Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Đình chỉ điều tra theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THỊ TUYẾT TRINH

ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỚ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
THEO LUẬT TỚ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Pgs. Ts. Phạm Quang Phúc
Học viên: Dương Thị Tuyết Trinh
Lớp: Cao học Luật, Khóa 26

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Luận văn thạc sĩ “Đình chỉ điều tra theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi dưới sự hướng dẫn của
Pgs. Ts. Phạm Quang Phúc. Những số liệu và thơng tin trích dẫn, chú thích trong
luận văn là trung thực, đầy đủ, chính xác. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kì cơng trình khoa học nào khác.
Nếu có bất kỳ thơng tin nào sai sự thật, tơi sẽ hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…. năm 2020
Tác giả luận văn

Dương Thị Tuyết Trinh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT


Cơ quan điều tra

KTBC

khởi tố bị can

KTVA

khởi tố vụ án

VAHS

vụ án hình sự


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................... 5
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của chế định đình chỉ điều tra trong tố tụng
hình sự .................................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm đình chỉ điều tra ...................................................................... 5
1.1.2. Mục đích của đình chỉ điều tra ................................................................. 6
1.1.3. Ý nghĩa của chế định đình chỉ điều tra trong điều tra vụ án hình sự ........ 9
1.2. Khái quát q trình hồn thiện chế định đình chỉ điều tra trong tố tụng
hình sự Việt Nam................................................................................................. 12
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự
1988 .................................................................................................................. 12
1.2.2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 .......................................................... 14
1.2.3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 .......................................................... 17

1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra trong việc đình chỉ
điều tra ................................................................................................................. 23
1.4. Chế định đình chỉ điều tra theo luật tố tụng hình sự một số nước trên thế
giới ........................................................................................................................ 25
1.4.1. Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc năm 1979, sửa đổi năm 1996........ 25
1.4.2. Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm
2006 .................................................................................................................. 26
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 28
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VÀ THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA ................................................. 29
2.1. Quy định về đình chỉ điều tra trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 .......... 29
2.1.1. Căn cứ đình chỉ điều tra ......................................................................... 29
2.1.2. Thẩm quyền đình chỉ điều tra ................................................................. 35
2.1.3. Thủ tục đình chỉ điều tra ......................................................................... 35
2.2. Thực trạng hoạt động đình chỉ điều tra ...................................................... 36
2.2.1. Số liệu thống kê....................................................................................... 36
2.2.2. Một số vụ án điển hình về đình chỉ điều tra ............................................ 39


2.3. Nhận xét, đánh giá........................................................................................ 47
2.3.1. Ưu điểm .................................................................................................. 47
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ..................................................... 47
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 50
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẰM HẠN CHẾ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA TRÁI
PHÁP LUẬT .......................................................................................................... 51
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra và kiểm sát hoạt động
điều tra nhằm hạn chế đình chỉ điều tra trái pháp luật ................................... 51
3.2. Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế đình chỉ điều tra trái pháp luật ... 61
3.2.1. Giải pháp nhằm hạn chế đình chỉ điều tra trái pháp luật ....................... 61

3.2.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về đình chỉ điều tra ............................... 63
Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 66
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và tư tưởng nhân đạo là chủ trương
gắn liền với quá trình xây dựng BLTTHS Việt Nam, nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, chính xác, chống bỏ lọt
tội phạm, chống làm oan người vô tội, BLTTHS thiết lập khuôn khổ hoạt động của
các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý tội phạm.
Đình chỉ điều tra là một hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra, đóng vai trò
đặc biệt quan trọng, đánh dấu việc kết thúc hoạt động điều tra, đồng nghĩa với việc
chấm dứt toàn bộ hoạt động tố tụng đối với vụ án và bị can hoặc chỉ áp dụng đối với
riêng bị can được đình chỉ. Theo đó, không phải tất cả các vụ án hình sự đều khởi tố
bị can và tiến tới truy tố trước pháp luật. Có thể người phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự do được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước;
hoặc là sự ràng buộc trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng theo hướng có
lợi cho người phạm tội khi không chứng minh được hành vi phạm tội trong một thời
hạn nhất định; hoặc CQĐT đã khởi tố vụ án, bị can nhưng quá trình điều tra xác
định không có sự việc phạm tội…
Chế định đình chỉ điều tra thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong xử
lý tội phạm; thể hiện chính sách pháp luật của Nhà nước đối với người phạm tội;
chủ động đề phòng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân; có giá trị củng
cố và xác lập công lý, khắc phục những sai lầm có thể xảy ra trong q trình nhận
thức, đánh giá những tình tiết khách quan, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, chế định đình chỉ điều tra mang ý nghĩa nhân văn

sâu sắc. Nhất là trong việc bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo
chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp, tăng cường trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra.
Qua thống kê số liệu đình chỉ điều tra trên cả nước trong những năm gần đây
(từ năm 2016 đến năm 2019), nhận thấy tổng số vụ án, bị can mà CQĐT đình chỉ
điều tra là khá lớn, tương đối đồng đều qua các năm và có sự phân hóa giữa các căn
cứ đình chỉ điều tra. Cụ thể: năm 2016 là 2.176 vụ - 3.321 bị can, năm 2017 là
2.121 vụ - 2.163 bị can, năm 2018 là 3.636 vụ - 2.363 bị can và năm 2019 là 2.363
vụ - 2.261 bị can. Trong số đó, phần lớn các vụ án, bị can được đình chỉ điều tra tập
trung vào căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hoặc do bị hại hoặc người đại diện của
họ rút yêu cầu khởi tố. Trong 04 năm, chỉ có 03 bị can thuộc trường hợp đình chỉ


2
điều tra do khơng có sự việc phạm tội (vào năm 2016). Tuy nhiên, tình trạng đình
chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm và hết thời hạn điều tra nhưng
không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm vẫn tồn tại đều qua các năm,
trung bình mỗi năm có khoảng 20 – 30 bị can thuộc hai căn cứ đình chỉ này.
Nhận thấy tính chất quan trọng của chế định đình chỉ điều tra trong hoạt động
tố tụng hình sự, tác giả thực hiện đề tài: “Đình chỉ điều tra theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam”. Trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và đánh giá,
tổng kết thực tiễn, tác giả tin rằng sẽ đưa ra được những giải pháp có ý nghĩa thiết
thực, hoàn thiện chế định này về mặt pháp lý, cũng như nâng cao chất lượng hoạt
động đình chỉ điều tra, kiểm sát việc đình chỉ điều tra trên thực tiễn, bảo đảm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tở chức, cá nhân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hầu như có rất ít các đề tài đã được nghiên cứu bởi các tác giả khác liên quan
đến vấn đề đình chỉ điều tra. Những cơng trình nghiên cứu mà tác giả tiếp cận được
bao gờm:

Về luận văn thạc sĩ
- Đoàn Thị Vịnh (2010), Đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự, Luận văn
thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Sao Mai (2016), Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đây là các luận văn nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của việc đình chỉ
điều tra trong tố tụng hình sự, từ khái quát đến cụ thể. Luận văn của tác giả Đoàn
Thị Vịnh đã nghiên cứu tởng quan, sâu sắc lịch sử hình thành pháp luật Việt Nam,
nghiên cứu chi tiết các căn cứ đình chỉ điều tra trong BLTTHS 2003 và đánh giá tồn
tại, hạn chế của bộ luật này. Luận văn của tác giả Nguyễn Sao Mai được thực hiện
năm 2016, đã cập nhật đánh giá những quy định pháp luật trong BLTTHS 2015, tuy
nhiên, tác giả cũng chỉ dừng lại ở những vấn đề bao quát, vì nội dung luận văn được
phân chia đều cho cả vấn đề tạm đình chỉ.
Về bài viết trên các tạp chí khoa học
- Đinh Văn Quế (1997), “Đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 110.
Nhận thấy bài viết này rất hữu ích về việc đánh giá áp dụng các căn cứ đình
chỉ điều tra của CQĐT và Viện kiểm sát, phân tích hạn chế, bất cập trong cơng tác


3
đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, bài viết được thực hiện từ năm 1997, tương ứng với
thời điểm BLTTHS 1988 có hiệu lực. Đến nay, phần lớn hạn chế, bất cập đã được
giải quyết bởi sự ra đời của BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nội dung đã được các tác giả khác
nghiên cứu, tác giả sẽ nghiên cứu sự ảnh hưởng của pháp luật một số nước trên thế
giới đối với chế định đình chỉ điều tra trong pháp luật Việt Nam, nghiên cứu thực
trạng cịn tờn tại và ngun nhân của nó khi mà BLTTHS 2015 mới chỉ đi vào thực
hiện được hơn 02 năm. Qua đó, đề ra giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra và kiến nghị hoàn thiện chế định đình chỉ điều tra. Đây là vấn đề

mang tính thời sự và cấp thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự và
khảo sát việc áp dụng các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra trong thực tiễn, từ
đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả nhằm hạn chế đình chỉ điều tra trái pháp
luật, kiến nghị hoàn thiện chế định đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn cần hoàn thành những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Làm rõ những vấn đề vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự;
- Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành liên quan đến đình chỉ điều tra;
- Nhận xét, đánh giá thực trạng hoạt động đình chỉ điều tra ở nước ta trong
những năm gần đây;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra nhằm hạn chế đình
chỉ điều tra trái pháp luật.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam (chủ yếu là BLTTHS 2015) và thực tiễn công tác đình chỉ
điều tra.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: luận văn nghiên cứu hoạt động đình chỉ điều tra trên phạm
vi cả nước.


4
- Về thời gian: luận văn chủ yếu sử dụng số liệu thống kê trong bốn năm gần
đây (từ năm 2016 đến năm 2019) để tìm hiểu, đánh giá thực trạng hoạt động đình

chỉ điều tra ở nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà Nước về cải cách tư pháp,
đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự.
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu điển hình trong lĩnh vực khoa học pháp lý như: phân tích, tởng hợp, so sánh,
thống kê. Phương pháp phân tích, tởng hợp được sử dụng trong toàn luận văn. Ở
Chương 1 tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn
đề về mặt lý luận. Đối với Chương 2 về thực trạng hoạt động đình chỉ điều tra, tác
giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tởng hợp, trong đó phương
pháp phân tích được sử dụng để làm rõ sự sự thay đổi và tiến bộ của BLTTHS
2015, phương pháp thống kê được sử dụng để đánh giá thực trạng hoạt động đình
chỉ điều tra. Tại Chương 3, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tởng
hợp để đề ra giải pháp và kiến nghị hồn thiện pháp luật.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích, đánh giá những hạn chế, tồn tại trong công
tác đình chỉ điều tra. Qua đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động điều tra cũng như kiểm sát hoạt động điều tra, không để xảy ra oan,
sai, khơng bỏ lọt tội phạm và kiến nghị hồn thiện chế định đình chỉ điều tra.
Với những đóng góp trên, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy, đóng góp
một phần nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS 2015.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đình chỉ điều tra trong tố tụng hình sự
Chương 2. Quy định pháp luật về đình chỉ điều tra và thực trạng hoạt động
đình chỉ điều tra

Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động điều tra


5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
TRONG TỚ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của chế định đình chỉ điều tra trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm đình chỉ điều tra
BLTTHS chỉ quy định căn cứ, thẩm quyền đình chỉ điều tra nhưng không quy
định thế nào là “đình chỉ điều tra”. Ở phương diện nghiên cứu khoa học, các tác giả
cũng có những quan điểm khác nhau về khái niệm “đình chỉ điều tra”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, đình chỉ có nghĩa là “ngưng hoặc làm cho phải
ngưng lại (trong một thời gian hay mãi mãi)”1.
Theo tác giả Đinh Văn Quế: “Đình chỉ điều tra là quyết định của CQĐT
chấm dứt một giai đoạn tố tụng hình sự (giai đoạn điều tra) đối với vụ án hoặc đối
với một hoặc một số bị can trong vụ án”2
Theo tác giả Nguyễn Sao Mai: “Đình chỉ vụ án trong tố tụng hình sự là việc
cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định chấm dứt hoạt động tiến hành tố tụng đối
với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có những căn cứ theo luật định”3.
Theo Bình luận khoa học BLTTHS của tác giả Nguyễn Đức Mai: “Đình chỉ
điều tra là kết thúc một quá trình điều tra khi xuất hiện những lý do khách quan
theo quy định pháp luật nhưng khơng thể xử lý hình sự đối với người thực hiện
hành vi phạm tội (khi bị hại rút yêu cầu KTVA hình sự) hoặc do khả năng của
CQĐT, bằng các hoạt động điều tra không thể chứng minh được hành vi phạm tội
khi thời hạn điều tra đã hết và theo quy định pháp luật phải kết thúc các hoạt
động đó”4.
Tác giả Phạm Văn Tiến cho rằng “Đình chỉ điều tra là một trong hai hình

thức kết thúc hoạt động điều tra khi có những lý do và căn cứ theo quy định của
pháp luật”.5
Qua nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả thấy rằng:
Lưu Văn Hy (2008), Từ điển Tiếng Việt, Thanh niên, tr. 377.
Đinh Văn Quế (1997), “Đình chỉ điều tra của CQĐT”, Nhà nước và Pháp luật, Số 110, tr. 21.
3
Nguyễn Sao Mai (2016), Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 7.
4
Nguyễn Đức Mai (2019), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự (hiện hành), Chính trị Quốc gia, tr.
470 - 471.
5
Phạm văn Tiến, “Đình chỉ điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015”, />trao-doi-nghiep-vu/1260/dinh-chi-dieu-tra-theo-quy-dinh-cua-bltths-nam-2015.htm#.X0TAjCgzbIU, 25/8/2020.
1
2


