Tải bản đầy đủ (.pdf) (236 trang)

câu bị động” và “nghĩa bị động” trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 236 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




NGUYỄN HOÀNG TUẤN




“CÂU BỊ ĐỘNG” VÀ “NGHĨA BỊ ĐỘNG”
TRONG TIẾNG VIỆT




Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HAI












Thành phố Hồ Chí Minh – 2006
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh theo chương trình đào
tạo Thạc só hệ chính qui tập trung, từ 2003 đến 2006.
Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu trường
Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn và Phòng KHCN sau Đại học của nhà trường đã tận tình giúp đỡ
dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập.
Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp, tôi nhận được sự hướng dẫn tận tình của Phó Giáo sư –
Tiến só Nguyễn Thò Hai, người giúp đỡ tôi trong thời gian làm đề tài. Tôi xin bày tỏ lòng tri ân chân thành
cùng với tất cả sự kính trọng sâu sắc nhất.
Nhân dòp này, tôi xin tỏ lòng biết ơn đến PGS. Cao Xuân Hạo và các thầy cô, đồng nghiệp đã
quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi khi thực hiện đề tài này.
Cuối cùng với tình cảm nồng thắm, xin gửi đến những người thân yêu nhất đã hết lòng động viên
và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.



TP. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 8 năm 2006
Người thực hiện đề tài
NGUYỄN HOÀNG TUẤN

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong tiếng Việt, thái bò động (passive voice) và cùng với nó là khái niệm câu bò
động (passive sentence) hay “nghóa bò động” (“passive meaning”) được giới Việt ngữ học
rất quan tâm. Vấn đề này đã được bàn đến khá nhiều nhưng cho đến nay các ý kiến vẫn
còn phân tán, thậm chí ngay cả đối với việc câu bò động có tồn tại trong tiếng Việt hay
không vẫn chưa có được sự nhất trí.
Một số nhà Việt ngữ học cho rằng tiếng Việt không có thái bò động hay câu bò
động vì tiếng Việt, vốn thuộc loại hình Đề-Thuyết, không có Chủ ngữ ngữ pháp chỉ
người hành động hay chủ thể mang trạng thái. Một số khác cho rằng mặc dù tiếng Việt
không có dạng bò động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp của động từ, nhưng vẫn có
thể nói đến kết cấu câu bò động trong tiếng Việt, căn cứ vào sự tồn tại của các cấu trúc
có vò ngữ gồm được, bò kết hợp với một động từ ngoại động.
Đứng trước vấn đề này, một người bình thường, có thể chẳng quan tâm là mấy.
Nhưng chính họ khi biết rằng vấn đề chưa được nhất quán ấy lại được nhà trường phổ
thông đưa vào bộ sách giáo khoa để giảng dạy cho con em mình thì chắc họ sẽ không
mấy hài lòng! Còn với một số người khác, những người đã có ít nhiều kiến thức về Ngôn
ngữ học, khi cầm trên tay cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập II được Bộ Giáo Dục và
Đào Tạo cho phép thực hiện chính thức trong phạm vi toàn quốc từ năm học 2002 – 2003
đến nay – và ở đấy đã dành trọn hai tiết học cho nội dung “Chuyển đổi câu chủ động
thành câu bò động” [37, tr. 57-58; 64-65] thì sẽ nghó sao? Có phải chăng đây là thông
điệp từ bộ sách giáo khoa đã chính thức công nhận rằng trong ngữ pháp tiếng Việt có
một quy tắc bắt buộc phải phân biệt câu bò động và câu chủ động như trong tiếng Pháp,
đồng thời qua đó mà khẳng đònh rằng phạm trù thái là một phạm trù ngữ pháp của tiếng
Việt?
Một vấn đề chưa được thống nhất triệt để, một vấn đề gây nhiều sự tranh cãi nhất
trong giới Việt ngữ học, vẫn đang tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau về nó như đã
nêu trên, nhưng lại được chương trình phổ thông đưa vào giảng dạy. Nếu vậy học sinh sẽ
không bao giờ dám viết câu: Cơm đã dọn lên - mà sẽ viết Cơm đã được dọn lên. Cũng
tương tự như vậy, họ sẽ sửa các câu Tiền đã cất chưa; Báo mới đọc chưa…thành Tiền đã

được cất chưa, Báo mới được đọc chưa Vậy thử hỏi cách nói nào tự nhiên hơn, cách nói
nào thông dụng hơn đối với người dạy cũng như người học tiếng Việt? Chính vì thế,
chúng tôi, trong phạm vi của một luận văn cao học, theo hướng Ngữ pháp chức năng, sẽ
cố gắng giải quyết triệt để, mong rọi một ánh sáng có sức thuyết minh vào một vấn đề
đang chưa có được sự nhất trí hoàn toàn, có liên quan đến cách hiểu ngữ pháp tiếng Việt,
cũng như đến vò trí của tiếng Việt trong các loại hình ngôn ngữ của nhân loại, của châu Á
và của vùng Đông Dương. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn chứng minh rằng nội dung bài
giảng Chuyển đổi câu chủ động thành câu bò động hiện nay được triển khai trong sách
giáo khoa bậc Trung học cơ sở (lớp 7 tập II) là một vấn đề cần phải được xem xét lại.
2.
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Như đã nêu, vấn đề dạng bò động nói chung và câu bò động trong tiếng Việt nói riêng
được nhiều tác giả đề cập đến. Đó cũng là mặt thuận lợi đối với chúng tôi khi bắt tay
thực hiện luận văn này. Quan điểm của những người đi trước (xem từ [1] đến [22]) có thể
khác nhau, thậm chí đối lập với nhau, song dù có thế nào nó cũng giúp cho chúng tôi
phát hiện ra vấn đề và có một cái nhìn khách quan hơn đối với đối tượng đang khảo sát.
Sau đây chúng tôi xin được tổng lược nội dung các công trình của các nhà ngữ pháp tiếng
Việt.
Nhìn chung có thể xem xét hai quan điểm sau:
-
Quan điểm thứ nhất cho rằng tiếng Việt không có dạng bò động hay câu bò động.
- Quan điểm thứ hai cho rằng tiếng Việt không có dạng bò động với tư cách là một
phạm trù ngữ pháp của động từ, nhưng vẫn có thể nói đến kết cấu câu bò động
trong tiếng Việt.
2.1. Quan điểm cho rằng tiếng Việt không có dạng bò động hay câu bò động
1. Bên cạnh tiêu chí hình thái học khi nhận đònh tiếng Việt không tồn tại câu bò
động
1
, một số tác giả còn dựa vào đặc điểm tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề chứ
không thiên chủ ngữ, các ngôn ngữ thiên chủ đề thì không thể xuất hiện bò động bởi bò

