này có cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ phát triển, có
nhiều cơ sở giáo dục bậc cao, dân cư đông, thuận lợi về giao thông vận tải…
Việt Nam hiện có 5 Thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Hà Nội, Hải
Phịng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
Qua việc phân tích các khái niệm nêu trên, ta rút ra khái niệm:


10

Cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố trực thuộc
Trung ương là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước địa phương bao gồm Ủy ban
nhân dân các cấp và hệ thống cơ quan có thẩm quyền chun mơn ở địa phương;
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

1.1.2. Đặc điểm cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành
phố trực thuộc trung ương
* Đặc điểm chung
Cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố trực thuộc
trung ương là một bộ phận công chức trong hệ thống cơng chức nhà nước nói
chung. Vì vậy, cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố trực
thuộc trung ương cũng mang những đặc điểm chung như các đội ngũ công chức
khác.
- Là công dân Việt Nam:
- Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan
nhà nước:
- Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước:
* Đặc điểm đặc thù
Ngồi những đặc điểm chung của cơng chức nêu trên, cơng chức trong cơ
quan hành chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương còn mang những
đặc trưng riêng, đây là căn cứ để xác định ai là cơng chức trong cơ quan hành chính
nhà nước, ai công chức trong các cơ quan nhà nước khác, cũng như phạm vi hoạt
động của họ.
- Về phạm vi: Công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố
trực thuộc Trung ương là một loại công chức thuộc đội ngũ công chức của nhà nước
– công chức hành chính nhà nước địa phương (phân biệt với cơ quan hành chính
nhà nước ở Trung ương).
- Về tính chất hoạt động: chỉ thực hiện hoạt động quản lý hành chính trong
pham vi địa giới hành chính của Thành phố, cụ thể là quản lý hoạt động chuyên
môn (các sở, ban, ngành) và quản lý hành chính địa phương (các quận, huyện) của
một Thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cơ quan quản lý: Ủy ban nhân dân Thành phố


11


- Cơ quan sử dụng trực tiếp: hệ thống các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy
ban nhân dân Thành phố bao gồm các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các quận,
huyện.
- Về số lượng: Do tình hình kinh tế - xã hội, dân số và địa giới hành chính
của một Thành phố trực thuộc Trung ương mà số lượng công chức tại đây lớn hơn
so với các tỉnh, Thành phố khác.
1.1.3. Phân loại công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành
phố trực thuộc trung ương
Điều 6 Nghị định số 06/2010/NĐ-CP đã nêu một cách cụ thể những đối
tượng là công chức trong cơ quan hành chính cấp tỉnh và cấp huyện. Trong đó:
- Cơng chức cấp tỉnh gồm:
+ Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng, người giữ chức vụ cấp trưởng,
cấp phó và người làm việc trong cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân, Văn phịng Ủy ban nhân dân
+ Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong
các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
+ Trưởng ban, Phó Trưởng ban, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và
người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ
cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thuộc Ủy
ban nhân dân
- Cơng chức ở cấp huyện gồm:
+ Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong Văn
phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, Chánh văn phịng,
Phó Chánh văn phịng và người làm việc trong văn phịng Ủy ban nhân dân quận,
huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
+ Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan

chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
- Riêng công chức cấp xã thì được quy định ngay trong Luật cán bộ, công
chức năm 2008. Khoản 3, Điều 62 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định công
chức cấp xã gồm các chức danh: Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng Qn sự, Văn
phịng - thống kê, Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị


12

trấn) hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và mơi trường (đối với xã); Tài chính
- kế tốn; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội. Hiện nay công chức cấp xã do cấp
huyện quản lý6.
Việc quy định cụ thể như hiện nay giúp tránh các trường hợp nhầm lẫn giữa
cán bộ, công chức, viên chức; giữa công chức các cấp; giúp phân định rõ ràng
quyền lợi, nghĩa vụ; việc quản lý, sử dụng từng đối tượng là cơng chức, tạo cơ chế
kiểm sốt, giám sát chặt chẽ từ các cấp chính quyền địa phương và giữa Trung ương
với địa phương.
1.2. Thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nƣớc của Thành
phố trực thuộc Trung ƣơng
1.2.1. Khái niệm thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của
Thành phố trực thuộc Trung ương
Theo Tô Tử Hạ “Tuyển dụng công chức là một hoạt động diễn ra một cách
thường xuyên theo quy định của pháp luật. Theo đó, Nhà nước lựa chọn một số
người đủ tiêu chuẩn, năng lực và phẩm chất vào những vị trí nhất định của guồng
máy hành chính nhà nước. Tuyển dụng công chức là một nội dung quan trọng trong
thể chế cơng vụ, một q trình bao gồm tổng thể các hoạt động nhằm bổ sung
những người đủ năng lực cho những vị trí cịn thiếu trong hệ thống cơng vụ”7.
Thi tuyển cơng chức là một hình thức tuyển dụng công chức. Trong khoa học
pháp lý, “tuyển dụng cơng chức” là q trình bổ sung những người đủ tiêu chuẩn,
điều kiện vào trong cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một quá trình thường

xuyên và cần thiết để xây dựng và phát triển đội ngũ công chức. Tuyển dụng công
chức là việc lựa chọn và chấp nhận một người tự nguyện gia nhập hệ thống công vụ
sau khi đã xác nhận người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp
luật để bổ nhiệm vào một ngạch công chức theo tiêu chuẩn chuyên mơn nhất định
của vị trí cơng việc cần tuyển. Tuyển dụng công chức là để giao giữ một chức trách
nhất định hay để bổ nhiệm vào một ngạch công chức nào đó, để thi hành nhiệm vụ
được Nhà nước trao cho công chức.
Ở Việt Nam trước năm 1986, tuyển dụng cơng chức vào làm việc cho cơ
quan nhà nước nói riêng và cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung
được thực hiện thơng qua xét tuyển. Căn cứ để xét tuyển chủ yếu dựa vào lý lịch,
6

Điều 9 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy định về cơng chức
cấp xã, phường, thị trấn
7
Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr87.


13

q trình cơng tác cũng như kết hợp giải quyết chế độ chính sách, hợp lý hóa gia
đình…mà chưa có những quy định xác định các tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng nên hoạt
động tuyển dụng còn chắp vá và thiếu khoa học.
Xuất phát từ thực tế trên đồng thời để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế và cải
cách hành chính nhà nước, tuyển dụng cơng chức được chuyển từ hình thức xét
tuyển sang thi tuyển, theo đó Nghị định số 25/1993/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 23/5/1993 quy định “Tất cả các cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước
từ nay khi tuyển công chức, viên chức nhất thiết phải thực hiện chế độ thi tuyển.
Những người không qua thi tuyển đều không được tuyển dụng vào biên chế trong

các cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước”.
Đặc biệt từ khi Pháp lệnh Cán bộ cơng chức ra đời năm 1998 thì thi tuyển
cạnh tranh được xác định là phương thức chủ yếu trong tuyển dụng công chức. Điều
35 Luật Cán bộ công chức năm 2008 tiếp tục khẳng định tuyển dụng công chức
được thực hiện chủ yếu thông qua thi tuyển đồng thời bổ sung: “việc tuyển dụng
công chức phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế của
cơ quan sử dụng công chức”. Việc thực hiện nhất quán phương thức thi tuyển cạnh
tranh cùng với q trình hồn thiện cơ sở pháp lý về tuyển dụng công chức ở Việt
Nam trong hơn 20 năm qua đã thể hiện rõ nỗ lực và quyết tâm của các cơ quan nhà
nước nhằm đổi mới tuyển dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ cơng chức.
Theo đó, để được cơng nhận là một cơng chức hành chính, được đứng trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, người ta phải vượt qua một kỳ thi
tuyển công chức do các cơ quan có thẩm quyền đứng ra tổ chức. Một kỳ thi tuyển
cơng chức sẽ có các mơn thi và các thí sinh phải thi tuyển theo phương thức cạnh
tranh, người có điểm số cao hơn sẽ có nhiều cơ hội trúng tuyển và làm ở vị trí tốt.
Một kỳ thi được đánh giá là thành công hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như chất lượng thí sinh, nội dung thi tuyển, cách thức tổ chức cuộc thi…
Như vậy, thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của Thành
phố trực thuộc Trung ương là việc cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng cơng chức
của Thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn một số người đủ tiêu chuẩn, năng
lực và phẩm chất vào những vị trí nhất định của bộ máy hành chính của Thành phố
đó thơng qua các mơn thi và theo quy trình, thủ tục mà pháp luật quy định.
1.2.2. Căn cứ, điều kiện, nguyên tắc thi tuyển công chức trong cơ quan hành
chính nhà nước của Thành phố trực thuộc Trung ương
* Về căn cứ thi tuyển:


14

Căn cứ thi tuyển công chức được quy định cụ thể tại Điều 35 Luật Cán bộ

công chức năm 2008 và khoản 1 Điều 3 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày
15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức
(sau đây gọi tắt là Nghị định 24/2010/NĐ-CP): “Việc tuyển dụng công chức phải
căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử
dụng công chức”.
Thứ nhất là yêu cầu nhiệm vụ. Yêu cầu nhiệm vụ là các công việc, hoạt động
chuyên môn mà cơ quan hành chính – cơ quan trực tiếp sử dụng cơng chức được
giao. Để thực hiện các công việc này cơ quan hành chính cần có đội ngũ cơng chức
có chun mơn phù hợp để phụ trách thực hiện. Hàng năm, trên cơ sở các yêu cầu
nhiệm vụ và tình hình nhân sự hiện có, cơ quan hành chính xác định nhu cầu tuyển
dụng công chức; điều kiện, tiêu chuẩn của người ứng tuyển để tiến hành các bước
tuyển dụng. Nhu cầu tuyển dụng công chức là mong muốn của các cơ quan sử dụng
công chức về nhân sự làm công tác chuyên môn để thực hiện các công việc cụ thể,
nhất định phục vụ cho hoạt động của cơ quan đó. Nhu cầu này phải dựa trên vị trí
việc làm đã được cơ quan sử dụng công chức xây dựng. Nhu cầu tuyển dụng công
chức là căn cứ đầu tiên để xác định số lượng và điều kiện công chức sẽ ứng tuyển.
Thứ hai là vị trí việc làm. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh,
chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí cơng chức trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị8. Xác định vị trí việc làm là cơ sở để tuyển dụng cơng chức
có chun mơn phù hợp với vị trí việc làm đã xác định.
Điều 3 Nghị định 24/2010/NĐ-CP nêu rõ trách nhiệm xác định, mô tả vị trí
việc làm thuộc về cơ quan sử dụng cơng chức “cơ quan sử dụng công chức báo cáo
cơ quan quản lý công chức phê duyệt bảng mô tả vị trí việc làm để làm căn cứ tuyển
dụng cơng chức”. Đây là một trong những nội dung quy định mới nhằm mục đích
tuyển dụng được đúng người đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan hành chính nhà nước, hạn chế việc tuyển dụng cơng chức một các tùy tiện.
Qua xác định vị trí việc làm, các cơ quan, đơn vị sẽ rà soát lại tổ chức bộ
máy, đội ngũ công chức của cơ quan đơn vị mình và xác định từng vị trí việc làm
trong tổ chức gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Điều
này giúp đơn vị tránh tình trạng định sẵn nhân sự rồi mới tạo ra công việc và tránh

sự chồng chéo khi phân công, giao việc, nhờ đó khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa
8

Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2013 về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch
công chức