6
Thứ nhất, mặc dù khái niệm đình chỉ điều tra được diễn đạt bằng nhiều cách
khác nhau nhưng đều có một đặc điểm chung là phản ánh bản chất của một hoạt
động tố tụng cụ thể của CQĐT khi có căn cứ pháp luật nhằm chấm dứt mọi hoạt
động điều tra, không tiếp tục hoặc không thể truy cứu trách nhiệm hình sự của
người phạm tội trong vụ án cụ thể.
Thứ hai, “đình chỉ điều tra” và “đình chỉ vụ án” là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau nhưng dễ gây nhầm lẫn.
Đình chỉ vụ án cũng là hình thức kết thúc giải quyết vụ án như đình chỉ điều
tra, nhưng việc kết thúc được thực hiện khi vụ án không ở giai đoạn điều tra nữa mà
đã chuyển qua giai đoạn truy tố (thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát)
hoặc xét xử (thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án). “Đình chỉ vụ án” mang nghĩa
rộng hơn so với “đình chỉ điều tra”.

Đình chỉ điều tra bao gồm: đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra đối với
bị can. Việc đình chỉ điều tra vụ án đương nhiên dẫn đến hệ quả đình chỉ điều tra bị
can nhưng việc đình chỉ điều tra bị can khơng có nghĩa là sẽ đình chỉ điều tra vụ án.
Khi truy cứu trách nhiệm hình sự một người bởi “Quyết định KTBC” thì khi đình
chỉ điều tra vụ án, CQĐT cũng phải thể hiện bằng một quyết định tố tụng là “Quyết
định đình chỉ điều tra đối với bị can” để có cơ sở rõ ràng cho thấy việc giải phóng
trách nhiệm hình sự đối với bị can, nhất là trong trường hợp khởi tố oan, sai hoặc bị
can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Mặt khác, việc đình chỉ
điều tra bị can là độc lập với đình chỉ điều tra vụ án. Một vụ án có thể có một hoặc
nhiều quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can nhưng có thể khơng có quyết định
đình chỉ điều tra vụ án (vụ án đờng phạm hoặc vụ án có nhiều bị can).
Thứ ba, CQĐT có thể chấm dứt hoạt động điều tra bằng một trong hai cách: đề
nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Đối với việc đề nghị Viện kiểm sát
truy tố, có thể chỉ làm chấm dứt tạm thời hoạt động điều tra (nếu sau này Viện kiểm sát
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bở sung thì hoạt động điều tra lại được tiếp tục) nhưng việc
đình chỉ điều tra sẽ làm chấm dứt vĩnh viễn mọi hoat động điều tra đối với vụ án đó.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về đình chỉ
điều tra như sau: Đình chỉ điều tra là chấm dứt vĩnh viễn hoạt động điều tra đối với
vụ án hoặc bị can, do CQĐT thực hiện, trừ khi vụ án phục hồi điều tra.
1.1.2. Mục đích của đình chỉ điều tra
Điều tra là một q trình phức tạp bao gờm nhiều hoạt động tố tụng được
thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Đánh dấu sự bắt đầu quá trình điều tra


7
là quyết định khởi tố VAHS và kết thúc là Kết luận điều tra VAHS. Kể từ khi có
quyết định KTVA, CQĐT sẽ tiến hành các hoạt động điều tra để thu thập tài liệu,
chứng cứ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và chứng minh tội phạm.
BLTTHS quy định cho CQĐT một thời hạn nhất định để tiến hành điều tra vụ án.
Trong thời hạn này, nếu CQĐT chứng minh được người thực hiện tội phạm thì sẽ

tiến hành KTBC, chuyển đến Viện kiểm sát phê chuẩn để tiếp tục điều tra, xử lý
theo quy định pháp luật. Bất kỳ thời điểm nào trong quá trình điều tra cho thấy có
căn cứ pháp lý để đình chỉ điều tra thì CQĐT phải tiến hành đình chỉ điều tra. Đình
chỉ điều tra có thể xuất phát từ những lý do khác nhau như: việc xử lý trách nhiệm
hình sự khơng cịn cần thiết; hoặc bị hại hoặc người đại diện của họ đã rút yêu cầu
khởi tố; hoặc vì mục đích khoan hờng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm
tội chưa thành niên, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; hoặc đã hết thời
hạn điều tra nhưng cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được bị can đã
thực hiện tội phạm… nhưng đều hướng đến mục đích bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
và các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Cụ thể là:
Một là, hướng tới lợi ích chung của xã hội, vừa có lợi cho người phạm tội,
vừa có lợi cho cộng đờng, tiết kiệm chi phí, cơng sức của Nhà nước trong công tác
điều tra, xử lý tội phạm. Vì vậy, khơng cần thiết truy cứu trách nhiệm hình sự
những hành vi mà trong quá trình điều tra có sự thay đởi về chính sách, pháp luật,
làm cho hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa. Có thể tại thời điểm
thực hiện hành vi phạm tội và thời điểm CQĐT khởi tố, hành vi này là tội phạm, là
nguy hiểm cho xã hội nhưng trong thời gian điều tra, Nhà nước đã thay đổi chính
sách pháp luật mà hành vi đó khơng cịn bị coi là tội phạm thì việc xử lý trách
nhiệm hình sự đối với những trường hợp này khơng cịn cần thiết. Bởi lẽ, mục đích
của việc truy cứu trách nhiệm hình sự là để xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, giáo dục moị người ý thức tuân theo
pháp luật. Một khi hành vi khơng cịn nguy hiểm cho xã hội thì việc xử lý trách
nhiệm hình sự cũng khơng cịn tác dụng.
Hai là, thực hiện chính sách khoan hờng, nhân đạo của Nhà nước đối với
người phạm tội. Không phải mọi trường hợp đều xử lý tới cùng trách nhiệm hình sự
của người phạm tội mà vì một số lý do khách quan, trong một số trường hợp cụ thể,
mặc dù hành vi phạm tội là nguy hiểm cho xã hội nhưng người phạm tội khơng cịn
nguy hiểm cho xã hội nữa (mắc bệnh hiểm nghèo) hoặc người phạm tội có đóng
góp tích cực, lập cơng lớn, có cống hiến đặc biệt cho công tác điều tra, phát hiện và