động là đặc trưng của các ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Ý kiến này xuất phát từ luận điểm
của Ch.N. Li và S.A.Thompson (1976) về sự đối lập giữa hai loại hình ngôn ngữ “Thiên
chủ đề” và “Thiên chủ ngữ”. Dựa vào ý kiến của Ch.N. Li và S.A.Thompson, Cao Xuân
Hạo (1991, 2001) khẳng đònh dứt khoát rằng tiếng Việt không có thái bò động, do đó
không có câu bò động. Theo ông, tiếng Anh và các thứ tiếng Châu Âu khác là những
ngôn ngữ ''Thiên chủ ngữ'' (Subject-prominent Languages), thì tiếng Việt có đủ những
thuộc tính của một ngôn ngữ ''Thiên chủ đề'' (Topic-prominent Languages). Kết cấu bò
động là một trong những đặc trưng của các ngôn ngữ ''Thiên chủ ngữ'', còn trong các
ngôn ngữ ''Thiên chủ đề'', Thái bò động được coi là một hiện tượng ngoại biên - hạn hữu,
không mấy khi thấy có. Cao Xuân Hạo khẳng đònh:
Câu bò động là loại câu trong đó chủ ngữ không đảm đương vai người hành động,
người mang tính chất hay người có cảm xúc, mà là một vai nghóa khác, thường là vai
đối tượng của hành động, của tình cảm, hay là vai người nhận, trong khi các vai
thường do chủ ngữ đảm đương có thể được chỉ rõ ra một cách hiển ngôn hay không.
Nghóa bò động chính là nghóa của loại câu vừa nói trên.
Còn Nguyễn Thò Ảnh [1, tr. 36-47], dựa trên quan niệm của Ngữ pháp chức năng, và
tiếp thu quan điểm của Cao Xuân Hạo, cũng có kết luận tương tự. Khi chứng minh trong
tiếng Việt không có “thái bò động” hai tác giả nêu trên đã đề cập đến các vấn đề như
sau:
-
Thực ra, bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có khả năng diễn tả ý nghóa bò động. Song,
với một ngôn ngữ ''Thiên chủ ngữ'', Thái bò động được ngữ pháp hóa thành một phạm
trù với một hình thức biểu đạt riêng có tính bắt buộc tuyệt đối, trong khi tiếng Việt,

1
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính, vò từ tiếng Việt không có các chỉ tố đánh dấu về ngôi,
thời, thức, dạng…, nên không tồn tại câu bò động như các ngôn ngữ biến hình (tiếng Anh, tiếng Pháp,v.v.). Để chuyển được
một câu từ dạng chủ động sang dạng bò động thì các ngôn ngữ biến hình phải dùng đến sự biến đổi hình thái của vò từ. Tiếng
Việt vốn là một


ngôn ngữ không có hiện tượng biến hình từ nên tiếng Việt không có dạng bò động với tư cách là một phạm
trù ngữ pháp.
một ngôn ngữ ''Thiên chủ đề'' thì ý nghóa bò động không hề có một hình thức biểu đạt
nào như thế. Những tác giả đã công nhận kết cấu được, bò thường được dùng để dòch
các kết cấu bò động của tiếng Âu Châu là những kết cấu bò động, không nhận thấy
rằng hai vò từ này là những vò từ ngoại động chính danh trong ngôn ngữ nào cũng có,
và ngôn ngữ nào cũng dùng chúng ở hình thái chủ động để biểu đạt những ý nghóa
mà các tác giả ấy gọi là bò động.
-
Trong tiếng Việt không có một vai nghóa nào có thể do nghóa của vò từ phân cho
các thành phần câu như trong các thứ tiếng Châu Âu. Vậy chỉ một ai muốn áp đặt các
phạm trù ngữ pháp của các thứ tiếng Châu Âu vào tiếng Việt, một ngôn ngữ khác
hẵn loại hình, mới có thể nói rằng tiếng Việt có Thái bò động.
-
Về nội dung, ý nghóa tình thái của bò là bình luận về cái sự tình do vò từ bổ ngữ
biểu thò như một sự tình ''bất lợi'' cho chủ thể hay cho cái đối tượng được chọn làm
chủ đề. Ngược lại, ý nghóa tình thái của được là bình luận về sự tình ấy như một sự
tình ''có lợi'' cho chủ thể hay cho sở chỉ của chủ đề.
-
Hơn nữa, được và bò trong tiếng Việt chưa bao giờ mất chút ý nghóa từ vựng nào
để ta có thể nói rằng nó đã ''hư hóa'' (tức ngữ pháp hóa) và biến thành những ''trợ từ'',
dù khi bổ ngữ của nó là ngữ danh từ hay ngữ vò từ. Nghóa tình thái của được (''có lợi,
đáng mừng'') và của bò (''bất 1ợi, đáng tiếc'') không bao giờ suy suyển.
Những điều nêu trên càng cho thấy bò, được không thể được coi là một tiêu chí ngữ
pháp để nhận diện Câu bò động, và sự phân biệt ý nghóa bò động và ý nghóa chủ động
trong tiếng Việt là vấn đề ngôn cảnh (dụng pháp), chứ không phải là vấn đề ngữ pháp.
Chính vì thế, có thể khẳng đònh tiếng Việt không có Thái bò động như là một phạm trù
ngữ pháp.
Đồng tình với quan điểm thứ nhất này còn có hai tác giả Hoàng Dũng và Bùi Mạnh
Hùng. Trong Những tri thức và kỹ năng về tiếng Việt cần được dạy và học ở nhà trường

phổ thông [8, tr. 66-67], khi bàn về vò từ, hai tác giả đã nhận đònh: bò và được thường
được coi là "chỉ tố của thái bò động". Nhưng tiếng Việt không có "thái bò động", vì vai
nghóa của Đề không bò giới hạn như chủ ngữ trong các thứ tiếng Châu Âu. Hai vò từ này
đều giữ nguyên nghóa từ vựng, nên không thể xếp vào loại hư từ ("chỉ tố"). Bổ ngữ của
nó có thể là danh ngữ hay là vò ngữ. Khi bổ ngữ của bò hay được là vò ngữ, hai vò từ này
có thể được coi là một thứ vò từ tình thái, dù chủ thể của nó không trùng với chủ thể của
vò ngữ làm bổ ngữ trực tiếp cho nó.
2. Những tác giả ủng hộ quan niệm tiếng Việt không có dạng bò động và câu bò
động còn dựa trên quan niệm rằng các động từ bò và được là những động từ ngoại động
chính danh, nên không thể coi chúng là dấu hiệu ngữ pháp biểu hiện quan hệ bò động.
Nguyễn Kim Thản (1977) cho rằng động từ bò, được là những động từ độc lập đóng vai
trò chính trong bộ phận vò ngữ của câu chứ không phải là hư từ biểu thò dạng bò động của
động từ. Dạng chủ động và dạng bò động là phạm trù ngữ pháp của tiểu loại động từ
ngoại động. Động từ tiếng Việt không có phạm trù dạng theo khái niệm truyền thống. Ý
nghóa bò động của câu nói được biểu thò bằng hai cách.
a) Cách thứ nhất là đảo trật tự của động từ ngoại động và danh từ biểu thò đối
tượng chi phối của động từ ấy.
Ví dụ: Song những vết thương đang hàn gắn dần dần. (TDT, 58)
b) Cách biểu thò thứ hai của ý nghóa bò động là dùng những động từ chòu đựng may
rủi phải, chòu, mắc, bò và được đặt liền động từ ngoại động.
Ví dụ: Chồng vẫn bò đánh bò trói suốt đêm. (NTT, 95)
Cách biểu thò bằng phương tiện từ vựng này còn có sắc thái may rủi. Được biểu thò sự
may mắn cho chủ thể. Được có nghóa là ''tiếp nhận một cách may mắn'' ''có dòp tốt để làm
cái gì'', ''được phép (may mắn) làm cái gì'', ví dụ:
- Tôi sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc. (HCT, II,78).
bò biểu thò sự rủi ro cho chủ thể. Có khi nó có nghóa là “không may mắn '', ví dụ:
- Tôi bò gãy chân.
Không thể coi đây là những từ tố biểu thò dạng bò động, bởi vì dạng bò động của động từ
chỉ có thể do động từ ngoại động được hình thức hóa tạo thành, khách thể phải chi phối
lại chủ thể và ta có thể giải biến câu theo dạng chủ động.

