TRƯỜNI HỌ SƯ PH M KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRỊ
CỦA VĂN HÓA VÀ VIỆC TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
Nhận xét của giáo viên
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
Ký tên
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM V
THỨ TỰ
NHIỆM V
2
THỰC HIỆN
KẾT QUẢ
KÝ TÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 6
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................6
2. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................7
4. Phương pháp nghiên c ứu...............................................................................................7
5. Kết quả đề tài..................................................................................................................7
6. Kết cấu của tiểu luận......................................................................................................8
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA..................................................9
1.1. Những quan điểm chung c ủa Hồ Chí Minh về văn hóa..............................................9
1.1.1. Khái niệm về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh................................................9
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trị của văn hóa trong đời sống xã
hội................................................................................................................................. 10
1.1.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa.................................................................12
1.1.4. Quan điểm về tính chất c ủa nền văn hóa mới.....................................................14
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa............................................16
1.2.1. Văn hóa giáo dục.................................................................................................17
1.2.2. Văn hóa nghệ thuật.............................................................................................19
1.2.3. Văn hóa đời sống................................................................................................22
Chương 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................................................................24
2.1. Nền văn hóa Việt Nam hiện nay................................................................................24
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay.........26
2.2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản s ắc dân tộc........................................................................................................26
2.2.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội
sinh quan trọng cho việc phát triển bền vững đất nước.................................................27
2.2.3. Nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện
– mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học là một động lực
quan trọng nhất trong phát triển kinh tế và phát triển bền vững....................................29
2.2.4. Giữ gìn bản s ắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân lo ại...........31
2.2.5. Xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam..............................................................34
KẾT LUẬN......................................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................38
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa, bùng nổ thơng tin và giao lưu văn hóa một
cách mạnh mẽ các nước đang phát triển trong đó có cả Việt Nam đang phải hứng chịu rất
nhiều ảnh hưởng của sự hội nhập. Cơ hội nhiều song thách thức cũng khơng ít. Bên cạnh
những cơ hội hợp tác đầu tư phát triển kinh tế, giao lưu chọn lọc tiếp thu những tinh hoa
văn hóa thế giới thì Việt Nam cũng đang phải đối mặt với khơng ít những nguy cơ thách
thức trong việc hội nhập văn hóa. Nhiều vấn đề đang đặt ra một cách cấp bách: làm thế
nào để vừa hội nhập vừa khơng làm đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, làm thế nào để có
thể ngăn chặn tối đa sự du nhập của những luồn văn hóa phản giá trị, có nội dung khơng
lành mạnh vào đời sống nhân dân … Tất cả đang đặt ra cho Đảng, Nhà nước cũng như
tồn bộ nhân dân trước sự tìm kiếm những biện pháp giải pháp có thể hạn chế được sự du
nhập của văn hóa phản giá trị. Một trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng và có thể
coi là có hiệu quả nhất là chúng ta tìm về với những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa. Đây được xem là giải pháp tối ưu có hiệu quả và tác động lớn đến hầu khắp quần
chúng nhân dân cả nước. Và để làm rõ hơn về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên
lĩnh vực văn hóa nên nhóm em đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và phát triển nền văn hóa ở nước ta
hiện nay”.
2. đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa và đời sống trước và sau năm
1969.
Các chủ trương chính sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử, định rõ vai trị của
Hồ Chí Minh trong việc duy trì và phát triển nền văn hóa của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để chúng ta có cái nhìn trực quang, trang bị những kiến thức, lý luận cơ bản và hiểu rõ
hơn về vấn đề văn hóa. Từ đó làm rõ được thực chất, nội dung và vận dụng vào việc phát
triển nên văn hóa mới, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được dựa trên các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng
hóa khoa học, phương pháp thống kê, logic, lịch sử.
Cơ sở phương pháp luận: Bảo đảm sự thống nhất, tính nguyên tắc của Đảng và tính
khoa học. Quan điểm phải gắn liền với thực tiễn. Quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm
toàn diện và hệ thống. Quan điểm kế thừa và phát triển.