8
xử lý tội phạm, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì có thể được đình chỉ điều
tra. Hay trường hợp có quyết định đại xá của Quốc hội, người phạm tội cũng đương
nhiên được đình chỉ điều tra, miễn trách nhiệm hình sự. Điều này thể hiện rõ tinh
thần nhân đạo trong chính sách pháp luật Việt Nam, phù hợp với nhiệm vụ của
BLTTHS, bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tở chức, cá nhân nhưng cũng khoan hờng, tạo điều kiện cho người phạm
tội có cơ hội làm lại cuộc đời, ý thức được nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và tiếp tục
cống hiến cho xã hội. Đồng thời, qua đó cũng giáo dục chung đối với xã hội về
trách nhiệm trong công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, ý thức được sự khoan
hờng của pháp luật để chủ động tố giác tội phạm, tự thú, đầu thú, phối hợp với
CQĐT để hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.
Ba là, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với ý chí, nguyện vọng của bị
hại. Một số tội phạm nghiêm trọng do vơ ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, nếu
người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
và được người hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự thì có thể
được đình chỉ điều tra. Hay trong các trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại, khi bị
hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ. Mục
đích chính của việc đình chỉ điều tra trong các trường hợp này là để thể hiện sự tôn
trọng của pháp luật đối với quyết định của người bị hại, do họ là người chịu hậu quả
trực tiếp từ hành vi phạm tội. Khi hậu quả của tội phạm đã được khắc phục, mâu
thuẫn xã hội khơng cịn thì khơng cần thiết phải tiếp tục điều tra và áp dụng hình phạt.
Bốn là, thực hiện trách nhiệm của Nhà nước và cơ quan tiến hành tố tụng
trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách
nhiệm xử lý tội phạm kịp thời, thu thập chứng cứ, xác minh sự thật khách quan của
vụ án trong thời hạn điều tra nhất định, trường hợp quá trình điều tra có căn cứ xác
định khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm; hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được

bị can đã thực hiện tội phạm thì CQĐT phải đình chỉ điều tra. Điều này thể hiện tính
cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng trong công tác điều tra, xử lý tội phạm.
Năm là, thực hiện nhiệm vụ của BTTHS dựa trên nguyên tắc xử lý đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội.


9
1.1.3. Ý nghĩa của chế định đình chỉ điều tra trong điều tra vụ án hình sự
Qua thực hiện các mục đích nêu trên, việc đình chỉ điều tra thực tế đã mang
lại ý nghĩa tích cực cho cơng tác điều tra, xử lý tội phạm. Để có được kết luận tra
cho một vụ án, CQĐT phải tiến hành rất nhiều thủ tục tố tụng cũng như mất nhiều
thời gian, cơng sức và chi phí. Ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân, CQĐT phải tiến hành xử lý đơn,
xác minh thông tin ban đầu và thụ lý tin báo. Theo quy định tại Điều 147 BLTTHS,
trong thời gian từ 20 ngày cho đến 04 tháng, CQĐT sẽ tiến hành các biện pháp
nghiệp vụ (lấy lời khai, thu thập tài liệu, thông tin liên quan, trưng cầu giám định,
định giá tài sản…) để xác minh có hay khơng có sự việc phạm tội mới có thể quyết
định việc KTVA, bắt đầu các hoạt động điều tra.
Quyết định khởi tố VAHS là văn bản đánh dấu sự kích hoạt các hoạt động
điều tra ở giai đoạn điều tra. Căn cứ quy định pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự
kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát, CQĐT sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án, phát
hiện và chứng minh tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời, xác minh
các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra và trên
cơ sở đó quyết định đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Theo quy
định tại Điều 172 BLTTHS 2015, thời hạn điều tra của CQĐT khơng bị giới hạn
mức tối thiểu (có nghĩa là kết thúc điều tra càng sớm càng tốt, tùy vào loại tội phạm
và mức độ phức tạp của từng vụ án cụ thể), nhưng giới hạn mức tối đa ít nhất cũng

là 02 tháng (tội phạm ít nghiêm trọng) và trong một số trường hợp đặc biệt có thể
kéo dài đến 24 tháng (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh quốc gia).
Điều này cho thấy công sức và tiền của mà Nhà nước bỏ ra cho hoạt động điều tra là
rất lớn. Trong khi đó, hoạt động điều tra còn tác động trực tiếp đến nhiều đối tượng,
gây ảnh hưởng đến thời gian, tâm lý, đời sống bình thường của cá nhân, cơ quan, tở
chức. Do vậy, nếu có đủ căn cứ đình chỉ điều tra thì việc áp dụng là hết sức cần
thiết. Bởi lẽ, khi đình chỉ điều tra, các quy trình tố tụng sau giai đoạn điều tra cũng
hiển nhiên được dừng lại, Viện kiểm sát sẽ không phải tiến hành các thủ tục truy tố
và Tịa án khơng cần tiến hành thủ tục xét xử.
Việc đình chỉ điều tra mang đến những ý nghĩa thực tế sau đây:
- Thiết lập công bằng xã hội: Với người bị hại, đình chỉ điều tra là cơ sở quan
trọng để khẳng định và chứng minh rằng có hay khơng hành vi phạm tội đã diễn ra
với họ, hành vi đó có phải chịu hậu quả pháp lý hay khơng. Cịn với bị can, quyết


