Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ. VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.74 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ.
VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA.


ĐIỂM

NHẬN XÉT
.....................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

Ký tên


BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ

STT

MSSV

Họ và tên

Hồn thành


Nhiệm vụ

Kết quả


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 1
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
5. Kết cấu đề tài ........................................................................................ 2
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ ............... 3
1. Dân chủ là gì? ....................................................................................... 3
2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh: ................................................. 3
3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội......................................... 4
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân ................................ 4
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị ........................... 5
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế: ............................. 7
3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội: ............ 10

4. Thực hành dân chủ ............................................................................. 12
4.1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi ................................... 12
4.2. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân .......................................................
13
4.3. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đồn thể chính trị xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội .............................................. 15

Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO NỀN DÂN

CHỦ NƯỚC TA HIỆN NAY .......................................................................... 16
1. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế: .......................................................... 16
2. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị ........................................................ 19
3. Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa ......................................................... 21
4. Dân chủ trong lĩnh vực xã hội ............................................................ 22

B. KẾT LUẬN ........................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 25


A.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong xu thế hội nhập, kinh tế quốc tế Việt Nam đang ngày một tiến lên sánh
vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới và dần khẳng định vị thế của mình
với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này là cả
một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được
của bao thế hệ cha ông chúng ta cùng sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong
đó có những người con kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, khơng sợ khó,
sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã
một mình bơn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc lập tự do
cho Tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh
nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình
yêu của dân tộc. Học tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà
không một sách vở nào có thể dạy nổi.

1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thấm nhuần
tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất

nước, đồng thời hiểu rõ thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Với vai trò quan trọng ấy
cùng mong muốn được tìm hiểu, học hỏi, chia sẻ kiến thức nhóm 12 đã nghiên cứu
và quyết định chọn đề tài “ Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Vận dụng vào
xây dựng nền dân chủ ở nước ta”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
chủ nhằm giải đáp được thế nào là dân chủ, quan niệm của Hồ Chí Minh về dân
chủ. Đặc biệt là làm rõ được vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội cũng như nổi bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để
xây dựng Đảng bộ, Nhà nước, Mặt trận và các ban ngành đồn thể đảm bảo dân chủ
và cơng bằng xã hội.

1


3. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào nền dân chủ nước ta hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin để xem xét mọi vấn
đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Thống nhất giữa tính Đảng vơ sản và tính
khoa học. Phải kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic.
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng nguyên lý kế thừa và phát triển
sáng tạo. Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mơ tả,
phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn. Học
tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong q trình cách
mạng Việt Nam; lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.


5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 2 mục như sau:
Chương 1.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ

Chương 2.

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào nền dân chủ nước ta hiện nay

2


Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Dân chủ là gì?
- Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, dân chủ là
một phạm trù lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội, dân chủ
do sự tồn tại và phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định, Do đó, trình độ của
phương thức sản xuất khác nhau dẫn đến trình độ dân chủ (mức độ thực hiện dân chủ và
dân chủ hoá trong xã hội) cũng khác nhau. Dân chủ biến đổi và phát triển không ngừng
cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội lồi người.

- Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ, có hai nguyên tắc mà bất kỳ
một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả thành viên của
xã hội (cơng dân) đều có qùn tiếp cận đến qùn lực một cách bình đẳng; thứ hai, mọi
thành viên (cơng dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.


2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn: “

Dân là chủ” và “ Dân làm chủ”.
- “ Dân là chủ”, nghĩa là đề cập đến vị thế của dân.
- “ Dân làm chủ”, nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân.


Cả hai vế này luôn đi đơi với nhau, và thể hiện vị trí, vai trị, quyền và trách
nhiệm của dân.
- Như vậy thơng qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu lên hai nội dung quan trọng của dân chủ. Thứ nhất, dân chủ tồn tại với tư cách là
quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà nước, làm chủ
chế độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế
độ chính trị, một hình thức nhà nước khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân
dân trong việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
3


- Quan điểm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ.
Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó
được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.