Các phương pháp cụ thể: Vận dụng các phương pháp liên ngành để nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chọn lọc thơng tin một cách linh hoạt, cũng như áp dụng các phương pháp cụ thể như
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
Việc vận dụng và kết hợp các phương pháp vào nội dung tiểu luận phải căn cứ vào nội
dung và phải theo một trình tự hợp lý.
5. Kết quả đề tài
Dựa vào quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh ta thấy rõ được tầm quan trọng của văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực để phát triển bền vững đất nước.
Nắm rõ các vấn đề về văn hóa. Từ đó xây dựng ý thức người dân về việc phát triển nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và ngăn chặn tối đa sự du nhập của những luồn văn hóa
phản giá trị.
8
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm 2
chương. Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương 2: Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào việc phát triển văn hóa ở nước ta
hiện nay.
9
NỘI DUNG
hương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN
HĨA 1.1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1.1. Khái niệm về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943) lần đầu tiên Hồ
Chí Minh có nêu một định nghĩa về văn hố: "Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hố. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn".
Người còn ghi thêm: "Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc
- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã
hội
- Xây dựng chính trị: dân quyền
- Xây dựng kinh tế"
Như vậy văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là tồn bộ những giá trị vật chất và
những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là
mục đích của cuộc sống lồi người. Và muốn xây dựng nền văn hố dân tộc, thì phải xây dựng tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
10
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trị của văn hóa trong đời sống xã
hội
Trước hết Hồ Chí Minh cho rằng văn hố là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng. Theo Người, văn hố nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trị
quan trọng tạo bước nhảy vọt trong tư duy, hành động của con người và của các dân tộc
bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của con người phát triển tự do, toàn diện. Ngay từ
năm 1921, Người đã nói đến "luồng gió mới từ nước Nga thợ thuyền... đang thổi đến giải
độc cho người Đông Dương"; rằng "Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo
dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ... cứ phụ trách việc giáo dục bằng phương
pháp của chúng... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội
chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi". Hồ Chí
Minh từng nói đến "văn hố soi đường cho quốc dân đi"; "Phải đem văn hoá lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ". Phải "Xúc tiến văn hoá để tạo con
người mới và cán bộ mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc".
Văn hố có tác dụng sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ xây
xã hội mới. Văn hoá tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần "Văn
minh thắng tàn bạo". Kinh tế nâng cao đời sống vật chất, văn hố có tác dụng nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân. Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết
và hiểu biết lẫn nhau.
Văn hố cịn được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hoá được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã
hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Trong cơng cuộc kiến thiết nước
nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hố. Nhưng văn hoá là một bộ phận kiến trúc thượng tầng.
Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động lẫn nhau
là : chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
11
- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hố mới được giải phóng. Chính trị giải
phóng mở đường cho văn hố phát triển.
Khi đất nước cịn bị nơ lệ thì văn hố cũng chung số phận nơ lệ, tuyệt đại bộ phận
nhân dân bị đoạ đầy trong cảnh tối tăm, dốt nát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra
một đường lối mới: phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị trước mà cụ thể là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc để giành lấy chính quyền, nhân dân làm chủ đất nước,
để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hố, mở đường cho
văn hoá phát triển. Người chỉ ra rằng, "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hố của
ta vì thế khơng thể nảy sinh được","dân tộc bị nơ lệ thì văn nghệ cũng mất tự do".
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.
Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hố, xây dựng kiến
trúc thượng tầng. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ
tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá là một bộ phận kiến trúc
thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hố mới kiến thiết được
và có đủ điều kiện phát triển được: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh
tế và văn hố. Vì sao khơng nói phát triển văn hoá và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực
mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước".
