Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Biện chứng của sự phát triển xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.09 KB, 52 trang )

CÂU HỎI
Câu 1: Biện chứng của sự phát triễn xã hội trong thời đại ngày nay.
Câu 2: Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta
Câu 3: Cách mạng khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay.
1. Làm rõ những cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới mà
nhân loại đã trải qua?
2. Kinh tế tri thức là gì? Đặc trưng của kinh tế tri thức?
3. Phát triển khoa hoc công nghệ hiện đại ở Việt nam hiện nay?
4. Tác động của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
Câu 4: Mối quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại ngày nay.
Câu 5: Trình bày quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc ở nước ta?.
1
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
- KHCN: Khoa học công nghệ
- CNH- HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- TBCN: Tư bản chủ nghĩa
2
Câu 1: Biện chứng của sự phát triễn xã hội trong thời đại ngày nay
Biện chứng của sự phát triển xã hội được thể hiện tập trung và xuyên suốt
qua biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng, của tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ biện
chứng này được biểu hiện cụ thể trong đời sống xã hội đó là các mâu thuẫn cơ
bản trong ba lĩnh vực chính:
a. Trong kinh tế
- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và các vấn đề môi trường:
+ Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ
xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân
và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối


quan hệ chặt chẽ với nhau: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển,
còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
+ Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh
có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo
đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác,
môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội
thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động
phát triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội
trong khu vực.
+ Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, có nhiều quốc gia đã khai thác
tài nguyên thiên nhiên một các quá mức, thậm chí là tiêu dùng trước các nguồn
tài nguyên lẽ ra phải để dành cho tương lai. Hơn nữa việc khai thác nay không đi
đôi với việc chú ý đúng mức đến các vấn đề môi trường phát sinh. Việc đó dẫn
tới cạn kiệt tài nguyên hoặc ô nhiễm môi trường.
+ Ngược lại môi trường một mặt cung cấp nguyên - nhiên liệu cho việc
phát triển kinh tế; mặt khác khi môi trường bị ô nhiễm sẽ tác động ngược lại,
3
làm hạn chế và gây nguy hại không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối
với cuộc sống của con người.
Như vậy chính mâu thuẫn giữa hai vấn đề này đặt ra cho các nhà chính
sách phải có sự cân đối và chú ý đúng mức tới cả hai lĩnh vực, tạo động lực cho
phát triển kinh tế và bảo vệ được sự phát triển bền vững của môi trường.
- Mâu thuẫn của sự phát triển kinh tế giữa các nước đang phát triển và
các nước phát triển; chênh lệch trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng trong
một quốc gia; đặc biệt là sự phân hóa giàu nghèo.
b. Trong lĩnh vực chính trị
Trong lĩnh vực chính trị diễn ra mâu thuẫn cơ bản nhất là khuynh hướng
đi theo chủ nghĩa xã hội (CNXH) và đi theo chủ nghĩa tư bản (CNTB).
- CNXH là tất yếu khách quan của sự phát triển nhân loại, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người chỉ có thể tác động tích

cực đến quá trình đó khi đã xác lập được sự tự ý thức về mục tiêu cần phấn đấu
đạt tới. Từ khi có những phát hiện thiên tài của C.Mác, Ph.Ăng ghen ra đời đến
nay, lịch sử loài người đã trải qua rất nhiều thăng trầm, tư tưởng XHCN nhiều
lần phải đứng trước thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Sự sụp đổ của
mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau đớn, sát thực
nhất đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ nhận thức, hành
động không phù hợp với các quy luật khách quan, không nhìn nhận tư tưởng lý
luận của CNXH là một hệ thống mở và năng động không chú trọng phát hiện
đánh giá, tổng kết có tính lý luận đối với sự vận động của thực tiễn, các Đảng
cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu đã làm tiêu tan sự nghiệp mà phải mất bao
nhiêu công sức, trí tuệ và cả xương máu mới có được.
- Xét về lịch sử, không phải tới hôm nay, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận
giữa CNTB và CNXH mới diễn ra, mà từ hàng trăm năm trước, ngay từ khi tư
tưởng lý luận của CNXH ra đời, nó đã lập tức phải đương đầu với sự phê phán,
phủ nhận, bôi nhọ, xuyên tạc dưới nhiều hình thức khác nhau. Bất chấp mọi trở
ngại, tính chất cách mạng và khách quan khoa học trong tư tưởng lý luận cùng
4
với lý tưởng cao cả mà CNXH hướng tới đã thu hút, lan tỏa khắp năm châu, trở
thành động lực tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong
cuộc đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ, cho một cuộc sống ngày
càng tốt đẹp. Điều này trở thành mối đe dọa đối với sự tồn vong của tư tưởng và
xã hội tư sản. Người ta chống lại CNXH với vô vàn thủ đoạn, từ chủ động gây
chiến tranh tới xuyên tạc, vu cáo, thậm chí là "gán" trách nhiệm cho những
người cộng sản về một số sự kiện xảy ra trên thế giới, ở một số quốc gia,
- Cũng xét về lịch sử, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận giữa CNTB và
CNXH đã có nhiều biến động ở những thời kỳ khác nhau. Nếu trước Cách mạng
Tháng Mười các vấn đề trừu tượng trong hệ thống triết học của C.Mác,
Ph.Ăngghen và của chủ nghĩa duy vật lịch sử là trọng điểm của cuộc đấu tranh,
thì sau Cách mạng Tháng Mười, các nội dung này lại gắn với những vấn đề của
thực tiễn cách mạng, CNXH hiện thực, với các vấn đề lý luận liên quan tới sứ