Tóm lại, bò, được vẫn được dùng như động từ độc lập; bổ ngữ của nó có thể là: danh
từ, động từ, tính từ hay một từ tổ [16, tr. 237-241].
Quan điểm của Nguyễn Kim Thản được Nguyễn Minh Thuyết (1986, 1998) ủng hộ
làm sáng tỏ thêm. Tuy nhiên, dù không thừa nhận tiếng Việt có dạng bò động như các
ngôn ngữ Châu Âu, nhưng cả hai tác giả đều cho rằng tiếng Việt có cách biểu hiện ý
nghóa bò động riêng của mình, đó là cách biểu hiện bằng cấu trúc cú pháp (Nguyễn Kim
Thản) hay phương tiện từ vựng (Nguyễn Minh Thuyết).
3. Đinh Văn Đức [6, tr. 139-141] thì cho rằng hai từ bò và được chưa được xem là hư
từ thực sự, tác giả xếp vào nhóm các động từ tình thái ngữ pháp, là những động từ trống
nghóa. Ở chúng các ý nghóa từ vựng là rất ít, chúng đã được ngữ pháp hoá nhưng lại chưa
trở thành những hư từ thực sự, những động từ này có nội hàm rất hẹp nên ngoại diên phải
rộng- chúng luôn luôn có thành tố phụ, ví dụ:
-
Không cần giải quyết tiếp.
- Chưa có thể làm xong.
- Đang muốn gặp thầy giáo.
- Cũng đònh đến thăm anh.
-
Đã toan ghi chép lại.
- Chẳng dám làm phiền bạn.
- Còn được thưởng nữa.
- Đã bò chê trách nhiều.
Theo ông, xét trên phương diện ngữ nghóa, các động từ này có hai mặt, một mặt chúng
mang ý nghóa ngữ pháp với tính cách là một trung tâm ngữ pháp trong tổ hợp với thành tố
khác, có thể đóng vai trò của tiêu chí ngữ pháp, trong quan hệ với ý nghóa tiếp thụ- bò
động. Nhưng một mặt khác, chúng còn mang ý nghóa tình thái tham gia diễn đạt các nhận
xét đánh giá chủ quan của người nói, tính mục đích của phát ngôn.
Khi diễn đạt các ý nghóa các từ được, bò một mặt là phương tiện diễn đạt ý nghóa
ngữ pháp tiếp thụ nhưng tiếp thụ ở đây có thể được hiểu theo sắc thái “may” hay “rủi”,
mà “may” hay “rủi” là theo nhận thức và đánh giá của người nói- do đó bò và được cũng

lâm thời trở thành những từ tình thái. Tình hình đối với các động từ khác trong nhóm này,
trên nguyên tắc cũng như vậy, điều đó khiến chúng trở thành những động từ tình thái-
ngữ pháp.
4. Thông qua việc so sánh ngữ nghóa, ngữ pháp của được, bò, phải trong tiếng Việt
với ban, t’rân trong tiếng Khmer, Vũ Đức Nghiệu [11, tr. 13-24] cũng có cách nhìn nhận
như sau:
- Ý nghóa bò động của các từ được, bò là do nghóa “tự nó” chứ không phải là ý nghóa
bò động do sự cấu tạo dạng bò động (passive voice) đem đến. Vì vậy, đó là những từ có ý
nghóa thụ động chứ không phải là những từ ở dạng bò động hay yếu tố tạo dạng bò động
cho động từ khác.
- Trong tiếng Việt, các cấu trúc cú pháp bò động có thể được tạo lập nhờ những từ
có ý nghóa thụ động hoặc với cấu trúc có từ mang nghóa thụ động.Và những từ này lại
hoàn toàn không phải là những từ được biến hình để thể hiện dạng bò động (được hiểu
với tư cách là một phạm trù ngữ pháp), cho nên có thể nói cách khác rằng: để thể hiện
cái ý nghóa tương đương với ý nghóa của dạng bò động trong các ngôn ngữ biến hình Châu
Âu, tiếng Việt (ngôn ngữ đơn lập, không biến hình) đã sử dụng các phương thức từ vựng
chứ không phải là những phương thức thuộc về ngữ pháp.
2.2. Quan điểm cho rằng tiếng Việt không có dạng bò động với tư cách là một phạm
trù ngữ pháp của động từ, nhưng vẫn có thể nói đến kết cấu câu bò động trong tiếng
Việt.
Ngược với quan niệm trên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng trong tiếng Việt
mặc dù không có phạm trù bò động với tư cách là một phạm trù hình thái học nhưng vẫn
có cấu trúc bò động hay câu bò động.
1. Nguyễn Phú Phong (1976) thừa nhận “bò động” như một phạm trù ngữ pháp tách
biệt trong tiếng Việt. Ông biện luận rằng có thể xác lập một cặp câu chủ động - bò động
tiếng Việt tương ứng về mặt chuyển dòch với cặp câu chủ động - bò động trong tiếng
Pháp, và chỉ rõ mối quan hệ hình thức giữa các thành phần của mỗi cặp câu trong những
thuật ngữ chung. Ông cũng cho được, bò, do là những trợ từ bò động.
2. Hoàng Trọng Phiến (1980) quan niệm “trong tiếng Việt phương thức đối lập bò
động và chủ động không phải bằng con đường ngữ pháp thuần tuý mà bằng con đường từ

vựng - ngữ pháp”. Theo tác giả, quan hệ cú pháp trong câu bò động tiếng Việt được biểu
hiện như sau:
-
Bổ ngữ đối tượng trong câu chủ động trở thành chủ ngữ trong câu bò động tương
ứng.
-
Vò ngữ bao gồm các từ bò, được, do kèm theo động từ ngoại động.
- Chủ thể ở câu chủ động không bắt buộc phải xuất hiện trong câu bò động tương
ứng.
3. Còn N.V. Stankevich (1982) khi đối chiếu tiếng Việt với ba loại hình tiếng Hán,
tác giả đã nhận đònh về kết cấu bò động và ý nghóa bò động trong tiếng Việt như sau:
Ở tiếng Việt hiện đại có 6 kiểu câu bò động:
V1: Đ + V: Thư viết xong.
V2: Đ + Tt + V: Chữ Hán khó viết.
V3: V + Đ: (Trên tường) treo một bức tranh.
V4: Đ + thụ động + C + V: Tôi bò thầy phạt.
V5: Đ + là do + C + V: Tranh này là do An vẽ.
V6: Đ + V + C: Áo thắm nước.
Theo tác giả kiểu câu bò động được dùng rộng rãi nhất trong tiếng Việt là V4 có động từ
thụ động làm vò ngữ. Bà nhận đònh tiếng Việt có mấy đặc điểm như sau về cách diễn đạt
ý nghóa bò động:
-
Kiểu câu có động từ thụ động là kiểu phổ biến khá rộng;
- Trong khi trình bày ý nghóa bò động, có sự phân biệt rõ giữa trường hợp “may, tốt”
và trường hợp “rủi, xấu”;
- Cái mà người ta gọi là “câu bò động” chỉ là một trường hợp cá biệt trong những
biến thể có thể có của kiểu câu có động từ thụ động;
-
Vai trò của hư từ trong câu bò động là một vai trò không rõ nét lắm.[14, tr. 174-
185]