- Văn hố khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Văn hố, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng
ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Điều này cũng có nghĩa là văn hố có quan hệ
chặt chẽ với kinh tế và chính trị, văn hố phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy
xây dựng và phát triển kinh tế, tác động trở lại với kinh tế và chính trị như một động lực
hết sức quan trọng, Người nói: "Trình độ văn hố của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta
đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
12
mạnh". Như vậy, cũng phải thấy rằng văn hoá đứng ở trong kinh tế và chính trị
cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị phải có tính văn hố.
1.1.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Văn hố trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể quy tụ ở ba chức năng chủ yếu sau:
Chức năng thứ nhất là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân
dân. Tư tưởng và tình cảm là những vấn đề chủ yếu của đời sống tinh thần con người. Tư
tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm cũng có thể cao đẹp hoặc thấp hèn. Theo
Hồ Chí Minh, văn hố có chức năng là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm
cao đẹp cho nhân dân. Chức năng này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, vì tư
tưởng và tình cảm con người luôn luôn biến đổi theo hoạt động thực tiễn của xã hội. Việc
bồi dưỡng ấy phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm có ý nghĩa chi phối
đến đời sống tinh thần của mỗi con người và của cả dân tộc.
Tư tưởng đúng theo Hồ Chí Minh, đó là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người chỉ ra rằng: "Nước độc lập, dân
phải được tự do, hạnh phúc", để nền độc lập đó là nền độc lập thực sự, độc lập bền vững
để sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người được thực hiện
một cách trọn vẹn. Lý tưởng đó là điểm hội tụ những tư tưởng lớn của cả một dân tộc.
Nếu ai xa rời lý tưởng đó đều có thể dẫn tới sai lầm.
Hồ Chí Minh cịn chỉ ra, phải làm thế nào để cho "văn hoá đi sâu vào tâm lý quốc dân"
để xây dựng những tình cảm cao đẹp cho nhân dân như lịng u nước, tình thương u
con người, yêu sự chân thành, thuỷ chung; căm ghét, lên án, phê phán những cái xấu, cái
ác, cái lạc hậu, những xa đoạ biến chất trong đời sống tinh thần của xã hội.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng nền văn hố cách mạng ở nước ta, Hồ Chí Minh và
Đảng thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cho các tầng lớp nhân
dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và đặt chức năng cao q đó cho văn hố.
13
Chức năng thứ hai là, nâng cao trình độ dân trí. Lênin đã từng chỉ ra rằng: "Người mù
chữ là người đứng ngồi chính trị". Thấm nhuần tư tưởng của Lênin và từ thực tiễn nước
ta, Hồ Chí Minh nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "Dốt thì dại, dại thì hèn" và
trong bài "Chống nạn thất học" (4-10-1945), Người viết: "Số người Việt Nam thất học so
với số người trong nước là 95%, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ". Như thế thì
làm sao tiến bộ được.
Nay chúng ta đã giành được độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp
tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí.
"Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức mới để có
thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ". Do đó, theo Hồ Chí Minh nói tới văn hố là nói đến vấn đề dân trí. Dân trí ở
đây khơng chỉ hạn hẹp ở biết đọc, biết chữ, mà Người cịn chỉ ra rằng, đó là trình độ hiểu
biết, trình độ kiến thức của người dân, của mỗi cơng dân. Từ trình độ biết chữ đến chỗ
hiểu biết và tiếp thu kiến thức trên các lĩnh vực cần thiết cho hoạt động của mỗi người
nhằm thực hiện được nhiệm vụ của mình, của cách mạng. Những hiểu biết đó bao gồm
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, chun mơn kỹ thuật, khoa học kỹ thuật - cơng
nghệ, lịch sử, tình hình trong nước, quốc tế... Theo Hồ Chí Minh, việc nâng cao trình độ
dân trí chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta hồn thành cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, giành được chính quyền về tay nhân dân.
Chức năng thứ ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành
mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để khơng ngừng hồn
thiện bản thân mình.