mệnh, vai trò của giai cấp công nhân, của các Đảng cộng sản
- Trong cuộc đấu tranh đó, một mặt, các lý luận gia Tư sản tiếp tục xuyên
tạc nhằm tấn công vào tư tưởng lý luận của CNXH, lợi dụng triệt để các hạn chế
và sai lầm ở Liên bang Xô viết, sau này là hệ thống các nước XHCN, lấy đó làm
bằng chứng chứng minh "tính không tưởng của CNXH", xuyên tạc bản chất
nhân văn trong tư tưởng lý luận của CNXH, bóp méo hoặc hạ thấp các thành tựu
đạt được ở Liên Xô và các nước XHCN
Mặt khác, các lý luận gia Tư sản ra sức tâng bốc, tô vẽ các chỉ số
kinh tế xã hội mà CNTB có được sau khi cố gắng tự điều chỉnh và tận dụng
thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ. Trong đó đặc biệt là CNTB đã
điều chỉnh cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: Sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản
lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
Đặc biệt, khác với giai đoạn trước, các thủ đoạn đó được thực hiện thông
qua một khối lượng hàng hóa tiêu dùng khổng lồ và hệ thống truyền thông
khống chế trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận một thực
tế là hàng hóa và phương tiện truyền thông đã phát huy lợi thế của chúng khi tác
5
động tới một bộ phận lớn nhân loại gây nên các diễn biến trong đời sống tinh
thần của xã hội dẫn dắt nhiều người đi từ hoang mang đến hồ nghi, suy giảm
niềm tin vào tư tưởng lý luận của CNXH.
- Từ những năm 90 của thế kỷ trước, Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu không còn tồn tại trên bản đồ chính trị thế giới, đó là một tổn thất to lớn,
đồng thời là bài học xương máu cho phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế
trên con đường gian khổ đi tới xây dựng xã hội mới. Sự kiện này nhanh chóng bị
các tác giả của CNTB lợi dụng. Họ cố tình xuyên tạc; tảng lờ những thủ đoạn
thâm độc kéo dài suốt nhiều năm, tiến công bằng mọi phương tiện để làm tan rã
xã hội Liên Xô và các nước Đông Âu. Họ cố tình đánh tráo khái niệm, biến sự
sụp đổ của một mô hình thành sự sụp đổ của CNXH.
- Bối cảnh thế giới ngày nay cùng các biến số chính trị, kinh tế đặc thù
của nó làm cho cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB tiếp tục diễn biến phức

tạp. CNXH là xu thế tất yếu của thời đại, nhưng xu thế ấy chỉ có thể trở thành
hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết,
tập trung trí tuệ để tiếp tục kế thừa sáng tạo và không ngừng phát triển tư tưởng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa biến tư tưởng lý luận đó thành lực lượng
vật chất để xây dựng và bảo vệ xã hội mới, vừa sử dụng tư tưởng lý luận đó như
công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại những sai trái của giai cấp giai
cấp tư sản, phù hợp với bối cảnh chung của thế giới.
c. Về văn hóa – xã hội
- Có mâu thuẫn tiêu biểu là mâu thuẫn biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại. Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của xã
hội, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa -
nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại không bao giờ
tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà luôn ở trong thế vận động, liên hệ tác
động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, làm thành diện mạo
văn hóa của dân tộc. Nếu không nhận dạng và giải quyết tốt sự thống nhất biện
6
chứng giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa, chúng ta không thể phát huy
đầy đủ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
- Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm,
những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất
định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Còn hiện đại được hiểu là những gì “thuộc thời đại
ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”.
- Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo ra những giá trị mới, có phẩm chất
tốt hơn của cái quá khứ. Truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn
hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau; đó là sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Về sự thống nhất giữa
truyền thống và hiện đại của văn hóa: Truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện
đại và hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống.
- Đồng thời, giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa

lại có sự mâu thuẫn, trong đó cái truyền thống do tính ổn định, tính bảo thủ cản
trở sự phát triển của cái hiện đại và ngược lại có những cái hiện đại không phù
hợp, mâu thuẫn, xung đột với cái truyền thống.
Mâu thuẫn “truyền thống và hiện đại” phát sinh, một khi tính chính thống
đưa đến bảo thủ. Ngược lại, nếu hiện đại không đưa ra được một nội dung có ý
nghĩa cho cuộc sống văn hóa hiện tiền, nếu hiện đại làm nghèo nội dung nhân
bản của con người, hiện đại sẽ bị đào thải và loại bỏ ra ngoài tính liên tục, không
thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.
7
Câu 2: Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta
Để nhận thức được một mâu thuẫn nào đó, trước hết phải hiểu thực chất
của nó, sau đó phải hiểu được sự vật mà ta cần xem xét và xác định mâu thuẫn
(các nhân tố tạo thành và mối quan hệ của các nhân tố ấy).
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện
tượng, quá trình và nó có tác động quyết định đối với tất cả các mâu thuẫn khác,
tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, mâu thuẫn cơ bản chỉ hình thành khi sự vật hình thành và nó sẽ
mất đi khi sự vật mất đi. Vì thế, muốn tìm mâu thuẫn cơ bản phải xem sự vật
hình thành từ khi nào và những nhân tố chính tạo nên sự vật ấy.
Khi chúng ta nói tới thời kỳ quá độ là chúng ta nói đến giai đoạn lịch sử
giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã nắm chính quyền, đưa đất nước đi
lên CNXH, nhưng cơ sở kinh tế XHCN lại chưa có đang hình thành chưa giữ
được địa vị thống trị trong xã hội. Lê-nin cho rằng, thời kỳ này không thể không
bao hàm trong nó những nét, những đặc tính đan xen của thành phần kinh tế
XHCN và thành phần kinh tế TBCN. Đó là thời kỳ đấu tranh của CNTB và chủ
nghĩa cộng sản đang nảy sinh.
Như vậy, mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là
mâu thuẫn giữa hai phương thức sản xuất cũ và mới, giữa hai chế độ xã hội
đối lập. Mâu thuẫn này không đơn giản là mâu thuẫn giữa Tư sản và vô sản,
mà như Lênin nói, không phải là nhà nước đấu tranh với CNXH mà là giai