10
định đình chỉ điều tra chứng minh họ không vi phạm pháp luật, hoặc có vi phạm
nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, được nhận sự khoan hờng của pháp luật.
Việc đình chỉ điều tra được áp dụng như nhau khi có căn cứ luật định, áp dụng cho
mọi trường hợp, mọi đối tượng, khơng phân biệt vụ án có bị can, bị hại, người liên
quan là ai, nam hay nữ, giàu hay nghèo, dân tộc, tôn giáo nào.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân: Hoạt động điều tra ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân - là những giá trị xã hội cao nhất
được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ. Hoạt động điều tra ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống và sinh hoạt hằng ngày của người bị điều tra, bị can, bị hại và cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác có liên quan, nhất là những vụ án có bị can bị tạm giam.
Chính vì vậy, việc đình chỉ điều tra đúng căn cứ mang lại ý nghĩa to lớn và hết sức
thiết thực. Khơng gì q giá hơn với người đang bị tạm giam khi biết mình được
trả tự do. Với người đang là nghi phạm, việc đình chỉ do “khơng có sự việc phạm
tội” là thực sự quan trọng để giải thoát mọi lo lắng, phiền phức xung quanh. Với

người bị hại, việc đình chỉ điều tra tuy gây bức xúc trong một số trường hợp nhất
định do xung đột mục đích với bị can, nghi phạm nhưng cũng có thể giúp giải tỏa
tâm lý nếu như bị hại đã tha thứ cho bị can hoặc cảm thấy đã có sự cơng bằng nhất
định, khơng cần tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thực hiện nguyên tắc “suy đoán vơ tội” trong tố tụng hình sự: Đình chỉ
điều tra đảm bảo được tính khách quan của vụ án, khắc phục định kiến của các cơ
quan tiến hành tố tụng đối với bị can, nghi phạm, chủ quan cho rằng họ là người
phạm tội, dẫn đến trong quá trình giải quyết vụ án chỉ thu thập chứng cứ buộc tội
mà bỏ qua chứng cứ gỡ tội. Việc đình chỉ điều tra còn khắc phục sai lầm xảy ra
trong quá trình nhận thức, đánh giá các tình tiết khách quan của vụ án. Khi không
đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội, cơ quan tiến hành tố tụng có đủ cơ sở
pháp lý để mạnh dạn đình chỉ điều tra, kết luận người bị buộc tội khơng có tội.
Đình chỉ điều tra đúng căn cứ, kịp thời chính là biện pháp tránh xảy ra oan, sai
trong tố tụng hình sự, đảm bảo được sự cơng bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân.
- Phản ánh chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo
trong luật hình sự Việt Nam: Điều này thể hiện trong thực tiễn đấu tranh và phịng
chống tội phạm. Khơng phải bất kỳ trường hợp nào người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
Có những trường hợp phạm tội nhưng q trình điều tra xét thấy khơng cần thiết xử


11
lý trách nhiệm hình sự vẫn đáp ứng được cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
và giáo dục, cải tạo người phạm tội thì CQĐT có thể đình chỉ điều tra. Đình chỉ điều
tra cũng cho thấy sự phân hóa trách nhiệm hình sự, mức độ phạm tội tới đâu sẽ bị
xử lý tương ứng tới đó. Hầu hết các trường hợp đình chỉ do miễn trách nhiệm hình
sự chỉ áp dụng với loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng do vô ý, hoặc
người phạm tội, hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội, hoặc người
phạm tội tự thú, có đóng góp tích cực cho cơng tác điều tra, lập cơng, có cống hiến

đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
- Mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc: Việc đình chỉ điều tra tăng cường ý
thức pháp luật đối với cơng dân. Đó là cơ sở để nhân dân có niềm tin vào pháp luật,
tin vào cơ quan hành pháp, tư pháp. Đó là minh chứng cho thấy mọi hành vi vi
phạm pháp luật hình sự đều phải chịu chế tài, tuy nhiên, tùy thuộc vào mức độ vi
phạm, hành vi đó có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự. Hành vi nào
khơng phải là tội phạm hoặc cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được
người phạm tội thì pháp luật sẽ trả lại cơng bằng cho những người có liên quan.
- Chống lạm quyền trong tố tụng hình sự: Đình chỉ điều tra thúc đẩy cơ
quan tiến hành tố tụng ý thức trách nhiệm của mình trong cơng tác điều tra, khơng
lơ là, chủ quan, chây ì, kéo dài thời gian giải quyết vụ án làm ảnh hưởng đến
quyền của bị can, bị hại và những người có liên quan, xác lập giới hạn thời gian
cần thiết của quá trình điều tra. Khi hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì CQĐT phải đình chỉ điều tra. Đây
cũng là một trong những trường hợp thuộc trách nhiệm bời thường của Nhà nước
nếu như có bị can bị khởi tố. Do đó, CQĐT sẽ hết sức thận trọng trong công tác
điều tra và chứng minh tội phạm đúng thời hạn điều tra, tránh khởi tố tùy tiện hay
“bỏ quên” hồ sơ vụ án.
- Chứng minh vai trò quan trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra: bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tở chức, cá nhân, bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất và cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để
xây dựng và hoàn thiện một số chế định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự khác
như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, khởi tố, điều tra,… để nâng cao hiệu quả cơng
tác đấu tranh phịng và chống tội phạm.


12
1.2. Khái qt q trình hồn thiện chế định đình chỉ điều tra trong tố

tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình
sự 1988
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hờ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu cột
mốc lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, là cơ sở khai sinh ra hàng loạt thiết chế
của một Nhà nước mới được thiết lập. Trong thời kỳ này, rất ít các quy định điều
chỉnh hoạt động tố tụng hình sự. Hầu hết các văn bản pháp luật đều có nội dung đơn
giản. Tuy nhiên, đã có những quy định pháp luật đầu tiên mang bản chất của việc
“đình chỉ”. Mặc dù điều này chỉ được thể hiện sơ sài nhưng đã trở thành nền tảng
cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt
Nam sau này. Cụ thể:
- Sắc lệnh số 52 ngày 20/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa về xá tội các phạm nhân là văn bản pháp luật hình sự đầu tiên quy
định về xá tội, xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/8/1945, theo đó“những
tội được xá miễn đều coi như không phạm bao giờ; quyền cơng tố sẽ tiêu huỷ,
những chính hình và phụ hình mà tồ án đã tun đều bỏ hết”. Như vậy, việc xá
tội đã xuất hiện từ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa được thành lập. Đây
là biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước đối với hàng loạt người phạm tội,
mang ý nghĩa chính trị xã hội to lớn, chỉ được ban hành vào dịp có những sự kiện
chính trị xã hội quan trọng của đất nước. Xá tội là nền tảng của quy định pháp luật
về đại xá, đặc xá ngày nay, đồng thời, “đại xá” cũng là một trong những căn cứ để
đình chỉ điều tra.
- Sắc lệnh số 223 ngày 27/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cơng hịa ghi nhận: “Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo
giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đã đưa hối lộ là vì bị
cơng chức cưỡng bách ước hứa hay là dùng cách trả nguy thôi người ấy được miễn
hết các tội”. Trong văn bản này thì việc miễn trách nhiệm hình sự được sử dụng với
tên gọi “miễn hết các tội”. Mặc dù không quy định chi tiết nhưng nội dung Sắc lệnh
có thể hiểu là các cơ quan có thẩm quyền được đình chỉ điều tra trong trường hợp

này. Quy định này vẫn còn nguyên vẹn giá trị, được Nhà nước ta kế thừa, phát triển
cho đến hôm nay.