15

thiếu nhân lực trong bộ máy hành chính hiện nay. Mặt khác, xác định vị trí việc làm
giúp đội ngũ cơng chức thấy được vị trí, vai trị, trách nhiệm của mình trong tổ chức
để thực hiện có hiệu quả chức trách được phân cơng, tránh tình trạng đùn đẩy, thối
thác cơng việc.
Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 về xác định vị trí việc làm và
cơ cấu ngạch cơng chức quy định cụ thể về nguyên tắc, phương pháp, trình tự, thủ
tục xác định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức; thẩm quyền quyết định, phê
duyệt, quản lý vị trí việc làm và cơ cấu ngạch cơng chức. Trên cơ sở đó, ngày
25/6/2013, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 05/2013/TT-BNV hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 36/2013/NĐ-CP. Việc xác định vị trí việc làm không
được quy định cụ thể trong Luật hay Nghị định mà nhiệm vụ này được giao trực
tiếp cho cơ quan sử dụng công chức. Cơ quan sử dụng cơng chức có trách nhiệm
xây dựng danh mục vị trí việc làm, xác định nội dung công việc và khung năng lực
cho từng vị trí. Đây là một cơ sở để cơ quan sử dụng công chức đăng ký nhu cầu và
tuyển dụng công chức hàng năm.
Thứ ba là chỉ tiêu biên chế. Theo Khoản 5 Điều 66 Luật Cán bộ, công chức
năm 2008 quy định: “Căn cứ vào quyết định chỉ tiêu biên chế được Chính phủ giao,
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập của Ủy ban nhân dân
các cấp”. Như vậy, việc xác định biên chế cơng chức của các cơ quan hành chính
địa phương trong đó có các Thành phố trực thuộc Trung ương thuộc thẩm quyền

của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Theo quy định hiện nay, các cơ quan sử dụng công chức chỉ được phép tuyển
dụng cơng chức khi cơ quan cịn chỉ tiêu biên chế, nếu đã sử dụng hết chỉ tiêu biên
chế được giao thì khơng được tuyển dụng thêm. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày
17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức cũng quy định: “Chỉ tuyển dụng số cán bộ, công chức, viên chức
mới không quá 50% số cán bộ, công chức, viên chức đã ra khỏi biên chế sau khi
thực hiện tinh giản biên chế và không quá 50% số biên chế của cán bộ, công chức,
viên chức đã giải quyết chế độ nghỉ hưu đúng tuổi hoặc thôi việc theo quy định của
pháp luật trong các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập từ
Trung ương đến địa phương”9.
9

Điểm b, Mục 2, Chương III Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức


16

Việc thắt chặt quy định về tuyển dụng công chức gắn với chỉ tiêu biên chế là
nhiệm vụ bắt buộc phải thực hiện đối với tất cả cơ quan, đơn vị, tránh tình trạng dư
thừa cơng chức, hao tốn ngân sách nhà nước. Đây là căn cứ quan trọng để các cơ
quan sử dụng công chức tiến hành tuyển dụng công chức vào làm việc.
* Về nguyên tắc thi tuyển:
Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định các nguyên tắc thi tuyển công
chức gồm:
- Bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật: Nguyên tắc
này đòi hỏi các thông tin liên quan đến tuyển dụng công chức như: nhu cầu tuyển
dụng, vị trí cần tuyển, số lượng cần tuyển; tiêu chuẩn và điều kiện dự thi, thời gian,
địa điểm dự thi…phải được công bố công khai và minh bạch, thống nhất. Nếu vì