4. Lê Xuân Thại (1989) cũng tán đồng một quan điểm tương tự, khi cho rằng tiếng
Việt mặc dù không có các câu bò động hoàn toàn giống như câu bò động trong các ngôn
ngữ Châu Âu nhưng cũng có loại câu có thể gọi là câu bò động với những đặc điểm sau:
-
Chủ ngữ của câu biểu thò đối tượng hành động chứ không phải là chủ thể hành
động.
-
Vò ngữ của câu bò động do tác động các động từ bò, được đảm nhiệm.
- Sau vò ngữ là một cụm chủ vò. Ví dụ:
Em học sinh này được cô giáo khen.
Thành phố Vinh bò máy bay giặc tàn phá.
Ngoài ra, tác giả cũng thừa nhận các câu bò động có những biến thể vắng bò, được, kiểu:
Bữa cơm đã dọn ra.
Ngôi nhà này xây bằng gạch. [5, tr. 8-18]
5. Hai tác giả Diệp Quang Ban và Nguyễn Thò Thuận (2000) cũng bênh vực cho sự
tồn tại của câu bò động trong tiếng Việt. Theo hai tác giả, dạng (thái) bò động trong tiếng
Việt không phải là dạng của động từ mà là dạng của một kiến trúc riêng với những đặc
trưng ngữ pháp và ngữ nghóa xác đònh. Các tác giả này lập luận rằng động từ trong tiếng
Việt không biến hình từ, trong lúc đó phạm trù dạng bò động, theo cách hiểu của các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Ấn- Âu, thì gắn liền với dạng thức biến hình của động từ trong các
ngôn ngữ có biến hình từ. Kết luận hiển nhiên là động từ tiếng Việt, nếu theo cách nhìn
hình thái học đó, thì không thể có dạng bò động. Tuy nhiên, hai tác giả này lưu ý rằng
việc xem xét dạng bò động như vậy mới chỉ là kết luận về hình thái của động từ, chứ
không phải nói về phạm trù ý nghóa của thái bò động và cách biểu hiện ngữ pháp tính của
nó trong tiếng Việt. Phạm trù dạng bò động của tiếng Việt, theo họ, vẫn có đủ tư cách
một phạm trù ngữ pháp với điều kiện “bắt buộc” của ngữ pháp là sự có mặt của ý nghóa
ngữ pháp phải được thể hiện (đánh dấu) bằng phương tiện hình thức theo lối ngữ pháp
nghóa là hoặc bằng phụ tố, hoặc bằng hư từ, trật tự từ hay các phương thức ngữ pháp
khác, và những phương thức ngữ pháp đó có thể được dùng tách riêng hoặc dùng phối
hợp với nhau. Theo đó, các tác giả đã xác đònh đặc điểm của kết cấu bò động tiếng Việt

như sau:
-
Phương thức ngữ pháp thích hợp với việc diễn đạt ý nghóa ngữ pháp bò động
trong tiếng Việt là hư từ và trật tự từ.
- Tính chất của động từ tham gia kết cấu bò động là động từ ngoại động và có
quan hệ nghóa với thực thể nêu ở danh từ làm chủ ngữ của toàn câu, đứng trước
từ bò, được.
-
Cấu trúc nghóa của câu bò động:
 Các vai nghóa có khả năng tham gia vào chức vụ ngữ pháp của câu bò động là
thể đối tượng, thể tiếp nhận, thể đích, thể được lợi, thể bò hại, thể vò trí.
 Loại hình sự thể của câu bò động là hành động với hai đặc trưng [+động] và
[+chủ ý].
- Xét về mặt cú pháp, câu bò động là câu có hai kết cấu chủ vò, kiểu: C – V [C-
V].
Nói chung, theo hai tác giả này, dạng bò động trong tiếng Việt không phải là dạng của
động từ, mà là dạng của một kiến trúc riêng với những đặc trưng ngữ pháp và ngữ nghóa
xác đònh.
Trước đây, Diệp Quang Ban [2, tr. 149-153], cho rằng ý nghóa bò động của câu
tiếng Việt được tạo ra bởi hai điều kiện sau:
-
Sự có mặt của một trong hai từ bò, được đã hư hóa;
- Sau các từ bò, được có mặt một kết cấu chủ– vò, trong đó yếu tố chính trong vò ngữ
là động từ ngoại động, chủ ngữ của động từ phải khác với chủ ngữ của toàn câu
(tức là chủ ngữ đứng trước bò, được), và chủ ngữ của động từ có thể vắng mặt trong
ví dụ sau đây.
Ví dụ: (1) Giáp được (thầy) khen.
Vật nêu ở chủ ngữ trong câu bò động thường giữ vai đối tượng trực tiếp của hành động
nêu ở động từ đứng sau bò, được, nhưng cũng có thể giữ những vai khác. Dù là vai đối
tượng trực tiếp hay vai khác, những vật nêu ở chủ ngữ bò động nhất thiết phải có mặt

trong câu không bò động tương ứng. Chẳng hạn, câu bò động (1) có câu không bò động
tương ứng, trong đó Giáp là yếu tố bắt buộc, như trong ví dụ sau đây:
(2) Thầy khen Giáp.
Theo cách hiểu vừa nêu, có thể kết luận rằng trong tiếng Việt có kiểu câu bò động đối
lập với kiểu câu không bò động, mặc dù không có sự phân biệt động từ ở dạng bò động và
động từ ở dạng chủ động.
6. Nguyễn Thò Việt Thanh (2002) cũng đồng quan niệm rằng tiếng Việt có tồn tại
câu bò động. Tác giả đã nêu một số nhận xét của mình về loại câu bò động của tiếng Nhật
và tiếng Việt [15, tr. 25-30]: “ …vấn đề câu bò động của tiếng Việt cho đến nay vẫn chưa
dành được sự quan tâm thích đáng từ phía các nhà ngôn ngữ. Người ta chỉ mới bàn đến
những câu bò động “điển hình”, còn rất nhiều trường hợp không điển hình thì chưa được
bàn tới. Do vậy, người sử dụng mới chỉ biết dùng các từ bò, được… một cách tự nhiên chứ
chưa có ý thức phân biệt khi nào thì các từ này biểu thò nghóa bò động, khi nào không”.
7. Thông qua cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 7 - tập II (2003) ta thấy các tác giả đã
công nhận trong tiếng Việt có câu bò động nên từ đấy mới dành trọn hai tiết dạy cho nội
dung Chuyển đổi câu chủ động thành câu bò động. Nội dung bài giảng ở tiết thứ nhất được
trình bày như sau:
- Câu chủ động là câu có chủ ngữ chỉ người, vật thực hiện một hoạt động hướng vào
người, vật khác (chỉ chủ thể của hoạt động).
- Câu bò động là câu có chủ ngữ chỉ người, vật được hoạt động của người, vật khác
hướng vào (chỉ đối tượng của hoạt động).
- Mục đích của việc chuyển đổi câu chủ động thành câu bò động: Việc chuyển đổi
câu chủ động thành câu bò động (và ngược lại, chuyển đổi câu bò động thành câu chủ
động) ở mỗi đoạn văn đều nhằm liên kết các câu trong đoạn thành một mạch văn thống
nhất [37, tr. 57-58; 64-65].
Tiểu kết:

Nhìn chung, vấn đề phân biệt giữa ngữ pháp và từ vựng là chuyện rất quan
trọng, bây giờ nếu phân biệt câu chủ động với câu bò động, nghóa chủ động với nghóa bò
động thì thử xem những sự phân biệt ấy đã ngữ pháp hóa chưa? Ngữ pháp hóa là từ một

thực từ biến thành một hư từ, một từ công cụ.
Ví dụ: từ “cho” là vò từ (động từ) có nghóa chỉ hoạt động - chuyển quyền sở hữu
của mình sang quyền sở hữu của người khác. Nhưng mà “cho” còn được dùng như là một
giới từ.
Ví dụ: Mẹ cởi áo cho. thì “cho” không còn nghóa là chuyển quyền sở hữu của mẹ
sang con, mà sự xuất hiện của “cho” làm vò ngữ này có nghóa “cởi áo giúp con”.
Còn hai từ bò và được không phải là một công cụ ngữ pháp, đó là những vò từ (là
động từ) rất bình thường có thể xếp vào vò từ tình thái (bò là gặp một chuyện không may-
được là gặp một chuyện may mắn), không có trường hợp nào chúng mất nghóa từ vựng.
3.
ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Người viết luận văn chỉ tập trung vào việc khảo sát những vấn đề có liên quan đến
“Câu bò động” và “Nghóa bò động” trong tiếng Việt. Việc khảo sát về cách dùng hai từ bò
và được trong câu tiếng Việt nhằm xác đònh những “chỉ tố” của “câu bò động“ và “nghóa
bò động” và những cách khác để diễn đạt ý nghóa bò động trong tiếng Việt. Từ đó, xác đònh
rõ là trong tiếng Việt có tồn tại hay không tồn tại “thái bò động” cũng như “câu bò động”.
Dó nhiên, trong khuôn khổ một luận văn Cao học, còn nhiều điều chúng tôi chưa làm
được, ví dụ khó có thể thống kê hết tất cả các mẫu câu có sử dụng các từ bò và được ở
một số văn bản thuộc những thể loại khác nhau với các phong cách khác nhau, đồng thời
không thể trích dẫn hết những quan điểm về thái bò động trong tiếng Việt của những tác
giả trong và ngoài nước; cũng như khó có thể thống kê trọn vẹn các kiểu câu thể hiện
“nghóa bò động” trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt Chúng tôi hi vọng
rằng đây cũng là vấn đề dành được sự quan tâm và chú ý của nhiều người. Trong tương
lai, nếu có điều kiện chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai và nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.
4.
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ NGỮ LIỆU
Để hoàn thành được luận văn này, những tài liệu hữu quan đã được sử dụng. Nguồn
tài liệu này được chia thành hai loại: tài liệu tham khảo và ngữ liệu.
Tài liệu tham khảo chủ yếu là các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học
trong nước về vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, trong đó có bàn đến câu chủ động và câu bò

động trong tiếng Việt, được in trong sách và tạp chí chuyên ngành.
Nguồn ngữ liệu bao gồm các trích dẫn từ các tiểu thuyết, truyện ngắn, ký văn học
của các tác giả tên tuổi như:
 Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm)
 Hồ Biểu Chánh (Bóng người qua; Ngọn cỏ gió đùa)
 Ngô Tất Tố (Tắt đèn)
 Nam Cao (Chí Phèo; Sống mòn)
 Hồ Chí Minh (văn Hồ Chủ Tòch)
 Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng (Văn chương Tự lực văn đoàn)
 Nguyễn Minh Châu (Dấu chân người lính)
 Ma Văn Kháng (Đám cưới không giá thú; Trăng non)
 Nguyễn Khắc Tường (Mảnh đất lắm người nhiều ma)
Đồng thờiø thông qua tự điển tiếng Việt [43, tr. 7- 911], chúng tôi tập hợp danh sách tất cả
những từ làm bổ ngữ cho được và bò, đặc biệt là những câu thoại giao tiếp hàng ngày của
người Việt. Chính nguồn ngữ liệu này giúp chúng tôi có cái nhìn khách quan đối với đối
tượng cần khảo sát.
Tuy nhiên do thời gian và điều kiện có hạn nên chúng tôi không thể tham khảo được
tất cả các công trình viết về vấn đề này. Hy vọng trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tìm
thêm được nhiều công trình nghiên cứu của những người đi trước để mở rộng tầm nhìn
của mình.
5.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Theo phương pháp phân loại của hai nhà ngữ học chức năng Charles Li và Sandra
A. Thompson (1976) thì các ngôn ngữ của nhân loại ra thành bốn loại hình khác nhau:
- Ngôn ngữ thiên chủ ngữ;
-
Ngôn ngữ thiên chủ đề;
- Ngôn ngữ thiên chủ đề và thiên chủ ngữ;
- Ngôn ngữ không thiên chủ đề và cũng không thiên chủ ngữ.
Trong ngôn ngữ học Việt Nam dường như có một thói quen đồng nhất tiếng Việt,

một ngôn ngữ đơn lập tiêu biểu và điển hình, với tiếng Pháp, một ngôn ngữ biến hình đa
âm tiết và đa hình vò điển hình. Chính vì vậy các tác giả theo xu hướng này thường chia
tiếng Việt ra làm hai thái: thái chủ động và thái bò động. Trong khi đó tất cả các tác giả
đi theo hướng ngữ pháp chức năng đều tuyên bố rằng những thứ tiếng “Thiên chủ đề”
(trong đó có tiếng Việt) không có sự phân biệt ấy. Điều này có nghóa là các tác giả đi
theo hướng ngữ pháp chức năng chủ trương tiếng Việt thuộc ngôn ngữ thiên về Đề -
Thuyết chứ không thiên về Chủ ngữ - Vò ngữ.
Trên cơ sở đó, ta có thể nhìn nhận rằng ngôn ngữ học là một khoa học thực
nghiệm, một khoa học kinh nghiệm, tức là nó căn cứ vào một sự thật khách quan, không
áp đặt bất cứ một tiền đề gì không có bằng chứng trong tiếng nói hàng ngày của người
bản ngữ.
Trong quá trình tiếp cận, khảo sát, phân tích và lý giải đối tượng, chúng tôi cố
gắng tìm đọc các công trình có liên quan đến vấn đề câu chủ động và câu bò động trong
tiếng Việt; quan sát và sưu tầm cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày của
người Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm hiểu cách sử dụng câu có từ bò và được trong các
tiểu thuyết, truyện ngắn, ký văn học của các tác giả tiêu biểu qua từng thời kỳ. Đồng thời
thông qua tự điển tiếng Việt, chúng tôi tập hợp danh sách tất cả những từ làm bổ ngữ cho
được và bò.
Trên cơ sở đó, chúng tôi thống kê, phân tích, lý giải và rút ra các đặc điểm phổ
quát về cách nhìn nhận câu chủ động và câu bò động trong tiếng Việt. Chúng tôi hy vọng
rằng phương pháp thống kê và cách vận dụng máy vi tính sẽ trợ lực chúng tôi ít nhiều
trong việc tìm ra những câu trả lời tương đối chính xác, giúp ích cho người học và sử
dụng ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng tôi kiểm tra tư liệu đã thống kê được bằng phương pháp
phỏng vấn trực tiếp người bản ngữ. Bởi vì văn nói thường sinh động, phong phú, đa dạng,
màu sắc hơn văn viết.
6.
CẤÂU TRÚC NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Ngoài “Mở đầu” và “Kết luận”, luận văn được triển khai thành ba chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT
Gồm 33 trang, từ trang 21 đến trang 53