3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một nội dung cơ bản, quan trọng cấu thành hệ
thống tư tưởng của Người. Nội dung căn bản của dân chủ không chỉ thể hiện ở việc
đảm bảo quyền con người, quyền công dân mà dân chủ trong xã hội Việt Nam được
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…
- Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh cịn được biểu hiện ở phương thức tổ chức

xã hội. Người chỉ ra, phương thức tổ chức, hoạt động xã hội của nước ta muốn khẳng
định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo qùn lực xã hội mà ở đó người dân cả
trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do dân cử ra và do
dân tổ chức lên. Hồ Chí Minh cịn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền lực đó
là nhân dân.
- Để hiểu rõ về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên chúng ta cùng tìm hiểu nội
dung chi tiết.
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói
riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả
của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác - Lênin. Kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên
một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu

sắc.
- Dân là chủ, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân là chủ và dân làm chủ là vấn đề rộng lớn, xuất phát
từ việc đánh giá đúng đắn vai trò của nhân dân và bản chất của chế độ xã hội chủ

4


nghĩa là chế độ trong đó nhân dân lao động là người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội và làm chủ cuộc sống bản thân.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện ở bốn mặt
gắn bó mật thiết với nhau: Bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, nắm
vững dân tâm. Bốn mặt đó là thước đo trình độ làm chủ của nhân dân. Cụ thể,


người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể,
được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ
luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm
chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có qùn làm chủ các đồn thể,
các tổ chức chính trị xã hội thơng qua bầu cử và bãi miễn.
- Người dân chủ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm
quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do
dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu
hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị
- Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hố, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng
nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước. Hồ Chí
Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – Nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước
cũng như tồn bộ hệ thống chính trị.
- Trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về dân chủ
trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Tư tưởng của Người về
dân chủ trong chính trị đã trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc Việt Nam. Khi
nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị, nổi bật lên những nội
dung lớn sau:
5


- Một là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị xuất phát từ truyền
thống văn hố dân tộc, được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; là
sự kết hợp những tinh hoa giá trị dân chủ của văn hóa phương Đơng và phương Tây,
đặc biệt là lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con

người của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Hai là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị được thể hiện ở việc
khẳng định quyền lực của nhân dân trong hiến pháp và pháp luật; đảm bảo tổ chức
nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là
chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước, dân tộc. Người khẳng định: “ Tất cả quyền bính trong nước là của
tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.
Nhà nước do dân nghĩa là dân làm chủ nhà nước, nhà nước phải tin dân và
dựa vào dân. Nội dung này được thể hiện: Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ


thông. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn. Dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ
chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước. Đồng thời, nhân dân có quyền tham
gia vào cơng việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại
lợi ích cho nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất là
không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm “


Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh”.


Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
xác định rất rõ: “ Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là

người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.
6


Nhân dân khơng chỉ có quyền mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi
hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước”.
- Ba là - Để phát huy dân chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự là của dân,
do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà nước đem lại hiệu quả xã hội thực sự. Nhà
nước pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ được mở rộng,
người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là
nhà nước phải thể hiện được việc điều hành và quản lý xã hội bằng hệ thống luật.
- Bốn là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị có giá trị lý luận và thực
tiễn vô cùng sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Quán triệt những nội
dung của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn

lãnh đạo cách mạng đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo tư
tưởng của Người nhằm mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu xuyên suốt, cao
cả và là điểm tựa về đường lối, chủ trương, chính sách để đồn kết tồn dân thực hiện
thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện mục tiêu
xun suốt đó cũng chính là vận dụng và phát triển những kiến giải sáng tạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về dân chủ.
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế chứa đựng ý nghĩa lý luận và khoa
học, đồng thời có giá trị thực tiễn to lớn, giữ vai trò nền tảng của sự phát triển xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế được thể hiện trên nhiều khía cạnh,
nhiều phương diện khác nhau; trong đó:
- Thứ nhất, là quyền làm chủ về sở hữu của nhân dân, của người lao động. Bởi vì, chỉ

với tư cách làm chủ chứ không phải làm thuê, người lao động mới khơng ngừng phát
huy tính độc lập, tự chủ, tính năng động, sáng tạo của mình trong sản xuất và cơng tác.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm chủ về sở hữu bao hàm cả việc xác nhận sự tồn tại,
phát triển của các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Cụ
thể, đó là sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và sự đa dạng hóa các hình thức sở
7


hữu. Cần phải tôn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều
loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “ Trong
chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác
xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà
nước”. Cùng với đó, “ Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư
liệu sản xuất như sau:


Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.



Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.



Sở hữu của người lao động riêng lẻ.



Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”.


- Song, Người cũng chỉ rõ, bình đẳng về kinh tế hồn tồn khơng đồng nghĩa với sự
cào bằng, bình quân chủ nghĩa; trái lại cần có trọng tâm, trọng điểm, phải xác định
đúng vị trí, vai trị của mỗi thành phần kinh tế. Hơn nữa, mục đích của nước ta là đi
lên chủ nghĩa xã hội mà nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể.
- Mặt khác, quyền làm chủ về sở hữu cịn là sự xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, khơng
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Đây chính là biểu hiện tập trung và cao nhất
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế.
- Thứ hai, làm chủ việc tổ chức, quản lý kinh tế, trong đó phải có kế hoạch thống nhất,
dân chủ và hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là một
kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, nghĩa là Chính phủ trung
ương có kế hoạch toàn quốc, và địa phương căn cứ vào kế hoạch tồn quốc mà đặt kế
hoạch thích hợp với địa phương mình, cho đến mỗi ngành, mỗi gia đình, mỗi

người có kế hoạch riêng của mình, ăn khớp với kế hoạch chung”. Trong kế hoạch cụ
thể của đơn vị sản xuất: “ Phải bàn bạc dân chủ và phải tính tốn cho cơng bằng, hợp
lý”.
- Thứ ba, làm chủ trong quá trình phân phối. Trong quá trình sản xuất, quan hệ tổ chức,
quản lý và phân phối sản phẩm luôn được người lao động quan tâm sâu sắc, mà cơ sở

của những quan hệ ấy là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức, quản lý
8


và phân phối tác động trực tiếp tới thái độ, hành động của người lao động cũng như
tới lực lượng sản xuất nói chung. Trên cơ sở nhận thức đúng quy luật khách quan đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: “ Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được
làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”. Đây là cơ
sở quan trọng nhất cho sự hình thành quan điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong phân phối sản phẩm, trong đó trước hết phải đảm bảo cơng bằng, hợp lý.

- Người nói: “ Phải ra sức phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối
cho công bằng hợp lý”; nhưng đồng thời phân phối cũng phải căn cứ vào trình độ phát
triển của nền kinh tế đất nước. Nguyên tắc phân phối dân chủ thực sự là “làm nhiều

hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng. Những người già yếu, tàn tật
sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”.
- Vì vậy, Người yêu cầu cần chống chủ nghĩa bình quân, cào bằng trong phân phối,
phải biết sử dụng thích đáng các biện pháp khoán, thưởng, phạt trong kinh tế: “ Phải
thực hiện ba khoán, một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì được
thưởng. Có như thế mới khuyến khích mọi người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt
phải công bằng”. Hơn thế, nếu làm xấu, làm hỏng, “ có khi phải bồi thường lại cho
Nhà nước. Chính phủ không phát lương cho người ăn không”.
- Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm nêu vấn đề phải thực hiện kết hợp hài
hịa các lợi ích - lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động.

Người cho rằng: “ Mua bán phải theo giá cả thích đáng... Giá cả phải bảo đảm cho
Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà. Về thuế, cũng
phải làm sao cho Nhà nước, hợp tác xã và nơng dân cùng có lợi”.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế thực chất là sự bảo



đảm quyền làm chủ của nhân dân, của người lao động đối với q trình sản
xuất. Đó là quyền làm chủ của họ với tư liệu sản xuất trong các thành phần kinh
tế, với nhiều hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nhân dân làm
chủ quá trình tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm lao động.