cấp tiểu tư sản cộng với CNTB tư nhân cùng nhau, đồng thời chống lại cả
CNTB nhà nước, cả CNXH.
Câu 3: Cách mạng khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay
8
1. Làm rõ những cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới
mà nhân loại đã trải qua từ trước đến nay?
Có thể khái quát cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà nhân loại đã trải
qua như sau:
a. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất: Vào cuối thế kỉ XVIII với
máy hơi nước làm đại diện.
Diễn ra đầu tiên ở Anh sau đó lan sang các nước Tây Âu, là sự quá độ từ
nền sản xuất thủ công lên sản xuất cơ khí với việc sử dụng máy hơi nước làm
máy động lực, sử dụng than đá thay thế các công nghệ thủ công dùng than đá,
sức kéo động vật làm cho nền kinh tế phát triển nhảy vọt.
b. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai: Cuối thế kỉ XIX với điện lực
và động cơ đốt trong làm đại diện.
Cuộc cách mạng này được thực hiện khi mà hệ thống công nghiệp dựa
trên nguồn nhiên liệu than đá và hơi nước đã bộc lộ giới hạn được thay thế bằng
động cơ đốt trong. Dùng xăng dầu làm nhiên liệu (1862), dùng điện (1869), dầu
lửa (1870),…tạo thành một nền công nghiệp dựa trên các nguyên tắc điện- cơ
khí. Biến lực lượng sản xuất thành nền sản xuất cơ khí đại trà và tự động hóa
cục bộ tạo ra hàng loạt ngành nghề mới.
c. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba:
Diễn ra sau chiến tranh thế giới thứ hai với việc ứng dụng năng lượng mới vi
điện tử, nguyên liệu tổng hợp nhân tạo, kĩ thuật, di truyền, kĩ thuật không gian,
laze, thông tin cáp quang, trong đó kĩ thuật điện tử và xử lí thông tin là trọng tâm,
thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất đẩy nhanh tốc độ xã hội
hóa- toàn cầu hóa và thay đổi đời sống kinh tế xã hội, ý thức xã hội.
2. Kinh tế tri thức là gì? đặc trưng của nề kinh tế tri thức?
a. Khái niệm

9
- Theo định nghĩa WBI, kinh tế tri thức là: nền kinh tế dựa vào tri thức
như động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Có người cho rằng: Kinh tế tri thức
là hình thức phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa, trong đó có
công thức tiền- hàng- tiền được thay thế bằng tiền- tri thức- tiền và vai trò quyết
định của tri thức.
- Theo tổ chức OPDC: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của
nền kinh tế hiện đai, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả
năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các
nghành kinh tế: Công- nông- dịch vụ.
b. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
- Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ
mới trở thành chìa khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu nhanh.
- Ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh
vực; mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp, kết nối hầu hết các tổ chức, gia
đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội
đều có tác động của công nghệ thông tin.
- Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên
tiến nhất tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai.
- Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho khoa học chiếm tỉ lệ cao.
Đầu tư vô hình cao hơn đầu tư hữu hình. Phát triển con người trở thành trọng tâm
10
- Tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức. Là nguồn lực
hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông tin được tăng lên khi sử dụng và

không bị mất đi.
- Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận. Đổi mới thường
xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời
công nghệ rút ngắn, có khi chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp
muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
- Dân chủ hóa, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ. Mọi người đều dễ dàng
truy cập thông tin mình cần. Điều này dẫn đến dân chủ hóa các hoạt động và tổ
chức điều hành xã hội. Người dân nào cũng được có thông tin kịp thời về các chính
sách của Đảng và nhà nước.
- Các doanh nghiệp vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển.
- Nền kinh tế toàn cầu hóa. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu.
- Sự thách thức văn hóa. Trong nền kinh tế tri thức xã hội thông tin, văn hóa
có điều kiện phát triển nhanh và văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hóa nâng cao, nội dung và hình
thức các hoạt động văn hóa phong phú đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người
dân cũng tăng cao, giao lưu văn hóa thuận lợi, tạo điều kiện cho nền văn hóa dễ
giao thoa, tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển.
Do vậy, một quốc gia muốn chuyển sang nền kinh tế tri thức cần hình thành
bốn trụ cột quan trọng:
- Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri
thức, một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của các tri
thức hỗ trợ thông tin và truyền thông, khuyến khích làm chủ doanh nghiệp như
trọng tâm của kinh tế tri thức.
- Xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để nâng cao năng
lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao
- Hạ tầng cơ sở thông tin hiện đại giúp dễ dàng liên lạc và xử lý thông tin.
- Hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu,
đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là
11
cần thiết để thu nhận kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và

thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần
thiết.
Cho nên, để xây dựng nền kinh tế tri thức, Việt nam cần thực hiện đồng bộ
một số giải pháp sau:
- Phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lí mới cho
phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế chính
sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, nhất
là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng chống độc quyền.
- Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài,
tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải tạo giáo dục. Tăng nhanh đội ngũ cán bộ
khoa học kĩ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lí, doanh nhân. Đầu
tư nhiều cho giáo dục, mỗi cá nhân phải thực sự cố gắng trong học tập, tích lũy tri
thức và phẩm chất đạo đức,….
- Tập trung tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể
tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất
của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ
đặc thù của Đất nước, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
- Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ cho CNH-
HĐH. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào nền kinh tế tri thức. Muốn rút
ngắn quá trình CNH- HĐH, rút ngắn khoảng cách với các nước phải khắc phục
khoảng cách về công nghệ thông tin.
3. Phát triển khoa học công nghệ hiện đại ở Việt nam hiện nay
a. Thực trạng và giải pháp:
- Thực trạng:
+ Việt Nam hiện nay có hơn 2 triệu công nhân kĩ thuật và hơn 2 triệu cán
bộ có trình độ Đại học- Cao đẳng phát triển. Hơn 14 nghìn Tiến sĩ và hơn 16
nghìn Thạc sĩ. Đầu tư nguồn vốn cung cấp chủ yếu từ khoản ngân sách nhà nước
12
còn doanh nghiệp thì rất ít (5.8940 tỉ đồng/năm), đạt 2% ngân sách nhà nước

