Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

BÀI GIẢNG KHOA học đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.52 KB, 118 trang )

Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
MỤC LỤC
1. Khái niệm về đất và độ phì nhiêu 3
2. Nguồn gốc và thành phần cơ bản của đất 4
3. Ðất là cơ sở sinh sống và phát triển thực vật, là tư liệu sản xuất cơ bản của nông
nghiệp 5
4. Ðất là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái 5
1.2.1. Ðá mẹ và mẫu chất 7
1.2.2. Sinh vật 8
1.2.3. Khí hậu 10
1.2.4. Ðịa hình 10
1.2.5. Thời gian 11
1.2.6. Con người 11
1.3.1. Khoáng vật 12
1.3.2. Các loại đá hình thành đất (Đá mẹ) 16
2.3.1. Cấu tạo phẫu diện đất 30
2.3.2. Màu sắc đất 31
2.3.3. Chất mới sinh và chất lẫn vào 32
3.1. Keo đất 33
3.1.1. Khái niệm 33
3.1.2. Ðặc tính cơ bản của keo đất 34
3.1.3. Phân loại keo đất 36
3.1.4. Các loại keo sét trong đất 41
3.2. Khả năng hấp phụ của đất 46
3.2.1. Khái niệm chung 46
3.2.2. Các dạng hấp phụ của đất 46
3.2.3. Hấp phụ trao đổi ion 49
3.3. Ảnh hưởng của keo đất, khả năng hấp phụ đến tính chất đất và chế độ bón phân và
cải tạo đất 54
3.3.1. Quan hệ giữa keo đất với quá trình hình thành đất 54
3.3.2. Quan hệ giữa keo đất với lý tính đất 54


3.3.3. Quan hệ giữa keo đất với hoá tính đất 55
3.3.4. Quan hệ giữa khả năng hấp phụ của đất với chế độ bón phân và cải tạo đất 55
3.4. Biện pháp duy trì và nâng cao khả năng hấp phụ của đất 56
4.2. Các nguyên tố hoá học chính trong đất và khả năng cung cấp chúng cho cây 59
4.2.1. Silic trong đất 59
4.2.2. Nhôm trong đất 59
4.2.3. Sắt trong đất 60
4.2.4. Ca và Mg trong đất 60
4.2.5. Lưu huỳnh trong đất 61
4.2.6. Nitơ trong đất 61
4.2.7. Phospho (lân) trong đất 62
4.2.8. Kali trong đất 64
4.2.9. Nguyên tố vi lượng trong đất 64
4.3. Dung dịch đất 67
4.3.1. khái niệm chung 67
4.3.2. Ý nghĩa của dung dịch đất 67
4.3.3. Thành phần và nồng độ của dung dịch đất 68
4.4. Phản ứng chua của đất 69
4.4.1. Nguyên nhân gây chua cho đất 69
4.4.2. Các loại độ chua của đất 71
- 1 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
4.5 Phản ứng kiềm của đất 75
4.6 Phản ứng đệm của đất 76
4.6.1. Khái niệm 76
4.6.2. Nguyên nhân tạo nên tính đệm của đất 77
4.7. Phản ứng oxy hoá khử của đất 79
4.7.1. Khái niệmvề phản ứng oxy hoá khử 79
4.7.2. Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình oxy hoá khử 80
4.7.3. Ý nghĩa thực tiễn của phản ứng oxy hoá khử 81