9



3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:

Về văn hoá:
- Trong tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Văn hóa phụng sự
nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở”. Chính vì thế, người
khuyến khích mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá vui tươi
lành mạnh và trình độ văn hố của nhân dân. Tăng cường công tác xuất bản; chú trọng
xây dựng nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững chắc ngành sân khấu và ca vũ;

lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh
hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể
thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của nền văn học, Hồ Chí Minh đã khẳng
định “nhân dân có qùn sáng tác và thụ hưởng thành quả của mình”. Theo đó, văn
hóa phải trở về với sinh hoạt thực tại của con người; phải miêu tả cho hay, cho thật,
cho hùng hồn. Để làm được điều đó, phải có cách viết phù hợp với trình độ đa số của
đồng bào. Người luôn nhắc nhở giáo dục, tuyên truyền, viết báo hay hoạt động nào
khác phải căn cứ vào “trình độ văn hố, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lịng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng”. Bên cạnh
đó phải tiếp tục phát triển các khía cạnh về nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều
tài năng mới, chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao
đổi văn hoá với các nước; học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến.


Về giáo dục:

- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng dạy văn
hố cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các cơ quan, xí
nghiệp, quân đội. Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng,
nâng cao chất lượng cấp hai và ba, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường số
lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với các trường

dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi, xúc tiến việc nghiên cứu đặt
chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch hướng dẫn các lớp vỡ lòng. Về đại học
và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển từng bước. Tăng cường
việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, ra sức
10


bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình. Xây dựng
cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hoá cho cán bộ công nông để đưa
vào các trường đại học, chuyên nghiệp.

Về y tế:
- Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở chữa bệnh,
kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng cường việc sản
xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc biệt chú ý công tác y tế
và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài nhi. Y tế cơng trường, nơng
trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi
dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và
sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học
tiên tiến của các nước bạn và thế giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để
xây dựng và phát triển nền y tế nhân dân.

Về lĩnh vực tơn giáo:
- Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm

cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo
và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên
suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tơn trọng qùn tự do tín ngưỡng, tơn giáo
của nhân dân; đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà
nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách

mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan điểm, thái độ
rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tơn trọng qùn tự do tín ngưỡng và khơng
tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tơn giáo.
Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống
những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá
chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ cơng dân". Cương lĩnh
11


xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín
ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất
qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc
lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân".
- Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi
quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những
quyền cơng dân, qùn chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; tôn trọng
quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong
muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".

4. Thực hành dân chủ
4.1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi
- Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau
khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục
tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước
nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân. Chương trình

Việt Minh đã khơi dậy sức mạnh vơ biên của nhân dân giành chính qùn về tay
mình.Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân
chủ ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bản Tun ngơn độc lập khai sinh

nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày 2-9-1945, trong đó các giá trị về dân chủ
được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
- Dân chủ ở nuớc Việt Nam mới được thể hiện và mới được đảm bảo trong đạo luật cơ
bản nhất là các Hiến pháp do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông
qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp
năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

12


- Với trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo hiến pháp năm 1959, Hồ Chí Minh lại một lần
nữa khẳng định quan niệm đảm bảo dân chủ trong việc xác lập quyền lực của nhân dân
trong Hiến pháp. Cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân trong bản Hiến pháp

năm 1959 được phát triển, cụ thể hoá thêm. Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền
lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và hội đồng
nhân dân (Điều 5) và đặc biệt ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đầu phải
dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với
chế độ dân chủ của nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân”.
- Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân
tộc trong thể chế chính trị nước ta. Đối với giai cấp cơng nhân, Hồ Chí Minh khẳng
định rằng, cơng nhân có qùn thực sự trong xí nghiệp, và tự làm chủ về tư liệu sản xuất,
họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong việc phân phối sản phẩm lao

động. Đối với nơng dân, Hồ Chí Minh cho rằng, bao giờ ở nông thôn người dân thực sự
nắm chính qùn, nơng dân phải được giải phóng, thì mới có dân chủ thực sự. Hồ Chí
Minh đánh giá cao vai trị của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hố ở Việt Nam
và cho rằng lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc. Người đặc biệt quan tâm giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng với nam giới,
thực sự tham gia tích cực vào các cơng việc xã hội. Người cũng đề cao vai trò làm chủ
đất nước của thanh, thiếu niên. Đối với một quốc gia đa dân tộc như ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh quan tâm đấn việc đảm bảo quyền làm chủ của tất cả nhân dân các dân tộc và cho
rằng, phải làm cho các dân tộc làm chủ đất nước, mau chóng phát triển kinh tế, văn hố,
thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.