Con người khơng chỉ sống trong mơi trường tự nhiên, mà cịn sống trong mơi trường
xã hội, mơi trường văn hố. Con người phải tiếp nhận mơi trường đó mới tồn tại và phát
14
triển được. Mặt khác các giá trị văn hoá tác động đến con người những định hướng giá trị
và xác định những chuẩn mực trong đời sống xã hội. Với cá nhân giá trị văn hoá là thành
tố cốt lõi để hình thành nên nhân cách con người.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và
phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện, trước hết là đối với cán bộ, đảng
viên. Đó là những phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, những phong cách trong lao
động, sinh hoạt và trong mọi quan hệ xã hội.
Phẩm chất và phong cách được hình thành trong đạo đức, nếp sống, lối sống của con
người và xã hội, trong thói quen của cá nhân và trong phong tục, tập quán của cả cộng
đồng dân tộc. Văn hoá giúp con người phân biệt được cái tốt đẹp lành mạnh với cái xấu
xa, hư hỏng; cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội, cái lạc hậu cản trở con người, cản
trở dân tộc tiến lên phía trước. Từ đó con người phấn đấu làm cho cái đẹp, cái lành mạnh
ngày càng tăng, cái tiến bộ, cái mới ngày càng phát triển, làm cho cái lạc hậu ngày càng
bớt đi, cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại khỏi đời sống con người và xã hội.
Với đặc trưng không giống với kinh tế và chính trị, văn hố hướng con người vươn tới
cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý tưởng, từ cái chưa hồn thiện
vươn tới cái hồn thiện ln ln ở phía trước, đặc biệt là việc hoàn thiện bản thân mỗi
người.
1.1.4. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, việc xây dựng một nền văn hố mới
được Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng. Ngay sáng 3.9.1945, Người đã đặt ra hàng loạt các vấn đề về văn hoá cần giải
quyết, như diệt "giặc dốt", giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, li êm, chính, cấm hút
thuốc phiện... Cũng trong những ngày đầu tháng 9.1945, Người đã cho thành lập Uỷ ban
văn hoá lâm thời Bắc Bộ và chỉ rõ nhiệm vụ cho Uỷ ban là: gây dựng cho đất nước một
nền văn hoá mới.
15
Nền văn hố trong thời kỳ đó là nền văn hoá dân chủ mới, đồng thời là một nền văn
hoá kháng chiến. Khi miền Bắc được hồn tồn giải phóng bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hố được xây dựng là nền văn hố xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
tính chất của nền văn hoá cũng được điều chỉnh cho phù hợp.
Nền văn hoá trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng. Điều này
thể hiện khá sớm trong Đề cương văn hoá Việt Nam của Đảng năm 1943, đó là: Để tiến
tới một nền văn hố xã hội chủ nghĩa, cuộc giải phóng dân tộc sẽ cơ cấu lại nền văn hoá
truyền thống theo ba nguyên tắc lớn "dân tộc hoá, đại chúng hoá, khoa học hoá".
Khi đặt vấn đề xây dựng nền văn hoá mới của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh
nói: "Cái nền văn hố mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận
với trào lưu tiến hố của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta có được độc lập, tinh thần được
giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của
nhân dân". Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Xây
dựng một nền văn hố Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng".
Theo Hồ Chí Minh, ba tính chất đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là một nền văn
hố phải làm cho mỗi người dân Việt Nam hiểu biết được cội nguồn lịch sử hình thành
phát triển dân tộc; biết giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá
dân tộc trong dựng nước và giữ nước. Nền văn hoá mới phải phản ánh được đời sống hiện
thực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo đúng quy luật khách quan, đảm bảo tính
chân thực; tiếp thu văn hoá nhân loại để làm phong phú thêm văn hoá dân tộc, đưa văn
hoá Việt Nam, ngày càng vươn tới đỉnh cao văn hoá nhân loại. Nền văn hoá mới phải lấy
việc phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động làm mục đích hoạt động nhằm góp
phần nâng cao đời sống tinh thần vui tươi lành mạnh cho nhân dân.