chiếm 60% tổng dư xã hội, 8% doanh ngiệp có công nghệ tiên tiến. Rất nhiều
năm qua, xí nghiệp nông nghiệp lạc hậu và hao mòn lưu hình từ 20 đến 30%.
+ Tốc độ áp dụng khoa học công nghệ (KHCN) cả nước có khoảng 10%,
trong ba vùng trọng điểm có 12%; Trong công nghiệp tự động hóa 1,9%, trong
công nghiệp bán tự động hóa 19%. Như vậy công nghệ chưa được áp dụng nhiều.
+ Đảng ta rất chú trọng phát triển KHCN. Điều này được thể hiện rõ trong
các văn kiện Đại hội, đặc biệt trong các Đại hội IX, XX,XI khẳng định KHCN là
động lực là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế- xã hội, là điều
kiện cần thiết giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
+ KHCN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của các cấp các
ngành, là nhân tố chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế và củng cố
quốc phòng an ninh
+ Sự nghiệp phát triển KHCN là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân
ta. Cần phát huy nhân tố nội sinh với tiếp thu văn minh của thế giới. Đảng cho
rằng phát triển KHCN phải gắn liền với việc bảo vệ và cải thiện phát triển môi
trường sinh thái, phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
- Giải pháp:
+ Tạo động lực cho sự phát triển của KHCN, khuyến khích và tạo lập thị
trường phát triển KHCN.
+ Khuyến khích doanh nghiệp và có cơ chế tổng hợp để các doanh nghiệp
tìm đến KHCN để đặt hàng. Khuyến khích việc cổ vũ phát minh, sáng chế, ứng
dụng KHCN đảm bảo thu nhập trả công xứng đáng với lao động chất xám.
+ Tạo vốn cho hoạt động KHCN.
+ Mở rộng và phát triển hợp tác quốc tế
13
+ Phát triển nguồn nhân lực KHCN.
+ Đổi mới hoàn thiện thể chế, hệ thống tổ chức quản lí hoạt động KHCN.
b. Một số định hướng phát triển KHCN ở Việt nam hiện nay ( Trích
theo Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Phát triển khoa học công
nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững”.
- Hướng trọng tâm hoạt động KHCN vào phục vụ CNH- HĐH, phát triển
theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: Nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế
quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KHCN, tăng cường hội nhập quốc tế về KHCN.
- Tăng nhanh năng lực KHCN có trọng tâm, trọng điểm phát triển đồng bộ
và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Nhà nước tập trung đầu
tư cho các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia, các giải pháp KHCN cho các sản phẩm
chủ lực, mũi nhọn, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực xã hội,
nhất là của các doanh nghiệp cho phát triển KHCN. Gắn với các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế- xã hội ở từng cấp, ngành, địa phương và cơ sở.
- Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động
KHCN. Phát huy vai trò, hiệu quả của các tổ chức KHCN chủ lực trong việc
thực hiện các nhiệm vụ KHCN trọng điểm. Phát triển mạnh thị trường KHCN.
- Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển
khai các nhiệm vụ KHCN theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu
chuẩn hàng đầu, chuyển các đơn vị KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Phát triển các doanh nghiệp KHCN, các quỹ đổi mới công nhệ và quỹ
đầu tư mạo hiểm. Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi
ngộ xứng đáng nhân tài KHCN.
14
- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt
động nghiên cứu và sáng tạo trí thức vì sự phát triển của đất nước.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai và ứng dụng công nghệ hợp lý, đồng
bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
- Khoa học xã hội làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

- Hướng vào nghiên cứu, ứng dụng KHCN gắn với yêu cầu phát triển của
từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm gắn với đào tạo và sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, có
chính sách khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất,
trước hết là đối với những ngành, những lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn.
- Ưu tiên phát triển công nghệ cao, ứng dụng nhanh KHCN vào các lĩnh
vực công nghiệp và nông nghiệp.
- Nhanh chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu ứng dụng để tiếp thu, cải
tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phát huy hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Có chính
sách khuyến khích, bổ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong
việc đổi mới và áp dụng công nghệ, làm chủ các công nghệ then chốt, mũi nhọn
và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, trong đó ưu
tiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quan tâm đúng mức đến việc nghiên cứu cơ bản, có trọng điểm theo yêu
cầu phát triển của đất nước.
- Chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực KHCN làm nền tảng cho phát
triển kinh tế tri thức như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
15
vật liệu mới, công nghệ môi trường Tập trung phát triển sản phẩm công nghệ
cao, có giá trị lớn trong một số ngành, một số lĩnh vực.
- Hình thành hệ thống đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động KHCN. Thực
hiện nghiêm túc các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, tập trung phát triển và
khai thác tài sản trí tuệ. Mở rộng và nâng cao hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt
chuẩn mực quốc tế.
16
Câu 4: Những tác động của KHCN đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
CNH- HĐH chính là việc áp dụng những thành tựu KHCN để đổi mới về
căn bản và nâng cao toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã hội, từ kinh tế đến
chính trị, văn hoá,… Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương

khoá VIII của Đảng đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải
bằng và dựa vào khoa học và công nghệ”, “khoa học công nghệ phải trở thành
nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Thông qua CNH – HĐH, tiến bộ KHCN tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến
sự phát triển kinh tế, xã hội. Sự tác động này mang tính 2 mặt.
1. Tác động tích cực:
Thứ nhất: Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tiến bộ KHCN tạo
điều kiện cho việc mở rộng sản xuất và tăng năng suất lao động.
Năng suất lao động ở Mỹ chẳng hạn, đã tăng trung bình 0,17%/năm từ năm
1996 đến năm 2000, với số tiền tiết kiệm trong thời gian này là 72,8 tỷ USD. Dự
kiến năng suất lao động sẽ tăng trung bình 0,43%/năm từ năm 2001 đến 2010 với
tổng giá trị tiết kiệm là 452,5 tỷ USD. Với tác động trên, KHCN đã chứng minh
vai trò quyết định của mình trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Từ đó
dẫn tới sự phát triển kinh tế, gia tăng thu nhập của xã hội và con người. Theo
Ngân hàng thế giới, tiến trình toàn cầu hoá với các nước đang phát triển giữ vai
trò trung tâm sẽ giúp thu nhập thế giới trong 25 năm tới tăng nhanh hơn so với
giai đoạn 1980 – 2005, đưa tổng giá trị GDP toàn cầu tăng từ 35.000 tỉ USD năm
2005 lên 72.000 tỉ USD vào năm 2030.
Đồng thời, tác động tới đạo đức: Sự phát triển kinh tế và khoa học - công
nghệ vừa làm cho các lĩnh vực sản xuất, các lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp gia
tăng và mở rộng, vừa tạo điều kiện cho con người tham gia sâu rộng vào các hoạt
động, các quan hệ xã hội. Tất cả những điều đó tác động thuận lợi đến sự phát
triển đạo đức. Tác động này thể hiện cả trên bình diện xã hội, cả trên bình diện cá
nhân.
- Trên bình diện xã hội: Dưới tác động của tiến bộ KHCN, cùng với sự mở
rộng phạm vi của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội, phạm vi điều chỉnh lợi
17
ích và do đó, phạm vi điều chỉnh của đạo đức được mở rộng. Sự mở rộng phạm vi
điều chỉnh của đạo đức chính là một trong những biểu hiện của tiến bộ đạo đức.
- Trên bình diện cá nhân: Do có nhiều điều kiện hơn và được tham gia

nhiều hơn vào các hoạt động, các quan hệ xã hội, nhân cách nói chung và nhân
cách đạo đức của con người nói riêng có thêm điều kiện để phát triển. Hơn thế,
đạo đức giờ đây được thể hiện ra trong tính tích cực xã hội của con người, thay
vì thứ đạo đức trong xã hội truyền thống mang nặng tính thụ động bởi con người
không có nhiều cơ hội gia nhập vào các quan hệ, các hoạt động xã hội.
Thứ hai: KHCN làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất, bao gồm từ
việc tổ chức sản xuất đến huy động nguồn lực.
- Việc tổ chức sản xuất đã được hỗ trợ một cách đắc lực bởi công nghệ
truyền thông và thông tin như hệ thống quản lý dữ liệu trên mạng nội bộ, thư điện
tử… Với các công cụ này, một Chính phủ điện tử có thể thực hiện hoạt động quản
lý điều hành quốc gia hiệu quả hơn; hoặc các nhà quản lý doanh nghiệp có thể
giám sát được hoạt động sản xuất và kinh doanh không chỉ của một văn phòng,
xưởng máy, nhà máy mà còn của cả các chi nhánh của công ty trên quy mô một
quốc gia hoặc toàn cầu, gần như tức thì, để có thể có những quyết sách kịp thời.
Khả năng này cho phép các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng hoạt động của
mình trên thế giới. Quan trọng hơn cả, nhà quản lý có thể bỏ được nhiều khâu trung
gian trong điều hành sản xuất, mà vẫn mở rộng được quy mô sản xuất. Theo thống
kê của Hal Varian, Robert E.Litan, Anderw Elder và Jay Shuter tại một nghiên cứu
khảo sát năm 2002 mang tên “Nghiên cứu về tác động của mạng” đối với lợi ích
kinh tế của các ngành công nghiệp tại Mỹ, Anh, Pháp và Đức thì tính từ năm 1998
đến thời điểm kết thúc cuộc điều tra, các tổ chức, công ty của 4 nước trên đã tiết
kiệm được 163,5 tỷ USD thông qua ứng dụng mạng Internet vào hoạt động. Như
vậy, đầu ra của hàm sản xuất đã tăng thực tế thông qua khoản tiết kiệm này.
- Việc quản lý các vấn đề toàn cầu khác cũng có những bước chuyển
mạnh mẽ với các ứng dụng của công nghệ truyền thông và thông tin. Một mặt,
chức năng và vai trò của Nhà nước có những thay đổi so với vai trò truyền
thống. Một mặt, “Chính phủ điện tử” trong một “nền kinh tế điện tử”, theo cách
18
gọi của một số học giả, sẽ chuyển từ vai trò lãnh đạo và điều phối. Mặt khác,
thông tin được phổ biến nhanh chóng và rộng rãi hơn đã làm quá trình hoạch