một nguyên nhân khách quan hay chủ quan mà một trong các yếu tố trên không
được công bố, phổ biến đến các đối tượng dự thi hay chỉ được phổ biến đến một số
đối tượng cụ thể, khơng chính xác hoặc khơng kịp thời; có sai sót trong việc quy
định thì tính cơng khai, khách quan, đúng pháp luật sẽ không được bảo đảm và
nguyên tắc bình đẳng cũng vì thế mà bị xâm phạm.
- Bảo đảm tính cạnh tranh: ngun tắc này địi hỏi việc thi tuyển công chức phải
đa dạng, nghiêm túc, địi hỏi kích thích tính năng động, sáng tạo và chủ động của cơng
chức. Tất cả các thí sinh dự thi đều có quyền, lợi ích và cơ hội như nhau khi tham gia dự
thi và kết quả chấm thi khách quan là điều kiện để xét việc trúng tuyển hay khơng của thí
sinh. Ai có điểm số cao hơn sẽ là người trúng tuyển. Ở Việt Nam, hình thức thi tuyển đã
được coi như hình thức tuyển dụng chính thống và thơng dụng, thay cho hình thức xét
tuyển từ rất lâu. Cụ thể Nghị định số 25/1993/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
23/5/1993 quy định “Tất cả các cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước từ nay
khi tuyển công chức, viên chức nhất thiết phải thực hiện chế độ thi tuyển. Những
người không qua thi tuyển đều không được tuyển dụng vào biên chế trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp của nhà nước”.
- Tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và vị trí việc làm: Khi tuyển
dụng công chức cơ quan sử dụng công chức phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ thực tế
của cơ quan, đơn vị mình và những quy định cụ thể về vị trí việc làm đang cần thiết
tuyển dụng người để thực hiện. Nếu việc tuyển dụng không đáp ứng được đúng yêu cầu
công việc sẽ dẫn đến tính trạng dư thừa nhân sự hoặc khơng phù hợp với nhu cầu, người
được tuyển dụng khơng hồn thành được nhiệm vụ được giao.


17

- Ưu tiên tuyển chọn người có tài năng, người có cơng với nước, người dân
tộc thiểu số: Đây là nguyên tắc mang tính chất bổ sung, thể hiện yếu tố nhân đạo và
nhân văn của nhà nước ta: với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, coi trọng
người hiền tài, tinh thần đoàn kết dân tộc. Nguyên tắc này nhằm tạo điều kiện cho

những người có tài năng thực sự có thể làm việc phụng sự đất nước, cho những
người có cơng với nước bao gồm những người là thương bệnh binh hay con cái của
họ có thêm cơ hội được đứng trong hàng ngũ công chức nhà nước; cho những người
dân tộc thiểu số xuất phát từ hoàn cảnh địa lý và điều kiện học tập, sinh sống không
thuận lợi để họ có thể hịa nhập và cùng thực hiện công vụ của đất nước.
* Về điều kiện thi tuyển:
Điều 36 Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định người có đủ các điều kiện
sau đây khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo
được đăng ký dự tuyển cơng chức:
- Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam;
- Đủ 18 tuổi trở lên;
- Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;
- Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
- Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ;
- Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển.
Các điều kiện là khá phù hợp và phổ biến. Bên cạnh những quy định cũ thì
Luật Cán bộ, cơng chức 2008 cũng có quy định một số điểm mới linh hoạt và mở
rộng hơn. Cụ thể, về độ tuổi nếu trước đây độ tuổi quy đinh được phép thi tuyển
công chức là từ 18 đến 40 tuổi, có nghĩa luật xác định mức tối thiểu và tối đa về tuổi
được dự tuyển công chức thì đến nay tuổi dự thi cơng chức chỉ quy định từ 18 tuổi
trở lên. Đó là vì pháp luật về bảo hiểm xã hội của Việt Nam đã quy định cả loại
hình bảo hiểm tự nguyện, như thế sẽ tạo điều kiện cho những người đến độ tuổi
nghỉ hưu nhưng chưa đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Mặt khác đây
cũng là quy định mở rộng đối tượng dự thi công chức, tạo điều kiện cho nhiều
người hơn bao gồm cả những người lớn tuổi nhưng lại giàu kinh nghiệm công tác.
Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển sẽ do cơ quan sử dụng
công chức xây dựng trên cơ sở bản mô tả công việc gắn với chuyên ngành đào tạo,
các kỹ năng, kinh nghiệm theo yêu cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch cơng chức của
vị trí dự tuyển.