Tính chất của nền văn hố mới trong giai đoạn miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
đã được Hồ Chí Minh đề cập ở nhiều bài viết, bài nói và ở nhiều hội nghị quan trọng, Hồ Chí
Minh xác định "... để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn
16
hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức". Như vậy, Người chỉ ra
tính chất của nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc.
Nội dung xã hội chủ nghĩa có nghĩa là tiên tiến, khoa học, hiện đại. Tính dân tộc khơng
chỉ là ở hình thức thể hiện mà cịn biết kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp trong truyền
thống văn hoá của dân tộc cho phù hợp với những điều kiện lịch sử của đất nước. Hơn thế
nữa theo Hồ Chí Minh, chúng ta cịn phải biết giới thiệu những giá trị văn hoá cao đẹp
của dân tộc ra thế giới để thế giới hiểu biết thêm về đất nước, con người Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hai tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa. Đậm đà
bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy, phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hoá dân
tộc trong điều kiện mới. Đây chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về sự phát
triển biện chứng của văn hố.
1.2. Tư tưởng Hồ hí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một
kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong đó tư tưởng của Người về văn hóa chiếm
một vị trí hết sức quan trọng
Đó là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học và cách mạng về văn
hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Được kết tinh và chắt lọc những giá trị cả văn
hóa phương Đơng, phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng.
Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có
kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được; có thực mới
vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa
17
là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền
tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong rất nhiều bài nói và bài viết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa
dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam
được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo
lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu…Bên cạnh việc giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục
khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, biệt chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp
với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương
cho mọi thế hệ Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ noi theo.
Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “nước ta là một
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân”. Vì vậy, văn hóa cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan
điểm: Vì nhân dân phục vụ và phát huy sứ mạng của tồn dân làm văn hóa. Làm cho văn
hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ
con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi tầng
lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đồn thể, tơn giáo, nhà trường và gia
đình…tham gia tích cực, thường xun, liên tục, bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện
được những nhiệm vụ đã đề ra.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa nước ta. Nó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và
phát triển nên văn hóa nước ta
1.2.1. Văn hóa giáo dục
18
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều cơng sức phân tích
sấu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị tư tưởng cho việc xây dựng nên
văn hóa giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này, Hồ Chí Minh đã phê phán gây gắt
nền giá dục phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam
khinh nữ…) và nền giáo dục thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá, ngu dốt hơn cả sự dốt
nát).
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập dược Hồ Chí Minh chuẩn bị từ những
lớp bồi dưỡng các bộ cách mạng trong những năm của thế kỷ XX, thực sự sự ra đời sau
thắng lợi của cách mạng Tháng tám và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của cả
dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền gióa dục của nước Việt Nam mới
phải được coi là một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản và lâu dài. Nền giáo dục mới sẽ là “… làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”
- Mục tiêu văn hóa giáo dục là để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa thơng qua
dạy và học
Dạy và học là nhằm mở mang dân trí, nâng cao kiến thức; bồi dưỡng những tư
tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách
lành mạnh cho con người, đào tạo con người có ích cho xã hội. Văn hóa giáo dục
phải đào tạo được những lớp người có đức, có tài kế tục sự nghiệp cách mạng, làm
cho nước ta „sánh vai với các cường quốc năm châu‟. Học không phải để lấy bằng
cấp mà thực học, “học để làm việc, làm nười, làm cán bộ”
- Nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Giáo dục phải toàn diện,
bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao
động. Các nội dung này có quan hệ rất chặc chẽ với nhau. Người chỉ rõ, nếu khơng
có trình độ văn hóa thì khơng tiếp thu được khoa học – kỹ thuật; không hoa học –
kỹ thuật thì khơng theo kịp nhu cầu kinh tế nước nhà; song phải chú ý học chính trị,
vì nếu chỉ hoc văm hóa mà hơng học chính trị như người nhắm mắt mà đi.