4.2. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
- Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát
triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết
liệt hiện nay, ta khơng có con đường nào khác là phải “ phát huy cao độ nội lực
13


của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ bản lảm nên nội lực đó là phát huy dân
chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo lên sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập, tự
do. Giành được chính qùn về tay nhân dân rồi thì qùn làm chủ thật sự của người dân
là nội dung đích thực của độc lập tự do. Bởi như Bác Hồ đã nói: “ Nhưng nếu nước độc
lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ
với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. Bởi vậy,
Người nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không
được lên mặt “ Quan cách mạng ra lệnh ra oai”. Điều cần chú ý trong tư duy Hồ Chí
Minh về dân chủ thì dân chủ của ta phải là “ Dân chủ thật sự”, “ Nước ta phải đi đến dân
chủ thực sự”, chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống

của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại hai chữ “
thực sự” , “ thực sự” như là một thuộc tính cơ bản khơng thể thiếu của nền dân chủ của
chế độ ta, nó vốn xa lạ với thứ dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức mà người ta dễ
dàng nghĩ tới là dân chủ trong xã hội tư sản. Qua đó, có thể thấy dân chủ là một nội dung
lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo người, thực hành dân chủ là chiếc chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết được mọi khó khăn, mọi chủ trương, đường lối, thuộc tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội… đều được người xem xét và giải quyết từ địa
vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
- Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hoá bằng pháp luật các
quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là trong hoạt

động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật, đảm bảo cho mỗi cơng dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi
hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm
minh của pháp luật nhà nước ta.

14


4.3. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đồn thể chính trị
- xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội
- Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng tới
việc xây dựng Đảng - với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo của nhà nước,
lãnh đạo toàn xã hội; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng mặt trận
với vai trị là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì
mục tiêu chung của sự phát triển của đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội
rộng rãi khác của nhân dân. Có đảm bảo và phát huy dân chủ trong Đảng thì mới đảm
bảo được dân chủ trong tồn xã hội. Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.

Quyền lãnh đạo của Đảng xuất phát từ giai cấp công nhân, dân tộc và nhân dân Đảng
trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết để đảm bảo tính
chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng, do đó, trở thành yếu tố quyết định tới
trình độ dân chủ của tồn xã hội.
- Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội của mình qua việc đảm bảo thực thi ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất nước.
Nhà nước thể chế hóa tồn bộ bản chất dân chủ của chế độ. Các tổ chức Mặt trận và
đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham gia quản lí xã hội của tất cả các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tất cả các tổ chức đó đều có mục tiêu chung là đạt tới
trình độ dân chủ cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng.
Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm Hồ Chí Minh, là trên nền tảng của khối
đại đồn kết dân tộc, nịng cốt là liên minh cơng - nơng – trí.

15


Chương 2.

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO
NỀN DÂN CHỦ NƯỚC TA HIỆN NAY

- Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người được
pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc

đẩy. Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và thiết chế bảo đảm quyền con người,
nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ,
trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tơn giáo.


1. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế:


Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.



Quyền tự do kinh doanh buôn bán.



Quyền sử dụng những tư liệu sản xuất chung của xã hội.



Quyền làm chủ của công dân đối với tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó làm chủ

q trình quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
- Mọi công dân cũng như các thành phần kinh tế đều bình đẳng và tự do kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, làm chủ trực tiếp quá trình sản xuất, kinh doanh, phân
phối sản phẩm của mình và làm nghĩa vụ đối với đất nước.
- Đảng chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu cao nhất; nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước
bằng sự đồng bộ của hệ thống pháp luật…
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, tạo ra môi
trường kinh tế, pháp lý thuận lợi: thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu của tất cả
mọi người và quyền tự do sản xuất kinh doanh; chống độc quyền, dỡ bỏ rào cản và

những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh
16



×