5.1 Thành phần cơ giới 83
5.1.1. Khái niệm về cấp hạt cơ giới và thành phần cơ giới đất 83
5.1.2. Phân chia cấp hạt cơ giới 83
5.1.3. Thành phần và đặc tính của các cấp hạt cơ giới 84
5.1.4. Phân loại đất theo thành phần cơ giới 86
5.2 Một số tính chất vật lý cơ bản của đất 88
5.2.1. Tỷ trọng của đất 88
5.2.2. Dung trọng của đất 90
5.2.3. Ðộ xốp của đất 91
5.3. Một số tính chất cơ lý của đất 92
5.3.1. Tính liên kết của đất 92
5.3.2. Tính dính của đất 93
5.3.3. Tính dẻo của đất 93
5.3.4. Tính trương và tính co của đất 94
5.3.5. Sức cản của đất 95
6.1 Khái niệm, mục đích và yêu cầu của phân loại đất 97
6.2. Vài nét về sự phát triển của phân loại đất trên thế giới 98
a/ Trước Docuchaev 98
b/ Từ Docuchaev đến giữa thế kỷ XX 98
c/ Từ giữa thế kỷ XX đến nay 99
6.3. Phân loại đất theo phát sinh 99
6.3.1 Cơ sở của phương pháp 99
6.3.2 Nội dung phương pháp 100
6.4. Phân loại đất của Mỹ 102
6.4.1 Cơ sở của phương pháp 102
6.4.2 Nội dung của phương pháp 103
6.5. Phân loại đất theo FAO- UNESCO 108
6.5.1 Cơ sở của phương pháp 108
6.5.2 Nội dung của phương pháp 108
6.6. Phân loại đất ở Việt Nam 114

6.6.1. Tình hình công tác nghiên cứu phân loại ở Việt Nam 114
6.6.2 Cơ sở phân loại đất Việt Nam 115
6.6.3. Một số bảng phân loại đất 117
- 2 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
MỞ ĐẦU
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỔ NHƯỠNG
1. Khái niệm về đất và độ phì nhiêu
Trên mặt địa cầu có chỗ là một khối rắn chắc, có chỗ là bãi cát mênh mông hoang
mạc, có chỗ cây cối mọc xanh tươi bát ngát. Loài người gọi vùng thứ nhất là đá (nham
thạch), vùng thứ hai là sa mạc và vùng thứ ba là thổ nhưỡng. Như vậy thổ nhưỡng là đất
mặt tơi xốp của vỏ lục địa, có độ dầy khác nhau, có thể sản xuất ra những sản phẩm của
cây trồng. Nguồn gốc của đất là từ các loại "đá mẹ” nằm trong thiên nhiên lâu đời bị phá
huỷ dần dần dưới tác dụng của yếu tố lý học, hoá học và sinh học. Tiêu chuẩn cơ bản để
phân biệt giữa "đá mẹ" và đất là độ phì nhiêu, nếu chưa có độ phì nhiêu, thực vật thượng
đẳng chưa sống được thì chưa gọi là thổ nhưỡng.
Thổ nhưỡng học là khoa học nghiên cứu đất nhằm giải quyết những vấn đề quan
trọng của sản xuất xã hội có liên quan đến đất. Do yêu cầu sử dụng đất khác nhau, loài
người đã dùng các phương pháp nghiên cứu đất khác nhau và lích luỹ được rất nhiều kiến
thức về đất. Nhưng cũng có các nhận thức khác nhau về đất. Thí dụ đối với các công trình
xây dựng nhà cửa, đường sá, thuỷ lợi thì đất chỉ là nguyên liệu chịu lực cho nên các cán bộ
thuỷ lợi và xây dựng thường coi đất là một loại nguyên liệu, chỉ quan tâm đến các tính chất
vật lý và cơ lý của đất. Còn trong sản xuất nông nghiệp đất là cơ sở sinh sống và phát triển
cây trồng. Cây trồng có thể sống trên đất là nhờ độ phì nhiêu. Độ phì phát huy được tác
dụng nhờ các yếu tố bên trong của đất (môi trường tự nhiên của khu vực và yếu tố kỹ thuật
canh tác).
Muốn có nhận thức đúng đắn về đất trồng cần phải nắm vững quan điểm độ phì làm
trung tâm. Nhờ có độ phì mà đất trở thành đối tượng canh tác của loài người là tư liệu sản
xuất cơ bản của nông nghiệp và là cơ sở để thực vật sinh trưởng và phát triển. Bởi vì độ phì
nhiêu là khả năng của đất có thể cung cấp cho cây đồng thời và không ngừng cả nước lẫn