18

Đối với các Thành phố trực thuộc Trung ương, điều kiện thi tuyển công chức
cũng phải tuân thủ theo các quy định nêu trên. Tuy nhiên, tùy theo tình hình cụ thể
của từng địa phương mà các cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức quy định
linh hoạt các điều kiện bổ sung cho công tác thi tuyển công chức.
Ngồi ra, Điều 36 Luật Cán bộ cơng chức năm 2008 cũng quy định về các
trường hợp không được đăng ký dự tuyển công chức:
- Không cư trú tại Việt Nam;
- Mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành hoặc đã chấp hành
xong bản án, quyết định về hình sự của Tịa án mà chưa được xóa án tích; đang bị
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục.
1.2.3. Thẩm quyền tổ chức thi tuyển công chức trong cơ quan hành chính của
Thành phố trực thuộc Trung ương
Điều 39 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định các cơ quan có thẩm
quyền tuyển dụng cơng chức gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà
nước thực hiện tuyển dụng và phân cấp tuyển dụng công chức trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc quyền quản lý.
- Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước thực hiện tuyển dụng công
chức trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý.
- Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tuyển dụng và phân cấp
tuyển dụng công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tuyển dụng và phân cấp tuyển dụng công chức
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý.
- Cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội tuyển dụng
và phân cấp tuyển dụng công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản

lý.
Luật cũng đã bổ sung quy định các Bộ, ngành và địa phương có trách nhiệm
thực hiện việc phân cấp tuyển dụng cơng chức cho các cơ quan thuộc quyền quản
lý. Bước đầu gắn dần thẩm quyền sử dụng với thẩm quyền tuyển dụng, khắc phục
tình trạng người được giao quyền tuyển dụng không được giao quyền sử dụng;
người được giao sử dụng thì lại khơng được giao quyền tuyển dụng; qua đó nâng
cao chất lượng công tác tuyển dụng, lựa chọn được đúng người có đủ năng lực, tiêu
chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc.


19

1.2.4. Trình tự, thủ tục thi tuyển cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước
của Thành phố trực thuộc Trung ương
* Thông báo tuyển dụng và tiếp nhận hồ sơ dự tuyển:
Điều 15 Nghị định 24/2010/NĐ-CP quy định việc ban hành thông báo tuyển
dụng công chức được trao cho cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng cơng chức và
phải được thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin
điện tử của cơ quan và niêm yết công khai tại trụ sở làm việc. Thông báo tuyển
dụng phải cung cấp đầy đủ các thông tin về tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng công
chức cần tuyển, thời hạn và địa điểm tiếp nhận hồ sơ của người đăng ký dự tuyển.
Tại các Thành phố trực thuộc Trung ương, trên cơ sở nhu cầu về công chức
của các cơ quan hành chính trực thuộc, Ủy ban nhân dân Thành phố tiến hành tổng
hợp nhu cầu và ban hành thông báo tuyển dụng công chức trên phạm vi quản lý của
mình. Thơng báo này được niêm yết tại trụ sở làm việc hay trên Trang thông tin
điện tử Ủy ban nhân dân Thành phố và cơ quan có nhu cầu tuyển dụng, tạo điều
kiện cho các thí sinh có thể đến tận nơi mà mình có nhu cầu dự tuyển tham khảo và
tìm hiểu. Ví dụ: Hàng năm, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành
tổng hợp nhu cầu tuyển dụng công chức của tất cả các sở, ban, ngành; Ủy ban nhân
dân các quận, huyện thuộc Thành phố xây dựng Thông báo tuyển dụng cơng chức