13
- Tại Điểm d Điều 15 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 quy
định khi kiểm sát việc điều tra, Viện kiểm sát có quyền “miễn tố” can phạm, “đình
cứu” các VAHS theo quy định của pháp luật.
- Tại Thông tư liên tịch số 427/TTLB ngày 28/6/1963 của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Bộ Công an về việc quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ
công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an quy định cơ quan
Cơng an có quyền “đình cứu” vụ án, sau khi ra quyết định đình cứu vụ án phải kịp
thời gửi đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có kèm theo tài liệu chứng minh để
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát. Khi nhận được bản cáo trạng và hồ sơ vụ án, Viện
kiểm sát có trách nhiệm thẩm tra nhanh chóng và cũng có quyền “miễn tố bị can”
hoặc “đình cứu vụ án”.
- Tại Khoản 5 Điều 10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981,
trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có quyền “miễn tố, đình
chỉ điều tra”.
- Tại Thông tư liên tịch số 1-TT/LB ngày 23/01/1984 của Bộ Nội vụ - Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về quan hệ giữa hai ngành kiểm sát và công an trong công
tác điều tra và kiểm sát điều tra có quy định: Sau khi kết thúc điều tra, các vụ án
thuộc diện miễn tố hoặc đình chỉ điều tra, cơ quan Công an đều làm bản kết luận
điều tra vụ án gửi sang viện kiểm sát kèm theo hờ sơ đã hồn thành đầy đủ về mặt
chứng cứ cũng như về mặt thủ tục tố tụng hình sự. Việc làm cáo trạng miễn tố, đình
chỉ điều tra vụ án (nói chung đối với các loại án) đều do Viện kiểm sát quyết định
và chịu trách nhiệm, Viện kiểm sát cần nghiên cứu kỹ hồ sơ và các ý kiến đề xuất
của cơ quan Cơng an trước khi quyết định.
Như vậy, có thể thấy lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 1988 đã có rất nhiều quy định mang bản chất của việc “đình chỉ điều tra”. Quy

định đó được thể hiện bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như “xá tội”, “xá miễn”,
“miễn hết các tội”, “đình cứu”, “miễn tố”, “đình chỉ”, thông qua nhiều thể loại văn
bản pháp luật như Sắc lệnh, Luật, Thông tư. Từ những văn bản đầu tiên không quy
định thẩm quyền thuộc cơ quan nào thì sau dần đã quy định thẩm quyền đình cứu
hoặc miễn tố cho Viện kiểm sát, rồi đến cơ quan Công an và sau cùng là sự phối
hợp giữa hai cơ quan này. Nhìn chung, các quy định đã thể hiện sự phát triển từng
bước của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đình chỉ điều tra qua từng thời kỳ.
Mặc dù có sự thay đởi qua thời gian nhưng bản chất của những quy định đó vẫn vẹn
nguyên giá trị, được chọn lọc, kế thừa và phát triển cho đến hôm nay.


14
1.2.2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
BLTTHS 1988 được xem là văn bản pháp luật có tính đột phá, toàn diện so với
các văn bản pháp luật trước đây trong việc điều chỉnh các hoạt động tố tụng hình sự.
Bộ luật ghi nhận rõ tinh thần kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự của Nhà
nước ta từ Cách mạng tháng Tám ngay trong “Lời nói đầu”. Lần đầu tiên trong lịch
sử, các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng hình sự được thể hiện một cách chi tiết, rõ
ràng trong cùng một văn bản pháp luật, đặc biệt là về vấn đề đình chỉ điều tra.
Các căn cứ đình chỉ điều tra được tích hợp tại Điều 139 BLTTHS 1988,
CQĐT đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau đây:
- Một là, khi có một trong những căn cứ tại Điều 89 BLHS 1985: (1) khơng
có sự việc phạm tội; (2) hành vi không cấu thành tội phạm; (3) người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; (4) người mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết đình đình chỉ vụ án có hiệu lực
pháp luật; (5) đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; (6) Tội phạm đã được
đại xá; (7) người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác.
Đây là những căn cứ khơng được KTVA hình sự. Khi đã khởi tố, điều tra rồi
mới phát hiện thuộc một trong bảy trường hợp trên thì bắt buộc CQĐT phải đình chỉ

điều tra. Quy định này xác định rõ các trường hợp không được phép tiếp tục điều tra, vì
điều đó khơng cần thiết và khơng mang lại giá trị tích cực cho xã hội, thậm chí là tiêu
cực nếu như do sai lầm của CQĐT, Viện kiểm sát về đánh giá chứng cứ, xác định sự
thật khách quan và chứng minh tội phạm trong quá trình khởi tố, điều tra VAHS. Sai
lầm đó phải được khắc phục bằng cách dừng lại ngay tức khắc và vĩnh viễn các hoạt
động điều tra, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có liên quan. Quy
định này cũng thể hiện sự nhất quán với các quy định khác trong BLHS và BLTTHS
thời kỳ này, cụ thể là các nguyên tắc xử lý tội phạm và nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự. Để pháp luật đi vào cuộc sống, trước tiên phải hướng đến tính cơng bằng và
quy định nêu trên là điển hình cho sự cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với
việc khởi tố, điều tra VAHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
- Hai là, đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm.
Thời hạn điều tra là khoảng thời gian giới hạn mà pháp luật cho phép CQĐT
tiến hành các hoạt động điều tra để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, chứng
minh người thực hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội.


15
Nhằm tránh trường hợp hồ sơ vụ án bị chôn vùi, lãng qn thì pháp luật buộc CQĐT
có trách nhiệm xúc tiến các hoạt động điều tra đối với từng vụ án cụ thể. Khi giới hạn
thời hạn điều tra, pháp luật cũng đã cân nhắc thời hạn dài hay ngắn, được gia hạn bao
lâu phù hợp với từng loại tội phạm. Hết thời hạn này mà CQĐT vẫn không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì bắt buộc phải đình chỉ điều tra. Quy định
này hoàn tồn phù hợp với thực tế và bảo đảm tính công bằng trong xã hội. Nếu thực
sự bị can đã thực hiện tội phạm nhưng hết thời hạn điều tra, CQĐT vẫn không chứng
minh được bị can là người thực hiện thì ngun nhân chính xuất phát từ năng lực,
trách nhiệm của CQĐT, không phải là từ bị can. Việc CQĐT không chứng minh
được bị can đã thực hiện tội phạm cho thấy có dấu hiệu oan sai, dù 1% vẫn là oan sai.
Bởi lẽ, trách nhiệm hình sự liên quan đến quyền nhân thân của con người, khơng có