thức ăn", khả năng đó nhiều hay ít (tức độ phì cao hay thấp) do các tính chất lý học, hoá học
và sinh học đất quyết định; ngoài ra còn phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên và tác động của
con người.
Như vậy độ phì không phải là số lượng chất dinh dưỡng tổng số trong đất mà là khả
năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây nhiều hay ít. Ðó là một chỉ tiêu rất tổng hợp, là sự
phản ánh tất cả các tính chất của đất vì thế cần có quan điểm toàn diện. Ðã có nhiều quan
điểm khác nhau về độ phì đất. Ricacđô và các nhà khoa học phương Tây cho rằng: "độ phì
đất giảm dần". Các nhà Thổ nhưỡng Liên Xô (cũ) mà đại diện là Viliam thì cho rằng "độ
- 3 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
phì đất không ngừng tăng lên, không có đất nào xấu mà chỉ có chế độ canh tác tồi mà
thôi". Các Mác khi bàn về vấn đề địa tô đã chia độ phì đất làm 5 loại là: độ phì thiên nhiên,
độ phìnhân tạo, độ phì tiềm tàng, độ phì hiệu lực và độ phì kinh tế.
2. Nguồn gốc và thành phần cơ bản của đất
Các loại đá nằm trong thiên nhiên chịu tác dụng lý học, hoá học và sinh học dần
dần bị phá huỷ thành một sản phẩm được gọi là mẫu chất. Trong mẫu chất mới chỉ có các
nguyên tố hoá học chứa trong đá mẹ sinh ra nó, còn thiếu một số thành phần quan trọng
như chất hữu cơ, đạm, nước vì thế thực vật thượng đẳng chưa sống được. Trải qua một
thời gian dài nhờ tác dụng của sinh vật tích luỹ được chất hữu cơ và đạm, thực vật thượng
đẳng sống được, có nghĩa là đã hình thành thổ nhưỡng. Như vậy có thể nói nguồn gốc ban
đầu của đất là từ đá mẹ. Thí dụ ở nước ta có đất nâu đỏ trên đá bazan, đất nâu đỏ trên đá
vôi, đất vàng đỏ trên phiến thạch sét hoặc đá biến chất như phiến thạch Mica, Gơnai
Dù là đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đồng cỏ, thậm chí đất hoang đều gồm có
các thành phần cơ bản sau đây:
Chất vô cơ
- Chất rắn Chất hữu cơ
Thổ nhưỡng - Khe hở giữa các hạt Không khí
Nước
- Các loài sinh vật
Trong đó:

* Chất vô cơ do đá phá hủy tạo thành chiếm 95% trọng lượng hay 38% thể tích của
chất rắn.
* Chất hữu cơ do xác sinh vật phân huỷ chiếm dưới 5% trọng lượng hoặc 12% thể
tích chất rắn.
* Không khí một phần từ khí quyển nhập vào (O
2
+ N
2
) hoặc do đất sinh ra (CO
2

hơi nước).
* Nước chủ yếu do từ ngoài nhập vào, vì có hoà tan nhiều chất cho nên nước trong
đất thực chất là dung dịch đất.
* Sinh vật trong đất có nhiều loài như côn trùng, giun, nguyên sinh động vật, các
loài tảo và một số lượng rất lớn vi sinh vật.
Những thành phần trên có thể rất khác nhau về tỷ lệ phối hợp. Thí dụ trong đất than
bùn hàm lượng chất hữu cơ có thể tới 70-80%. Ngược lại trong đất cát, hoặc đất xói mòn
- 4 -
Không khí
Nước
Chất
vô cơ
Chất
hữu

Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
trơ sỏi đá không có thực bì che phủ thì hàm lượng chất hữu cơ chỉ có mấy phần nghìn mà
thôi. Không khí và nước trong đất cũng thay đổi rất nhiều bởi vì hai thành phần này tồn tại
trong các khe hở của đất, nó không những phụ thuộc độ chặt, độ xốp mà còn phụ thuộc độ