CHƯƠNG 2: NHỮNG “CHỈ TỐ” CỦA “CÂU BỊ ĐỘNG” VÀ “NGHĨA BỊ ĐỘNG”
Gồm 33 trang, từ trang 54 đến trang 86
CHƯƠNG 3: NHỮNG CÁCH KHÁC ĐỂ DIỄN ĐẠT “NGHĨA BỊ ĐỘNG” TRONG
TIẾNG VIỆT
Gồm 14 trang, từ trang 87 đến trang 100
Cuối cùng là tài liệu tham khảo và ngữ liệu trích dẫn với 47 danh mục và phụ lục:
Phụ lục I: Những nhận xét về nội dung bài giảng Chuyển đổi câu chủ động thành câu bò
động (Ngữ văn 7 tập II)
Phụ lục II: Thống kê danh sách các vò từ có “nghóa chủ động”(NCĐ) và “nghóa bò động”
(NBĐ) khi đặt sau bò và được

-oOo-
Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT

1.1 Chủ đề và Chủ ngữ
Trong mấy năm gần đây, “Chủ đề” (topic hay theme), “Chủ ngữ”, “Tính thiên chủ
đề” và “Tính thiên chủ ngữ” đã trở thành những khái niệm trung tâm trong các cuộc thảo
luận về loại hình học ngôn ngữ. Có hai vấn đề được bàn bạc trong những cuộc thảo luận
này. Vấn đề thứ nhất có tính chất khái niệm; vấn đề thứ hai có tính chất kinh nghiệm.
Trước tiên, ta có thể hỏi xem làm thế nào để phân biệt hai khái niệm “Chủ đề” và “Chủ
ngữ” để có thể cho ta một cách phân loại hữu hiệu đến tối đa. Thứ đến, ta có thể hỏi xem
hai phạm trù này được phân bố như thế nào trong các ngôn ngữ của nhân loại, và những
thuộc tính ngữ pháp nào có xu thế làm cho bên này trội hơn bên kia. Hai vấn đề này lệ
thuộc vào nhau, nhưng khu biệt với nhau. Vấn đề thứ nhất, liên đới tới việc hiển ngôn
hoá một cách chuẩn mực các thuật ngữ phổ quát; vấn đề thứ hai, liên đới tới việc trắc
nghiệm những giả thiết có tính kinh nghiệm về những xu thế phổ quát và những cách cắt
nghóa các giả thiết ấy.
Charles N. Li và S.A. Thompson (1976) đề nghò một cách phân loại hình ngôn ngữ

mới dựa trên sự phân biệt giữa tính chất “Thiên chủ ngữ” (“subject prominence”) và
“Thiên chủ đề” (“topic prominence”). Hai tác giả bắt đầu bằng việc trình bày một danh
sách những thuộc tính cho phép “vạch rõ sự khác nhau giữa chủ ngữ và chủ đề”
(1976:461ss.). Danh sách ấy có thể tóm lược như sau:
1)
(a) Chủ đề phải có tính xác đònh (về nghóa); Chủ ngữ thì không cần có tính này.
(b) Chủ đề không cần có một mối quan hệ tuyển lựa với bất kỳ vò từ nào trong câu;
Chủ ngữ bao giờ cũng có một quan hệ tuyển lựa hết sức hạn chế với vò từ mà nó
làm chủ ngữ.
(c) Vò từ chính của câu quy đònh chủ ngữ của nó: nó quyết đònh việc phân cho chủ ngữ
một vai nghóa nhất đònh (vai “người tác động” chẳng hạn); Chủ đề không bò quy
đònh như vậy (đây là một hệ luận của (b)).
(d) Chủ đề có một vai chức năng cố đònh xuyên qua các câu, cụ thể là chức năng “giới
hạn khả năng ứng dụng của kết cấu Chủ - Vò chính của câu trong một phạm vi nhất
đònh” (1976: 464; theo Chafe); và chức năng này liên quan đến cấu trúc của diễn
ngôn. Vai trò chức năng của chủ ngữ, nếu có, được quy đònh trong phạm vi nội bộ
của câu.
(e) Vò từ rất ít khi cho thấy có sự phù ứng với chủ đề, trong khi đó thì trong nhiều ngôn
ngữ sự phù ứng (hình thái học) giữa vò từ và chủ ngữ của nó là bắt buộc.
(f) Chủ đề thường xuất hiện ở đầu câu; Chủ ngữ không bò gò ép vào vò trí này.
(g)
Chủ ngữ đóng một vai trò nổi bật trong các “quá trình ngữ pháp” như phản hồi hoá
(reflexivization), bò động hoá (passivization), tỉnh lược danh ngữ đồng sở chỉ (Equi-
NP deletion), kết chuỗi vò từ (verb serialization) và mệnh lệnh hoá
(imperativization); Chủ đề không đóng một vai trò nổi bật như vậy.
Kế theo, Li và Thompson đưa ra danh sách các đặc trưng sau đây, được họ coi là tiêu
biểu cho các ngôn ngữ “Thiên chủ đề”:
2)
(a) Trong câu, chủ đề được mã hoá bằng một ngữ đoạn xuất hiện trên bề mặt, nhưng
chủ ngữ thì không nhất thiết.

(b) Kết cấu bò động không thấy có, hoặc chỉ có trong những trường hợp hãn hữu, có
tính chất ngoại biên.
(c) Không có chủ ngữ “bù nhìn” hay chủ ngữ “zero” (There are no “dummy” or
“empty” subjects).
(d)
Có loại kết cấu “Chủ ngữõ kép” (“double subject”) (hay nói theo một cách phân
tích khác, loại kết cấu “Chủ đề+ Chủ ngữ” hay “Chủ đề kép hai bậc”) vốn không
thấy có trong các ngôn ngữ “Thiên chủ ngữ”.
(e) Chủ đề, chứ không phải chủ ngữ, giữ quyền kiểm đònh việc tỉnh lược các thành tố
đồng sở chỉ.
(f) Các ngôn ngữ “Thiên chủ đề” có xu hướng đặt thông tin mới ở cuối câu.
(g)
Không có sự gò bó nào gây trở ngại cho việc lấy thành tố này hay thành tố khác
của câu làm chủ đề.
(h) Các câu có cấu trúc [Đề+ Thuyết] là kiểu câu cơ bản, nghóa là không thể phân tích
như được phái sinh ra từ bất cứ kiểu câu nào khác.
Cũng trong [25, tr. 305-333], Edward L.Keenan cố tìm ra một cách đònh nghóa phổ
quát cho “Chủ ngữ” căn cứ vào việc nghiên cứu một số ngôn ngữ đa dạng. Kết quả của
việc nghiên cứu này là một danh sách khá dài gồm những “thuộc tính của chủ ngữ”. Cần
nêu rõ rằng có một số thuộc tính trong danh sách này trùng với những thuộc tính mà Li
và Thompson tìm thấy trong chủ đề, và do đó không thể dùng để phân biệt hai phạm trù
được. Danh sách của E. Keenan quá dài để có thể sao lại đầy đủ; sau đây tác giả luận
văn chỉ chọn nêu một số thuộc tính cần thiết. Theo Keenan xác đònh, một chủ ngữ tiêu
biểu (basic) có những thuộc tính sau:
3)
(a) Chỉ một thực thể tồn tại độc lập với cái quá trình (sự tình, biến cố v.v.) do vò ngữ
biểu thò;
(b)
Thường không thể thiếu vắng trong cấu trúc cú pháp;
(c) Bao giờ cũng nằm trong số những thành phần câu có quyền kiểm đònh đồng sở chỉ,