19
Học chính trị là học chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Học để nắm vững quan điểm, lập trường nguyên tắc của đảng, thế giới quan,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phương pháp học phải sáng tạo,
không giáo điều. Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ nên
Người cho rằng phải tiến hành cải cách giáo dục, nhằm xây dựng chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học thật khoa học, học lý, đáp ứng đòi hỏi của cách
mạng.
- Phương châm, phương pháp giáo dục
+ Phương châm học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải
kết hợp với lao động; phải kết hợp chặc chẽ ba khâu: gia đình, nhà trường và xã hội;
thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi
người, học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
+ Phương pháp giáo dục phải phù hợp với mục tiêu giáo dục. Cách dạy phải phù
hợp với trình độ nười học, phù hợp với lứa tuổi, dạy từ dễ đến khó; phải kết hợp học
tập với vui chơi, giải trí lành mạnh phải dùng biện pháp nên gương gắn liền với
phong trào thi đua…
- Về đội ngũ giáo viên: phải quan tâm xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên có đạo
đức cách mạng, u nghề, n tâm cơng tác, đồn kết và hợp tác với đồng nghiệp,
giỏi về chuyên môn, thuần phục về phương pháp. Mỗi giáo viên là một tấm gương
sáng về đạo đức, về học tập, “Học không biết chán, học khơng biết mỏi”.
1.2.2. Văn hóa nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật gọi chung là văn nghệ. Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của
nền văn hoá là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong
lịch sử phát triển, dân tộc Việt Nam là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và văn nghệ cũng đã
trở thành nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp nối truyền thống dân tộc, Hồ Chí
Minh là một chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ và là người đã khai sinh một nền
văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cống hiến của Hồ Chí Minh về văn nghệ là bộ phận đặc
sắc trong sự nghiệp của Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc.. Trong quá trình chỉ
20
đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quan điểm lớn. Sau
đây là quan điểm chủ yếu:
- Một là, văn hóa – văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ
là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng
Quan điểm trên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày càng đông đảo
văn nghệ sĩ vào một mặt trận chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình trên tinh thần:
nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Và hướng vào việc
“phị chính trừ tà”, “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”,
đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới, xã hội mới.
Hồ Chí Minh khảnh định văn hóa – nghệ thuật là một mặt trận, tức là khẳng định
vai trò, vị trí của văn hóa – nghệ thuật trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn
hóa cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế.
Ở tầm nhìn xa hơn, Hồ Chí Minh cịn coi mặt trận văn hóa như một “cuộc chiến
khổng lồ” giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đó sẽ
rất quyết liệt, rất lâu dài, song rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, người “nghệ sĩ là
chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí” đấu tranh. Trước khi giành được chính
quyền, văn nghệ có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng, cổ vũ cho
thắng lợi tất yếu của chách mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham gia
vào cộng cuộc bảo vệ và xây dựng chế. Mặt trận văn nghệ lúc này còn cam go hơn,
quyết liệt hơn, bởi thắng đế quốc thực dân đã khó, thắng nghèo nàn, lạc hậu cịn khó
hơ nhiều. để hồn thành nhiệ vụ vẻ vang, Hồ Chí Minh yêu cầu “chiến sĩ nghệ thuật
cần có lập trường vững, tư tưởng đúng … dặt lợi ích của khách chiến, của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết trước hết”
- Hai là, văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống của nhân dân
Thực tiễn đời sống nhân dân rất phong phú, bao gồm thực tiễn lao động, sản xuất,
chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng đời sống mới, là nguồn nhựa sống, là sinh khí và
là chất liệu vô tận cho văn nghệ sáng tác. Từ thực tiễn đó, bằng tài năng sáng tại và
tinh thần nhân văn của mình, văn nghệ sĩ có thể nhào nặng, thăng hoa, hư cấu, tạo