ẩm của đất. Cả hai thành phần này cộng lại có thể chiếm trên 50% thể tích đất.
Cần quan tâm đến thành phần sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật bởi vì hầu hết các quá
trình biến hoá phức tạp xảy ra trong đất đều có sự tham gia của vi sinh vật. Với nội dung
của giáo trình, ở đây chỉ đề cập đến ảnh hưởng của vi sinh vật đến đất.
3. Ðất là cơ sở sinh sống và phát triển thực vật, là tư liệu sản xuất cơ bản của nông
nghiệp
Ðặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp là tạo ra chất hữu cơ trong đó có sản
xuất thực vật. Trong cuộc sống thực vật cần có đủ 5 yếu tố là ánh sáng (quang năng), nhiệt
lượng (nhiệt năng), không khí (O
2
và CO
2
), nước và thức ăn khoáng. Trong đó 3 yếu tố đầu
do thiên nhiên cung cấp (yếu tố vũ trụ), nước vừa do thiên nhiên vừa do đất cung cấp, còn
thức ăn khoáng gồm rất nhiều nguyên tố như N, P, K, S, Ca, Mg và các nguyên tố vi lượng
là do đất cung cấp. Như vậy những năm thời tiết khí hậu bình thường, trong điều kiện cùng
một loại giống và trình độ canh tác tương tự thì năng suất cây trồng trên các loại đất cao
hay thấp nói chung phụ thuộc vào khả năng cung cấp thức ăn của đất. Ngoài ra đất còn là
nơi để cho cây cắm rễ, "bám trụ" không bị nghiêng ngả khi mưa to gió lớn.
Một loại đất được gọi là tốt phải bảo đảm cho thực vật "ăn no" (cung cấp kịp thời
và đầy đủ thức ăn), "uống đủ" (chế độ nước tốt), "ở tốt" (chế độ không khí và nhiệt độ
thích hợp) và "đứng vững" (rễ cây có thể mọc rộng và sâu).
Sản xuất nông nghiệp bao gồm 2 nội dung lớn là: sản xuất thực vật (trồng trọt) và
sản xuất động vật (chăn nuôi). Chúng ta biết rằng nếu không có thực vật hút thức ăn trong
đất qua tác dụng quang hợp biến thành chất hữu cơ thực vật thì động vật không thể có
nguồn năng lượng cần thiết để duy trì cuộc sống của chúng. Bởi vậy đất không những là cơ
sở sản xuất thực vật mà còn là cơ sở để sản xuất động vật. Trồng trọt phát triển thì chăn
nuôi cũng phát triển.
4. Ðất là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái
Sinh thái học là môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa các sinh vật với môi

trường. Trên địa cầu có vô số sinh vật, các sinh vật này cùng với môi trường của chúng tạo
thành sinh quyển. Sinh quyển do nhiều hệ sinh thái tạo thành. Mỗi hệ sinh thái có tổ hợp
sinh vật riêng của nó. Trong môi trường thiên nhiên của một vùng thì động vật, vi sinh vật,
thổ nhưỡng làm thành một hệ sinh thái. Đó là một bộ phận quan trọng trong hệ sinh thái
- 5 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
của vùng. Mặt khác tình hình đất của một vùng lại có quan hệ với những yếu tố khác cấu
tạo nên hệ sinh thái của vùng đó, giữa chúng có quan hệ điều tiết cân bằng lẫn nhau và
khống chế nhau. Vì vậy, trong khoa học môi trường, đất không những là tư liệu sản xuất cơ
bản của nông nghiệp mà còn được coi là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái một
vùng. Ðất có ý nghĩa quan trọng đối với loài người tương tự như nước, không khí, sinh vật
và khoáng sản.
Loài người sống trong môi trường thiên nhiên, luôn tìm cách cải tạo môi trường
xung quanh để phù hợp với yêu cầu của sản xuất và cuộc sống, lập nên cân bằng động của
hệ sinh thái. Nhưng mặt khác sự hoạt động của loài người cũng có lúc phá huỷ cân bằng
sinh thái thiên nhiên mà hậu quả là những tổn thất không bù đắp được. Thí dụ hậu quả của
ô nhiễm đất không những gây nên tình trạng hoang hoá đất, thay đổi hệ sinh thái đất từ đó
làm thay đổi hệ sinh thái đồng ruộng, thậm chí có thể dẫn đến sự hủy diệt một số sinh vật
trong vùng. Ô nhiễm đất còn có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và gia súc.
Những năm gần đây, khoa học môi trường đã đòi hỏi công tác thổ nhưỡng có biện
pháp giám định, phòng ngừa và xử lý ô nhiễm đất, định ra tiêu chuẩn làm sạch hoá đất. Từ
đó ta thấy Thổ nhưỡng học cận đại đã có sự phát triển mới, nó đã trở thành một bộ phận
quan trọng trong khoa học môi trường.
Từ những ý nghĩa trên, việc sử dụng đất không những căn cứ vào yêu cầu của nền
kinh tế quốc dân và sự phát triển nông nghiệp mà còn phải xuất phát từ góc độ khoa học môi
trường, chú ý đến vấn đề cân bằng động trong toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên. Nếu đất phù hợp
với nông nghiệp thì làm nông nghiệp, phù hợp với lâm nghiệp thì phát triển rừng. Ðất phù
hợp với chăn nuôi thì phát triển đồng cỏ Ðối với những vùng đất bị ô nhiễm nghiêm trọng
thì cấm trồng cây lương thực thực phẩm hoặc chăn thả gia súc mà nên chuyển sang trồng cây
lâm nghiệp hoặc cây lấy gỗ. Ðối với quản lý đồng ruộng cần lưu ý phòng chống ô nhiễm do

thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ hoặc ảnh hưởng của nước thải công nghiệp. Ðối với khai hoang cần
chú ý chống xói mòn đất và khô cằn đất làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái của khu vực.
- 6 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
CHƯƠNG 1
CÁC NHÂN TỐ HÌNH THÀNH ĐẤT
1.1 Khái niệm chung về sự hình thành đất
Sự hình thành đất là một quá
t
r
ì
nh biến đổi vật chất rất phức tạp diễn ra ở
lớ
p
ngo
ài cùng của vỏ
T
r
ái
đ
ất, dưới
t
ác động của nhiều yếu tố khác
nh
a
u.
Khi
T
r
ái đất chưa có sự sống, bấy giờ chỉ diễn ra sự phá huỷ

đ
á mẹ (phong hóa)
tạo ra sản phẩm

các chất vô cơ có kích
t
hước khác nhau, gọi chung là mẫu chất. Mẫu
chất bị nước cuốn trôi, trầm tích
lại
một nơi nào đó, dần dần
h
ì
nh thành nên đá trầm
tích. Có thể gọi đó là

ng Đại tuần hoàn địa
c
hấ
t
.

T
h
ực
chất của

ng đại tuần hoàn
địa chất là quá trình phong hóa
đá
để tạo

thành
mẫu
c
h
ất
.
Khi Trái
đ
ất có sinh vật, đã bổ
s
ung
t
hêm một phần mới đó là các hợp chất hữu
cơ. Mặc dù
c
h
ất

h

u
cơ chỉ là một phần nhỏ của trọng lượng đất, nhưng đã
l
àm cho mẫu
chất trở
t
hành đất, có thuộc

nh


s
i
nh học của nó là độ phì và có khả năng sản xuất ra
s
ản
phẩm cây trồng, gọi đó là vòng Tiểu
t
uần
hoàn sinh vật. Đây là vòng tuần hoàn không
kh
é
p kín, mà theo kiểu xoáy trôn ốc. Nghĩa là sau một
c
hu

k
ì
sống, sinh vật trả lại cho
đất một lượng chất hữu cơ nhiều hơn, làm cho đất ngày càng phì nhiêu,

u
mỡ
h
ơ
n.
Như vậy, quá trình hình thành đất chỉ bắt đầu từ khi có sự sống xuất hiện. Bởi
vậy bản chất
c

a


qu
á
trình
h
ì
nh
t
hành đất là sự
t
hố
ng nhất mâu thuẫn
g
i
ữa vòng đại
tuần
ho
àn địa chất và

ng tiểu
t
u

n
hoàn sinh học. Cơ sở của quá trình hình thành đất
là vòng đại
t
uần hoàn địa
c
h