chẳng hạn như với những trường hợp phàn chỉ, hồi chỉ zero, và đại từ hoá (so sánh
với (1g), nhưng xem thêm (2e));
(d)
Nằm trong số các danh ngữ kiểm đònh sự phù ứng của vò từ (nếu có) (ss. (1e));
(e)
Thường có “sở chỉ tuyệt đối” tức thường mang một tiền giả đònh là có tồn tại
(existential presupposition);
(f)
Thường là chủ đề của câu, vì vật sở chỉ của nó thường là “đã biết sẵn”, tức là nằm
trong số những thông tin cũ.
(g) Làm thành cái đích (target – mục tiêu) tự nhiên nhất của sự “đề bạt” (như trong
trường hợp của thái bò động);
(h) Có tầm tác dụng logic rộng hơn các thành tố khác của câu; thường là danh ngữ đặt
phía ngoài cùng (leftmost) trong những câu cơ bản; (ss. với (1f ));
(i)
Không được đánh dấu “cách” nếu trong câu của ngôn ngữ đang xét có một hạng
danh ngữ không được đánh dấu cách.
(j) Có một vai nghóa có thể biết trước nhờ hình thái của vò từ chính (ss. với (1c));
(k)
Thường chỉ người hành động nêu vò từ chính là vò từ hành động;
(l) Làm cấp dưới trực tiếp của mắt gốc (root node) của câu (nghóa là làm thành một
trong các thành tố trực tiếp dưới câu).
Những công trình nghiên cứu của Li, Thompson và Keenan cung cấp cho chúng ta
những tài liệu có giá trò, đem lại một kích thích tố mạnh mẽ có sức khích lệ những cuộc
tìm tòi tiếp theo, nhưng nó cũng làm nảy sinh một số vấn đề phương pháp luận. Khi bàn
về những chuẩn tắc do mình đưa ra, Li và Thompson cho rằng họ “không có ý đònh thiết
lập một cách đònh nghóa “Chủ đề” hay “Chủ ngữ”, mà chỉ muốn phác ra những tiêu chí
có thể dùng để hướng dẫn việc phân biệt chủ đề với chủ ngữ” (1976;466). Nhưng nếu
các giả thiết về những thuộc tính tương liên với tính thiên chủ đề hay thiên chủ ngữ muốn
có một nội dung kinh nghiệm phải chăng và do đó mà có thể trắc nghiệm được, thì cái

mà ta cần chính là những đònh nghóa, những tập hợp thuộc tính cần và đủ để bảo đảm
rằng chủ ngữ và chủ đề là những khái niệm có thể nhận diện được một cách không mơ
hồ (không có những điểm lưỡng khả) trong các ngôn ngữ khác nhau, và hai thuật ngữ
“Chủ đề” và “Chủ ngữ” sẽ không thay đổi nghóa khi được đem ứng dụng cho những ngôn
ngữ khác nhau.
Trong các thuộc tính của chủ đề và chủ ngữ được Li, Thompson và Keenan kê ra
trong danh sách của họ, rõ ràng là có nhiều thuộc tính nên coi là những giả thiết có tính
kinh nghiệm về chủ đề và chủ ngữ thì tự nhiên hơn là coi đó như những tiêu chuẩn để
nhận diện hai thành phần này. Trong số đó, đáng chú ý đặc biệt là những thuộc tính mà
các tác giả này cho là “thường thường” thấy có ở chủ đề hay chủ ngữ. Quả tình hai chữ
“thường thường” này không nhất thiết là làm giảm giá trò tiêu chuẩn của các thuộc tính
hữu quan vì ở đây có bao hàm một sự mơ hồ tùy theo cái bình diện mà các các tác giả ấy
có ý đònh nói đến khi dùng các trạng ngữ kia. Nói rằng chủ ngữ “thường là” cái danh ngữ
đặt ngoài cùng ở bên trái câu chẳng hạn, có thể có nghóa là “tình hình thường thường là
như thế trong tất cả các thứ tiếng có chủ ngữ, mà cũng có thể có nghóa là đa số các thứ
tiếng có chủ ngữ đều có thuộc tính này”. Hiểu theo cách thứ nhất, thì đây có thể là một
thuộc tính đònh nghóa, tuy chẳng phải là một thuộc tính đònh nghóa thỏa đáng lắm, vì nó là
một thuộc tính thuộc về cách mã hoá, và vì vậy phải linh động cho phép có sự dò biệt ít
nhiều giữa các ngôn ngữ – mức độ linh động đến mức nào vẫn còn là một vấn đề có tính
kinh nghiệm. Nhìn chung, những thuộc tính thuộc về phương thức mãõ hoá như vò trí, sự
phù ứng, cách đánh dấu “cách”, v.v., tốt hơn cả là nên gạt ra ngoài những đònh nghóa
khái quát. Các đònh nghóa có thể tự giới hạn trong việc nêu lên một cách mã hoá (võ
đoán) trên bề mặt nào đó của những thuộc tính toát ra từ việc hiển ngôn hoá cái chức
năng, hay cái nội dung, của “Chủ đề” hay “Chủ ngữ”.
Sau những điều nhận xét sơ bộ trên đây, ta đã có thể bắt tay vào việc xác đònh một
tập hợp những thuộc tính như vậy.
1.1.1 Chủ đề
Ta thường thấy nói rằng chủ đề là thành phần nêu rõ câu đang xét “nói về cái gì, về
đề tài nào”. Một cách lập thức hữu ích hơn là cách của Chafe: “Nhiệm vụ của chủ đề là
giới hạn khảø năng ứng dụng của kết cấu vò ngữ chính (tức phần Thuyết) vào một lónh vực