định và quyết sách có sự tham gia tích cực hơn của các nhóm lợi ích khác nhau
như các nhóm lợi ích về kinh tế, về môi trường, xã hội… Hệ quả là, thông qua
các phương tiện truyền thống, thông tin, các nhóm lợi ích của từng quốc gia liên
kết với nhau và kết nối một cách hiệu quả với các nhóm tương đồng ở các quốc
gia khác và tạo nên một mạng lưới toàn cầu trong việc tham gia vào quá trình
quản lý, hoạch định và quyết sách toàn cầu. Tác động của các nhóm lợi ích, của
các tổ chức phi Chính phủ đến tiến trình đàm phán các hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới là một ví dụ điển hình về vai trò của các nhóm lợi ích trong
quản lý các vấn đề toàn. Nói một cách tổng quát hơn, vai trò của các Chính phủ
quốc gia sẽ bị tác động nhiều hơn dưới tác động của công nghệ truyền thông và
thông tin trong giai đoạn toàn cầu hóa.
Thứ ba: Việc khuyến khích tiêu thụ tạo động lực cho sản xuất phát triển
Trong điều kiện kinh tế thị trường, những thành tựu KHCN chính là tác
nhân trực tiếp và quyết định nhất rút ngắn chu trình và mở rộng đầu tư sản xuất.
Nhưng để rút ngắn chu trình và mở rộng sản xuất thì phải khuyến khích tiêu thụ.
Trong điều kiện của xã hội hiện đại, khuyến khích tiêu thụ (kích cầu) chính là
một trong những động lực trực tiếp để phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm,
nâng cao thu nhập xã hội. Hơn thế, trên bình diện cá nhân, kích cầu nghĩa là
khuyến khích tiêu dùng cho phát triển thể chất cũng như phát triển tinh thần tạo
ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mở rộng và phát triển sản xuất trong điều
kiện hiện đại.
Thứ tư: Dưới tác động của KHCN, nhịp độ CNH, đô thị hóa ngày một gia tăng.
Nhịp độ này được thể hiện rõ nét nhất ở mức độ gia tăng tỷ lệ dân số đô
thị. Nếu như, vào những năm đầu thế kỷ XX, tỷ lệ dân số đô thị ở Nhật Bản
khoảng 20%, ở châu Âu khoảng 30% thì đến nay, tỷ lệ này đã lên tới trên 90%,
thậm chí ở Bắc Âu lên tới trên 95%. Hiện nay, diện tích các thành phố trên thế
19
giới chỉ chiếm 0,3%, nhưng dân số từ năm 1960 đến năm 2000 đã tăng gấp 3
lần, đạt 3,2 tỷ người tức là 1/2 dân số thế giới.
Sự gia tăng dân số đô thị là kết quả của sự phát triển kinh tế, KHCN. Sản

xuất công nghiệp lôi cuốn lao động nông thôn vào các khu công nghiệp, đô thị;
các khu công nghiệp, đô thị được mở rộng hoặc xây dựng mới nhằm đáp ứng
nhu cầu của phát triển sản xuất, của công nghiệp hoá.
Thứ năm: KHCN với các thành tựu của nó, như truyền thông, đặc biệt là
viễn thông có tác dụng lớn trong việc cung cấp thông tin, truyền thông đại chúng
qua các phương tiện như tivi, máy tính, điện thoại…góp phần cho sự tiến bộ và
phát triển xã hội. Đặc biệt là công nghệ thông tin, là công cụ đắc lực để huy
động các nguồn lực sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Công nghệ thông tin,
với hệ thống internet, thư điện tử, fax… là những công cụ lý tưởng để truyền đạt
ý tưởng, tri thức, và kinh nghiệm… nhanh và rộng khắp… Thực tế, “Cách mạng
công nghệ trong lĩnh vực giao thông và truyền thông đã xáo dần đi những rào
cản về không gian và thời gian”. Với công nghệ thông tin, việc quản lý các
luồng vốn cũng trở nên hiệu quả hơn. Các khoản vốn lớn được lưu động và chu
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với sự trợ giúp của thị trường chứng
khoán toàn cầu và các ngân hàng điện tử là yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư.
Hơn thế, công nghệ thông tin còn giúp huy động và di chuyển lực lượng lao
động trên quy mô toàn cầu. Trên thực tế, một lao động đang sống ở quốc gia này
có thể vẫn được huy động để được sử dụng sức lao động của mình dưới hình
thức chất xám, thông qua mạng internet.
Thứ sáu: Nói đến tiến bộ KHCN trong điều kiện hiện nay không thể
không kể đến những thành tựu trong lĩnh vực sinh học, sinh học người, y học,…
Nhân bản vô tính, biến đổi gien, sinh sản nhân tạo, cấy ghép các cơ quan, các
phủ tạng người,… Mỗi thành tựu như vậy đều mở ra những triển vọng lớn đối
với sản xuất và bảo vệ sức khoẻ con người.
Ngoài ra, KHCN còn có những tác động tích cực khác tới sự phát triển
kinh tế- xã hội như:
20
- KHCN còn là công cụ đắc lực trong thương mại quốc tế và đã mở ra một
phương thức giao dịch và thanh toán chưa từng có trong lịch sử kinh tế thế giới.
Thương mại điện tử bùng nổ với 2 tỷ USD năm 1996, 100 tỷ USD năm