gì quý giá hơn. Nếu CQĐT không chứng minh được bị can là người thực hiện tội
phạm thì phải khơi phục hồn tồn quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
- Ba là, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại
đoạn 1 khoản 1 Điều 48 BLHS 1985 do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi
phạm tội hoặc người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Một số quy định trong BLHS 1985 là căn cứ để đình chỉ điều tra nhưng không
được quy định tương ứng trong BLTTHS 1988. Cụ thể là các trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự quy định tại BLHS 1985: Điều 16 áp dụng đối với người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội; đoạn 2 khoản 1 Điều 48 áp dụng đối với trường hợp
trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc góp
phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả của tội phạm; và khoản 3 Điều 59 BLHS 1985 áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại
khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình và tổ chức xã hội nhận
trách nhiệm giám sát, giáo dục. BLTTHS 1988 lại khơng có quy định về trình tự, thủ
tục đình chỉ điều tra đối với các trường hợp này. Ai đình chỉ và đình chỉ như thế nào?
Thực tế, do không quy định nên các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng không thống
nhất. Điều này cho thấy BLTTHS 1988 chưa chặt chẽ, chưa bao quát hết các trường
hợp được quy định trong BLHS 1985 – BLHS tương ứng của giai đoạn này. Đó cũng
chính là lý do BLTTHS liên tục được sửa đổi trong thời gian này. Chỉ sau hai năm
thực hiện BLTTHS 1988 thì BLTTHS đã được sửa đởi năm 1990 và tiếp tục sửa đổi
năm 1992. Liên quan đến vấn đề đình chỉ, Luật số 5-L/CTN ngày 22/12/1992 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS đã bổ sung Điều 143b để Viện


16
kiểm sát có thẩm quyền đình chỉ vụ án với các trường hợp quy định tại Điều 16,
khoản 1 Điều 48 và khoản 3 Điều 59 của BLHS 1985.
Ngoài ra, cịn có trường hợp BLTTHS 1988 quy định phải đình chỉ nhưng
không quy định thẩm quyền thuộc về ai và thủ tục đình chỉ như thế nào. Cụ thể,

Điều 88 BLTTHS 1988 quy định các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại (áp dụng đối với một số tội danh cụ thể như “cố ý gây thương tích”, “hiếp dâm”,
“cưỡng dâm”, “vu khống”,…), mà người bị hại rút u cầu trước ngày mở phiên tịa
thì vụ án phải được đình chỉ. Điều luật cũng quy định trong trường hợp cần thiết,
tuy người bị hại rút yêu cầu, Viện kiểm sát hoặc Tịa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành
tố tụng đối với vụ án. Tinh thần của quy định này để cho Viện kiểm sát, Tòa án có
quyền tùy nghi cân nhắc những hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải áp dụng hình
phạt để răn đe, giáo dục người phạm tội và phục vụ mục đích đấu tranh phịng,
chống tội phạm chung trong tồn xã hội. Tuy nhiên, ai đình chỉ và đình chỉ như thế
nào thì BLTTHS 1988 khơng có quy định. Kể cả sau khi đã được sửa đổi, bổ sung
vào năm 1992 thì vẫn khơng có quy định thẩm quyền đình chỉ đối với các trường
hợp rút khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thuộc về cơ quan nào. Đặc biệt, ở giai
đoạn điều tra, nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì sẽ xử lý như thế nào. Đây là
lỗ hổng lớn của BLTTHS 1988 về đình chỉ điều tra.
Hỗ trợ công tác tư pháp thời kỳ này, Hội đờng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối
cao đã ban hành Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLHS. Theo đó, Nghị quyết hướng dẫn: phân biệt miễn
trách nhiệm hình sự với khơng có trách nhiệm hình sự; thẩm quyền quyết định miễn
trách nhiệm hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố thuộc về Viện kiểm sát, trong
giai đoạn xét xử thuộc về Tòa án. Nghị quyết cũng hướng dẫn miễn trách nhiệm hình
sự tại khoản 1 Điều 48 BLHS 1985 áp dụng trong trường hợp do sự chuyển biến của
tình hình (chính trị, kinh tế, xã hội) nên tội phạm khơng cịn nguy hiểm đáng kể cho
xã hội nữa. Tuy nhiên, khi nào được xem là có sự chuyển biến về chính trị, kinh tế, xã
hội vẫn là dấu chấm hỏi, dẫn đến tồn tại những cách hiểu và áp dụng khác nhau trong
thực tiễn công tác điều tra. Năm 1996, qua công tác kiểm tra nghiệp vụ tại hai thành
phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hờ Chí Minh cho thấy số vụ án đình chỉ điều tra
khơng đúng pháp luật cịn chiếm tỷ lệ cao (hơn 50%), chủ yếu tập trung ở việc xác
định không đúng trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 48
BLHS 1985 được quy định tại khoản 3 Điều 139 BLTTHS 19886.
6


Đinh Văn Quế (1997), tlđd (2), tr.23.


17
Về trình tự, thủ tục đình chỉ điều tra do CQĐT thực hiện, BLTTHS 1988
cũng đã có những quy định cơ bản thích ứng với cơng tác tư pháp thời kỳ này.
Khoản 2 Điều 139 BLTTHS 1988 quy định yêu cầu về hình thức của Quyết định
đình chỉ điều tra. Theo đó, CQĐT phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý
do đình chỉ điều tra, việc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật đã tạm giữ (nếu
có) và những vấn đề khác có liên quan. Bên cạnh đó, CQĐT phải gửi Quyết định
đình chỉ điều tra cho Viện kiểm sát cùng cấp và báo ngay cho bị can, người bị hại
biết. Đây là điểm khác biệt nổi bật so với những văn bản pháp luật trước đây về
đình chỉ điều tra. Quy định này mang ý nghĩa đặc biệt sâu sắc đối với bị can và
người bị hại, nhất là trong những vụ án có bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn,
mà chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là biện pháp tạm giam. Quyết định đình chỉ với
đầy đủ các nội dung trên có ý nghĩa như chìa khóa giải quyết mọi vấn đề của bị can,
đặc biệt là trong các trường hợp đình chỉ với lý do khơng có sự việc phạm tội, hành
vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra nhưng CQĐT không
chứng minh được bị can đã thực hiện hành vi phạm tội.
Cũng tại điều này, pháp luật quy định rõ nếu trong một vụ án có nhiều bị can
mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình
chỉ điều tra đối với từng bị can. Đây cũng được xem là quy định gỡ bỏ những khó
khăn trong q trình đình chỉ, miễn tố trước đây. Khi đất nước hồn tồn giải
phóng, tình hình kinh tế, xã hội ngày càng phát triển và có xu hướng tồn cầu hóa,
các loại tội phạm có xu hướng tăng và tình hình trật tự xã hội ngày càng phức tạp,
việc một bị can phạm nhiều tội hoặc một vụ án với nhiều bị can ngày càng gia tăng.
Đáp ứng tình hình này, pháp luật cho phép đình chỉ điều tra độc lập với từng bị can
mà khơng làm ảnh hưởng đến q trình điều tra các bị can khác trong cùng vụ án.
Điều này vừa có ý nghĩa cho hoạt động điều tra, giảm bớt chi phí, cơng sức cho