trên tồn Thành phố.
Thời hạn nhận hồ sơ của người đăng ký dự tuyển ít nhất là 30 ngày, kể từ
ngày thông báo tuyển dụng công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Hiện nay, việc tiếp nhận hồ sơ dự tuyển đã được các tỉnh, Thành phố phân
cấp mạnh mẽ về cho các cơ quan trực tiếp sử dụng cơng chức và có nhu cầu tuyển
dụng. Thí sinh đến nộp hồ sơ trực tiếp tại cơ quan mình muốn dự tuyển vào làm
việc và sẽ được kiểm tra hồ sơ tại đây. Điều 2 Thông tư 13/2010/TT-BNV ngày
30/12/2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều về tuyển dụng và nâng
ngạch công chức của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Thông tư
13/2010/TT-BNV) quy định hồ sơ dự thi công chức gồm:
+ Đơn đăng ký dự thi;
+ Bản sơ yếu lý lịch tự thuật có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền trong
thời hạn 30 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ dự thi;
+ Bản sao giấy khai sinh; Bản chụp các văn bằng, chứng chỉ và kết quả học
tập theo yêu cầu của vị trí dự thi;


20

+ Giấy chứng nhận sức khỏe do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp trong thời
hạn 30 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ dự thi;
+ Giấy chứng nhận thuộc đối tượng ưu tiên trong tuyển dụng công chức (nếu
có) được cơ quan có thẩm quyền chứng thực.
Hiện nay, cơng chức thi tuyển vào các cơ quan hành chính nhà nước theo 2
hệ thống ngạch bậc là chuyên viên và cán sự. Đối với mỗi ngạch công chức khác
nhau thì hồ sơ dự tuyển lại có những u cầu khác nhau. Thông tư 11/2014/TTBNV ngày 09/10/2014 của Bộ Nội vụ quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu
chuẩn nghiệp vụ chun mơn các ngạch cơng chức hành chính đã quy định cụ thể
tiêu chuẩn của công chức ngạch chuyên viên và cán sự10.
Xét thấy việc quy định hồ sơ thi tuyển cơng chức hiện nay cịn khá đơn giản
và tập trung nhiều vào hệ thống bằng cấp, chứng chỉ, chưa đề cập và yêu cầu đến

kinh nghiệm hay kỹ năng của người dự thi. Điều này thể hiện rõ quan điểm của nhà
nước ta về tiêu chuẩn và điều kiện của mỗi ngạch bậc công chức, trước tiên để trở
thành cơng chức nhà nước thí sinh buộc phải đáp ứng các yêu cầu về bằng cấp từ
thấp đến cao tùy vào từng ngạch cơng chức, vị trí việc làm. Những bằng cấp này thể
hiện khả năng, trình độ chun mơn của thí sinh dự thi và là cơ sở để sắp xếp các thí
sinh dự thi vào từng ngạch chức danh chuyên viên hay cán sự cũng là cơ sở để xếp
lương nếu thí sinh trúng tuyển.
Ngồi ra, hiện nay nhà nước chưa quy định về thời gian tổ chức thi tuyển
cơng chức hàng năm. Do vậy, có tỉnh, Thành phố tổ chức thi vào đầu năm cũng có
tỉnh, Thành phố tổ chức thi vào cuối năm. Mặt khác, quy định hiện nay chỉ tổ chức
thi tuyển đối với ngạch cán sự và ngạch chuyên viên, chưa quy định thi tuyển dụng
mới đối với ngạch cao hơn và một số vị trí lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành
chính nhà nước, dẫn đến phạm vi cạnh tranh thi để được bổ nhiệm ngạch chuyên
viên chính, chuyên viên cao cấp hoặc vị trí lãnh đạo, quản lý có phạm vi hẹp trong
số công chức nhà nước (cạnh tranh trong nội bộ cơng chức nhà nước), chưa có cơ
hội cho tuyển mới cơng chức vào ngạch chun viên chính, chuyên viên cao cấp, vị
trí lãnh đạo, quản lý. Điều đó phần nào đã hạn chế việc thu hút người giỏi, có kinh
nghiệm vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.

10

Điều 7, Điều 8 Thơng tư 11/2014/TT-BNV ngày 09/10/2014 của Bộ Nội vụ về quy định chức danh, mã số
ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch cơng chức hành chính


×