1999, và ước tính khoảng 3.000 tỷ USD năm 2003. Với châu Âu, dự kiến
thương mại điện tử sẽ tăng khoảng 100%/năm và đạt mức 1.500 tỷ USD vào
năm 2004. Song song với thương mại điện tử, những tiến bộ trong ngành giao
thông vận tải cũng góp phần làm giảm chi phí vận chuyển và là yếu tố đáng kể
trong đẩy mạnh thông thương toàn cầu.
- KHCN cũng đã làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế toàn cầu.
Với cuộc cách mạng công nghiệp, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dần
chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng
của ngành dịch vụ trong GDP thế giới càng tăng mạnh trong những năm cuối
của thiên nhiên kỷ thứ hai với sự xuất hiện của ngành công nghiệp điện toán.
Hàng loạt các sản phẩm liên quan tới công nghệ thông tin ra đời như các phần
cứng, phần mềm của máy tính, phụ kiện… đã tạo cơ hội cho nhiều nước đang
phát triển tận dụng nguồn lực của mình. Báo cáo mang tên “Đối tác và kết nối
trong phát triển khoa học và công nghệ” của Liên hợp quốc (UNCTAD) năm
2002 cho thấy: “Một số lượng đáng kể các hãng ở các nước đang phát triển đã
có thể tham gia vào các công đoạn khác nhau của thị trường công nghệ thông
tin quốc tế nhờ vào những cơ hội toàn cầu về sản xuất sản phẩm công nghệ
thông tin (cả phần cứng và phần mềm) đang được tạo ra bởi những tiến bộ công
nghệ”. Như vậy, tự thân khoa học và công nghệ đã tạo nhu cầu cho tăng trưởng
các nền kinh tế ở những mức độ khác nhau trên thế giới. Mức đầu tư cho nghiên
cứu và triển khai (R&D) của các nước phát triển chiếm 2-3% GDP; trong khi
đó, chỉ một số ít nước đang phát triển dành được 0,5% GDP cho lĩnh vực này.
Tương ứng với mức đầu tư trên, Mỹ đứng đầu danh sách xuất khẩu sản phẩm
công nghệ cao với 41.859 triệu USD năm 1985. Con số này đạt 170.513 triệu
USD năm 1998.
21
2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tích cực to lớn mà KHCN mang lại, cũng không tránh
khỏi những hạn chế gây tác động tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội, tiêu
biểu là:

Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã cảnh báo về tính hai mặt hay nghịch lý của
việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Ông viết: “Chúng ta thấy rằng, máy
móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm lao động của con người và làm
cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng
kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa đến nay chưa ai
biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc
của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng
cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh phục
được tự nhiên nhiều hơn thì con người lại càng trở thành nô lệ của những người
khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình”.
Nghịch lý đó dường như càng thể hiện rõ rệt hơn trong điều kiện CNH-
HĐH. Năm 1988, Fedérico Mayor cũng nhận xét: “Chưa bao giờ như ngày nay,
sự căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực
điểm đã trở thành mối đe dọa toàn thế giới).
Thứ nhất: Cùng với tiến bộ KHCN là sự phân cực giàu nghèo ngày một
sâu sắc.
Tiến bộ KHCN trong điều kiện kinh tế thị trường lại đẩy mạnh quá trình
cạnh tranh kinh tế. Những người đi tiên phong trong việc đổi mới công nghệ sẽ
thu được nhiều lợi nhuận, lợi nhuận siêu ngạch so với những người khác. Vì vậy
mà mặc dù, tổng thu nhập xã hội tăng lên nhanh chóng, nhưng phân phối lại
không đồng đều dẫn đến phân cực giàu – nghèo diễn ra gay gắt.
Ví dụ như ngày nay, khi một nhóm nhỏ giới chủ các công ty tư bản độc
quyền xuyên quốc gia giàu lên nhanh chóng, thì hơn 1 tỷ người lao động trên
toàn thế giới, bao gồm cả hàng trăm triệu người ở các nước tư bản phát triển
22
nhất, lại rơi vào cảnh đói nghèo, bệnh tật, thất học và bị gạt ra ngoài lề của sự
phát triển. Theo Báo cáo về phát triển con người năm 1999 của UNDP, mức
chênh lệch về thu nhập giữa 20% dân số thế giới sống ở các nước giàu nhất và
20% dân số thế giới sống ở các nước nghèo nhất đã tăng từ 30/1 năm 1960 lên
74/1 năm 1997(5). Theo Ngân hàng thế giới, năm 2006, tổng số người nghèo ở

châu á là 1,9 tỷ, trong khi đó, tổng số người giàu (1triệu USD trở lên) chỉ là 9,5
triệu. Hơn thế, đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ vào các nước đang
phát triển đã gạt ra ngoài lề nền sản xuất xã hội hàng loạt người lao động trong
các ngành nghề truyền thống. Điều đó vừa làm gia tăng thất nghiệp và bất bình
đẳng tại các quốc gia đang phát triển, vừa làm gia tăng bất bình đẳng giữa các
quốc gia phát triển với các quốc gia đang phát triển. Đối lập quá mức giữa giàu
nghèo, bất bình đẳng, thất nghiệp,… đó chính là điều kiện kinh tế, xã hội dẫn tới
sự thù hận, bạo lực, các tệ nạn xã hội, nghĩa là dẫn tới sự xuống cấp đạo đức
trong xã hội hiện đại.
Thứ hai: Việc khuyến khích tiêu thụ dẫn tới sự hình thành lối sống tiêu
thụ đặc trưng cho xã hội hiện đại.
Trong các xã hội tiền thị trường, kể cả phương Đông và phương Tây, do
sự kém phát triển về kinh tế và công nghệ, thu nhập thấp, nên nhìn chung, con
người không thể có mức sống cao được. Do vậy, tiết dục và tiết kiệm là yêu cầu
phổ biến của lối sống; đó cũng là chuẩn mực đạo đức phổ biến, tiêu biểu và đặc
trưng cho đạo đức xã hội. Trong các xã hội truyền thống, tiết kiệm được coi là
đức tính, hoang phí bị coi là thói xấu về mặt đạo đức.
Ngược lại, trong xã hội hiện đại, lối sống tiêu thụ đã thay thế cho lối sống
tiết kiệm. Lối sống tiêu thụ dựa trên nguyên lý: Cái gì mới, hợp mốt là cái có giá
trị; cái gì cũ, không hợp mốt là không còn giá trị. Dưới tác động của nguyên lý
này, người ta đua nhau tiêu dùng, mua sắm, xài sang để khẳng định sự sành
điệu. Càng tiêu thụ, con người càng thấy thiếu, càng khát tiêu thụ. Việc khẳng
định sự sành điệu qua tiêu thụ trước hết được thực hiện ở những người giàu có,
những người có quyền lực, ở giới trẻ. Điều đó dẫn đến sự đối lập giữa họ với
23
tầng lớp nghèo khó của xã hội, nghĩa là dẫn đến tâm lý bất bình ở tầng lớp
nghèo khó. Nhưng với tư cách là một đặc trưng của xã hội hiện đại, lối sống tiêu
thụ với những độ khác nhau cũng ảnh hưởng tới toàn xã hội, kể cả người nghèo.
Khi nhu cầu tiêu dùng, dưới áp lực của lối sống tiêu thụ, vượt quá khả năng kinh
tế thì trong không ít trường hợp, người ta sẽ vi phạm pháp luật và đạo đức, thực