Điều tra viên mà vừa mang lại ý nghĩa tích cực cho bị can được đình chỉ. Thay vì
phải đợi hồn tất q trình điều tra, truy tố, xét xử cùng với các bị can khác để Tịa
án quyết định đình chỉ, thì bị can được đình chỉ ngay trong q trình điều tra rõ ràng
là có lợi hơn rất nhiều.
1.2.3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 2003 là sản phẩm của sự kế thừa những quy định pháp luật trước đó
về đình chỉ điều tra, kết hợp với thực tiễn công tác tố tụng ngành tư pháp từ khi áp
dụng BLTTHS 1988 và các lần sửa đổi, bổ sung. BLTTHS 2003 đã khắc phục những
thiếu sót của những văn bản pháp luật trước đó, hoàn thiện các quy định về đình chỉ


18
điều tra. Các căn cứ đình chỉ điều tra được quy định chặt chẽ, nhất quán khi dẫn chiếu
đầy đủ, chính xác các trường hợp cần thiết đình chỉ trong BLHS tương ứng (BLHS
1999), thể hiện kỹ năng lập pháp đã được cải thiện so với các văn bản pháp luật trước.
Về căn cứ đình chỉ điều tra:
Khoản 2 Điều 164 BLTTHS 2003 quy định đầy đủ các trường hợp CQĐT
đình chỉ điều tra bao gờm:
- Một là, khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật này. Nghĩa là,
nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trong giai đoạn điều tra thì CQĐT phải
đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can. Nếu có căn cứ xác định người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì
dù có đơn rút u cầu thì CQĐT vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
BLTTHS 2003 đã điều chỉnh chi tiết và cụ thể thẩm quyền đình chỉ của CQĐT đối
với trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, thể hiện tính nghiêm minh và
công bằng của pháp luật đối với những trường hợp người bị hại bị bị can, gia đình
bị can đe dọa, trả thù, gây áp lực buộc họ rút yêu cầu khởi tố.
BLTTHS 2003 đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn về việc rút yêu cầu so với
Điều 88 BLTTHS 1988. Chủ thể rút yêu cầu khởi tố được thay thế bằng “người đã
yêu cầu khởi tố” chứ không còn là “người bị hại” như BLTTHS 1988. Thuật ngữ

mới này bao quát cho cả các trường hợp mà người yêu cầu khởi tố không phải là
người bị hại. Trong những vụ án mà bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần cần có người đại diện hợp pháp (ơng, bà, cha,
mẹ...) yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi tố.
Đoạn 2 khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 cũng quy định rõ người bị hại đã
rút u cầu khởi tố thì khơng có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị
ép buộc, cưỡng bức. Đây là quy định mới bổ sung so với BLTTHS 1988, phù hợp
với thực tế và phù hợp với những quy định pháp luật khác về tính chịu trách nhiệm
cho hành vi của chủ thể trong quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội. Một quyết định,
hành vi do chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thực hiện thì khơng được chối
bỏ. Tuy nhiên, chủ thể rút yêu cầu tại đoạn 2 khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 lại
bị bó hẹp hơn so với đoạn 1, cụ thể, người khơng có quyền yêu cầu lại ở đây xác
định là “người bị hại” chứ không phải là “người đã yêu cầu khởi tố”. Có thể thấy
đây là lỗi sử dụng thuật ngữ khơng thống nhất, là thiếu sót về mặt kỹ thuật trong
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp về mặt nội dung
của quy định pháp luật. Do đó, quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 105 BLTTHS


19
2003 có thể hiểu thành: chỉ có người bị hại đã rút u cầu khởi tố mới khơng có
quyền u cầu lại, còn người đại diện hợp pháp của người bị hại đã rút u cầu khởi
tố thì vẫn có quyền yêu cầu lại.
Những quy định về đình chỉ điều tra trong trường hợp người yêu cầu khởi tố
đã rút yêu cầu trong BLTTHS 2003 đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp tố
tụng hình sự nước ta. Tuy nhiên bộ luật này vẫn chưa dự trù được hết các khả năng
phát sinh trong quá trình áp dụng thực tế. Cụ thể, nếu vụ án có nhiều bị hại nhưng
chỉ có một hoặc hai bị hại rút yêu cầu, các bị hại còn lại vẫn yêu cầu khởi tố thì giải
quyết như thế nào?
Hai là, có một trong những căn cứ không được khởi tố VAHS quy định tại
Điều 107 BLTTHS 2003, gờm: (1) khơng có sự việc phạm tội; (2) hành vi không

cấu thành tội phạm; (3) người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến t̉i
chịu trách nhiệm hình sự; (4) người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc
quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; (5) đã hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự; (6) tội phạm đã được đại xá; (7) người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Những căn cứ trên được kế thừa hoàn toàn từ quy định tại Điều 89
BLTTHS 1988.
Ba là, khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 19, Điều 25
và khoản 2 Điều 69 của BLHS 1999 đối với: (1) người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội; (2) do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người
phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa; (3) trước khi hành vi phạm tội bị
phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội
phạm; (4) khi có quyết định đại xá; (5) người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm
trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được
gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Đây là quy định nhằm khắc phục những thiếu sót được phát hiện thơng qua
q trình áp dụng BLTTHS 1988 và các lần sửa đổi, bổ sung. Bộ luật năm 2003 đã
lấp đầy những lỗ hổng trước đó về căn cứ đình chỉ, cho phép CQĐT có thẩm quyền
đình chỉ khi căn cứ đình chỉ xuất hiện ngay trong giai đoạn điều tra.
Phạm vi được miễn trách nhiệm hình sự cũng được mở rộng hơn so với
BLHS 1985. Đối với căn cứ số (2) do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm
tội hoặc người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa thì khoản 1 Điều 25


×