hữu hạn.” (Chafe 1976; 50). Chức năng này bao hàm hai loại thuộc tính: những thuộc tính
có liên quan đến ngôn cảnh và những thuộc tính có liên quan đến sở chỉ trong nội bộ của
câu.
Một thuộc tính có liên quan đến ngôn cảnh thường được gán cho chủ đề là tính cho
sẵn (given). Li và Thompson lại còn đòi hỏi chủ đề phải xác đònh về ngữ nghóa (xem(1a),
tr. 22). Có tính xác đònh có nghóa là có một sở chỉ duy nhất, tức là tiền giả đònh rằng
người nghe có thể xác đònh được căn cước đơn nhất của vật sở chỉ. Li và Thompson đưa
cả sở chỉ tổng loại (generic reference – chẳng hạn như Hổ là giống ăn thòt ) vào phạm trù
xác đònh, nhưng dù có như vậy thì cái yêu cầu của họ hình như cũng quá “mạnh”. Ta thử
xét các ngữ đoạn gạch dưới (1)B và (2)B, là những ngữ đoạn mang những thuộc tính
“Chủ đề” rất rõ:
(1) A: Do you sell spirits and tobacco here?
(Ở đây có bán rượu mạnh với lại thuốc lá không?)
B: Spirits we are not allowed to sell here, unfortunately. As for tobacco, we only stock
cigar.
(Rượu mạnh thì rất tiếc là ở đây chúng tôi không đươc phép bán; còn thuốc lá thì
chúng tôi chỉ có mỗi xì-gà thôi.)
(2) A: How about a swim and a game of tennis?
(Ta bơi một vòng rồi làm một ván quần vợt nhé, anh thấy thế nào?)
B: A game of tennis I might consider; but as for a swim, I don’t feel quite up to it this
morning.
(Một ván quần vợt thì may ra cũng được; chứ một vòng bơi thì sáng nay tôi không
cảm thấy mình đủ sức lắm.)
Các ngữ đoạn gạch dưới chắc chắn là chứa đựng thông tin cho sẵn, nhưng đó tuyệt
nhiên không phải là những ngữ đoạn xác đònh dù có hiểu hai chữ này theo cách nào trong
những cách hiểu hiện có. Điều này cho thấy rằng ta phải phân biệt mấy loại tính cho sẵn
khác nhau. Một loại thứ ba có thể đồng nhất hóa với cái gọi là “thông tin cũ” hiểu theo
một nghóa đủ hẹp của thuật ngữ này. W.Chafe (1976;30) có chỉ rõ rằng tính xác đònh có
thể đi đôi với thông tin mới trong một ví dụ như:
I saw your father yesterday (Hôm qua tôi gặp bố cậu)

trong đó khó lòng có thể cho rằng “người nói giả đònh là người nghe không biết gì về cha
mình”, mặc dầu ngữ đoạn đang xét có chứa đựng một thông tin mới. Chafe gợi ý rằng
vấn đề “thông tin mới” hay “thông tin cũ” là ở chỗ tri thức của người nghe có được
“đánh thức trở dậy” (hay “tái huy động”) trong cuộc giao tiếp hay không (“mới được
đánh thức trở dậy” có thể đi đôi với “biết sẵn từ trước”). Điều này không được minh xác
cho lắm, vì ở đây ta không rõ “mới được đánh thức trở dậy” cần được hiểu như thế nào.
Nói gọn lại, khi nói đến “thông tin đã biết sẵn”, ta cần phân biệt hai ý nghóa quen
thuộc khác nhau của “biết”:
“biết
1
”= tiếng Đức wissen, tiếng Na-uy vite, (gần với biết của tiếng Việt) và
“biết
2
”= tiếng Đức kennen, tiếng Na-uy kjenne.(gần với quen của tiếng Việt)
“Thông tin cũ” liên quan đến “tri thức mệnh đề’, tức là “biết
1
”. Chẳng hạn người
hỏi câu “Con chó làm gì” biết
1
rằng con chó có tham gia vào hành động cần được nói rõ
là hành động gì trong câu trả lời, và do đó đối với người hỏi đây là thông tin cũ. Trái lại
trong câu “Hôm qua tôi gặp bố cậu”, thì không phải là “cậu” biết
1
bố cậu , mà là cậu
biết
2
bố cậu.
Để sơ kết lại, có thể nói rằng ta đã phân biệt được ba thứ “tính cho sẵn” khác nhau:
(a) “Tính cho sẵn sở chỉ”, trong đó có tiền giả đònh rằng vật sở chỉ là duy nhất.
(b) “Tính cho sẵn về nội dung”, như trong hai trường hợp (1) và (2) khi nội dung hay

nghóa của các ký hiệu ngôn ngữ được ngôn cảnh làm rõ và nhờ đó mà trở thành
“cho sẵn”, tuy không hề có sở chỉ được tiền giả đònh. Cần lưu ý rằng (a) không
kéo theo (b) : – Have you seen John ? (Anh đã gặp John chưa?) – No, I haven’t
seen the bastard. (Chưa, tôi chưa gặp cái thằng vô lại ấy).
(c)
“Tính cho sẵn liên quan” bổ sung thêm cho (a) và/ hay (b), khi một yếu tố được
cho sẵn nhờ mối quan hệ với một tình huống (được nêu rõ một cách chính xác ít
nhiều được biểu thò bằng một ký hiệu cùng xuất hiện, thường là một vò từ).
“Tính cho sẵn liên quan” có tầm quan trọng đối với việc hiển ngôn hóa khái niệm
“tiêu điểm”: khái niệm này loại trừ thứ “tính cho sẵn” đó. Mặt khác, nó không thể được
đưa vào làm tiêu chuẩn phân đònh chủ đề (nhưng ta sẽ có dòp trở về với nó nhân nói về
những chuyện khác trong khi bàn về tiếng Việt). Như vậy, thứ tính cho sẵn có tầm quan
yếu đối với việc hiển ngôn hóa “Chủ đề” không được phân đònh rõ giữa hai loại hình (a)
và (b) (và riêng ở đây là (c)).
Chức năng “bày biện sân khấu” của chủ đề trong nội bộ của câu có thể được miêu
tả như là thế ưu tiên về sở chỉ so với các thành phần khác của câu. (so sánh các thuộc
tính (3a, c, e, h) của chủ ngữ do Keenan đề ra). Nghóa là nếu sở chỉ của một số thành
phần lệ thuộc vào sở chỉ của các thành phần khác, thì sở chỉ của các thành phần khác sẽ
lệ thuộc vào sở chỉ của chủ đề, chứ không bao giờ ngược lại. Nếu biết chắc rằng vò trí
đầu câu là một cách đề hóa của tiếng Anh, ta có thể nhận ra thuộc tính này trong hai câu
sau đây ở ví dụ(3):
(3) (a) Every day five thousand people pass through that door.
(Hàng ngày có năm ngàn người đi qua cửa ấy)
(b) Five thousand people pass through that door every day.
(Có năm ngàn người ngày nào cũng đi qua cửa ấøy.)
Câu (3a) chỉ cho biết số người hàng ngày đi qua cửa ấy, mà không ngụ ý rằng ngày
nào cũng chính những người ấy đi qua cửa, còn câu (3b) ít ra cũng có thể hiểu như vậy.
Nói một cách khác, trong (3a) sở chỉ của năm ngàn người bò bó hẹp lại do sở chỉ của
thành phần câu hàng ngày được chủ đề hoá. (Mặt khác, xin lưu ý rằng thành phần được
“đề hóa” này không hề gợi cho ta cái cảm giác là nó được “cho sẵn” trong câu (3a)).

Trong những cách biểu hiện tính toán vò ngữ tiêu chuẩn dùng cho câu (3) (the
standard predicate calculus representations of (3)), sự khu biệt quan yếu sẽ là một sự
khác nhau về tầm tác động của lượng từ. Ta có thể dùng khái niệm “tầm tác động” để
khái quát hóa thuộc tính “thế ưu tiên về sở chỉ” ra ngoài sở chỉ hiểu theo nghóa hẹp một
chút. Không phải chỉ có các lượng từ, mà cả các tác tử cú pháp cũng có thể có những tầm

×