hiện những hành vi tiêu cực, như làm ăn phi pháp, biến thủ công quỹ, trộm
cướp,… Lối sống tiêu thụ, do vậy, cũng là một trong những tác nhân dẫn đến
những tiêu cực về mặt đạo đức.
Thứ ba:. Tình trạng gia tăng áp lực cuộc sống, kích thích bạo lực và các
tệ nạn xã hội.
Dân số đô thị tăng lên quá nhanh và thông thường là nhanh hơn khả năng
cung ứng những dịch vụ hạ tầng, chẳng hạn giao thông, điện nước, cơ sở giáo
dục, y tế,… Hơn thế, con người lại bị cách biệt với thiên nhiên và bị dồn nén
vào những khu dân cư đông đúc và thường là chật hẹp. Điều đó dẫn đến tình
trạng gia tăng áp lực cuộc sống, kích thích bạo lực và các tệ nạn xã hội.
- Đối với những quốc gia phát triển, quá trình đô thị hoá mang tính tự giác
hơn, nghĩa là được quy hoạch một cách hợp lý nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa
việc đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất với việc đáp ứng các nhu cầu sống ngày
càng cao của con người. Điều đó làm giảm bớt đi áp lực cuộc sống.
- Ngược lại, với những quốc gia chậm phát triển, quá trình gia tăng đô thị
hoá thường là mang tính tự phát. Đô thị hoá tự phát là quá trình gia tăng và mở
rộng đô thị một cách tự phát, thiếu quy hoạch khoa học, là hệ quả của sự gia
tăng dân số cơ học và những làn sóng nhập cư ồ ạt, cũng như sự quản lý yếu
kém của các cấp chính quyền. Điều đó dẫn tới sự gia tăng tội phạm, bạo lực, tệ
nạn xã hội với tư cách biểu hiện của tình trạng xuống cấp đạo đức.Quá trình đô
thị hoá còn dẫn đến tình trạng xáo trộn cư dân, sự ly hương cư dân nông thôn.
Khi con người rời bỏ quê hương vào thành phố, vào các khu công nghiệp với
nghề nghiệp mới, cuộc sống mới thì mối dây liên hệ với gia đình, quê hương bị
suy yếu đi. ở các khu công nghiệp, các thành phố mới, con người từ tứ xứ không
24
thể ứng xử với nhau theo những chuẩn mực văn hóa, đạo đức thuần tuý của quê
hương mình nữa. Học giả phương Tây nổi tiếng - E.Fromm đã đưa ra cách nhìn
nhận tiêu cực về hiện tượng này. Theo ông, trong điều kiện như vậy, định hướng
lối sống, đạo đức của họ không có gì khác hơn là những định hướng từ truyền
thông đại chúng (mass communication). Công nghiệp hoá, đô thị hóa, truyền

thông đại chúng với tư cách kết quả của tiến bộ công nghệ đã biến những con
người vốn có một truyền thống văn hoá thành những kẻ nặc danh, trống rỗng,
không bản sắc, chỉ biết trông cậy vào truyền thông đại chúng để định hướng cho
các ứng xử của mình. Họ trở thành những khối đại chúng (masses), yếu tố cấu
thành hệ thống truyền thông đại chúng và là đối tượng phục vụ của truyền thông
đại chúng. Cách nhìn nhận có phần thái quá như vậy chắc là không hoàn toàn
hợp lý. Nhưng đô thị hoá với việc làm suy yếu đi mối dây liên hệ của con người
với gia đình và quê hương chính là một trong những tác nhân làm suy giảm các
giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống.
Thứ tư: Sự đồng nhất hoá các tiêu chuẩn của công nghệ, của sản phẩm
lại là tác nhân gián tiếp dẫn tới sự đồng nhất hoá các chuẩn mực của lối sống,
hành vi ứng xử, của quan niệm, thói quen và thị hiếu, nghĩa là của các giá trị
văn hoá, đạo đức.
Ví dụ ngày nay, Mỹ là siêu cường quốc về kinh tế và công nghệ (bao gồm
cả công nghệ trong lĩnh vực quân sự), ảnh hưởng của Mỹ về kinh tế và công
nghệ đối với phần còn lại của thế giới là cực kỳ lớn. Đồng thời, chủ nghĩa bá
quyền về văn hoá luôn thường trực trong đầu óc giới lãnh đạo Mỹ và luôn thể
hiện ra qua hệ thống truyền thông đồ sộ và hiện đại nhất thế giới đã và đang dẫn
đến tình trạng là, sự đồng nhất hoá văn hoá trên phạm vi toàn cầu là một thực tế,
và thực tế này in đậm dấu ấn Mỹ hoá.
Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, người ta đua nhau bắt chước mô thức
văn hoá Mỹ, phong thái xã hội Mỹ, kiểu cách hưởng thụ Mỹ, sử dụng, tiêu dùng
các văn hoá phẩm Mỹ. Có học giả người Pháp lo ngại rằng, đến một thời điểm
không xa nào đó, người Pháp không biết đến phim Pháp nữa mà chỉ xem phim
25

×