ất
, còn bản chất
c
ủa

quá
trình hình thành đất là vòng tiểu
t
uần
ho
àn sinh
v
ật
.
1.2 Các nhân tố hình thành đất
Năm 1883, nhà bác học người Nga V.V.Docuchaev cho rằng đất được hình thành do sự
tác động tổng hợp của 5 yếu tố: Ðá mẹ và mẫu chất, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian. Sự
tác động của các yếu tố trên quyết định và chi phối các quá trình hình thành và biến đổi diễn ra
trong đất để hình thành nên các loại đất khác nhau. Những quan điểm của V.V.Docuchaev được
coi là học thuyết về phát sinh đất. Sau V.V.Docuchaev, các nhà thổ nhưỡng học bổ sung thêm
một yếu tố nữa là sự tác động của con người trong sự hình thành đất.
1.2.1. Ðá mẹ và mẫu chất
Các đá lộ ra ở phía ngoài cùng của vỏ Trái Ðất bị phong hoá liên tục cho ra các sản
phẩm phong hoá và tạo thành mẫu chất. Ðược sự tác động của sinh vật, mẫu chất biến dổi
dần dần để tạo thành đất. Thành phần khoáng vật, thành phần hoá học của đá quuyết định
thành phần mẫu chất và đất. Ðá bị phá huỷ để tạo thành đất được gọi là đá mẹ.
- 7 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
Ðá mẹ là cơ sở vật chất ban đầu và cũng là cơ sở vật chất chủ yếu trong sự hình
thành đất. Các loại đá mẹ khác nhau có thành phần khoáng vật và hoá học khác nhau, do

vậy trên các loại đá mẹ khác nhau hình thành nên các loại đất khác nhau.
Ví dụ:
- Ðấthình thành trên đá mẹ là granít có độ dầy tầng đất từ mỏng đến trung bình,
thành phần cơ giới nhẹ và nghèo các chất dinh dưỡng.
- Ðấthình thành trên đá mẹ là bazan có tầng đất đất rất dầy, thành phần cơ giới nặng
và chứa nhiều các chất dinh dưỡng.
Trong việc nghiên cứu, phân loại đất vùng đồi núi Việt Nam chúng ta thường dựa
vào cơ sở đầu tiên là đá mẹ.
Về mẫu chất, cần phân biệt rõ 2 loại: mẫu chất tại chỗ và mẫu chất phù sa. Mẫu
chất tại chỗ hình thành ngay trên đá mẹ, có thành phần và tính chất giống đá mẹ. Mẫu chất
phù sa được lắng đọng từ vật liệu phù sa của hệ thống sông ngòi nên có thành phần rất
phức tạp. Ngoài ra ở vùng đồi núi còn gặp mẫu chất dốc tụ.
Sự phân biệt giữa mẫu chất và đất có tính chất tương đối, nhiều trường hợp rất khó
phân biệt. Mẫu chất phù sa ở Việt Nam thực chất là nhóm đất phù sa có nhiều tính chất tốt
của nước ta.
Khi chưa có sự sống xuất hiện trên Trái Ðất, quá trình phá huỷ đá mẹ diễn ra theo chu trình:
phá huỷ biến đổi
Ðá mẫu chất Ðất
Chu trình này có tên là đại tuần hoàn địa chất và được coi là cơ sở để tạo thành đất.
1.2.2. Sinh vật
Sự sống xuất hiện cách đây 500-550 triệu năm (kỷ Cambri của nguyên đại cổ sinh)
sinh vật, trong đó chủ yếu là thực vật tác động lên mẫu chất, tạo thành chất hữu cơ trong
mẫu chất, làm thay đổi mẫu chất và chuyển mẫu chất thành đất. Tham gia vào quá trình
hình thành đất có nhiều loại sinh vật khác nhau nằm trong 3 ngành chính là thực vật màu
xanh, động vật và vi sinh vật.
+ Vai trò của thực vật:
Thực vật là nguồn cung cấp chất hữu cơ chủ yếu cho mẫu chất và đất. Khoảng 4/5
chất hữu cơ trong đất có nguồn gốc từ thực vật. Trong hoạt động sống của mình, các loài
thực vật hút nước và các chất khoáng trong mẫu chất và đất, đồng thời nhờ quá trình quang
hợp tạo thành các chất hữu cơ trong cơ thể. Sau khi chết, xác của chúng rơi vào mẫu chất

và đất bị phân giải trả lại các chất lấy từ đất và bổ sung thêm cácbon, nitơ tạo thành chất
- 8 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
hữu cơ trong mẫu chất. Sự tích luỹ chất hữu cơ làm cho mẫu chất xuất hiện độ phì và
chuyển thành đất. Chu kỳ đất - cây - đất diễn ra liên tục trong tự nhiên làm cho độ phì đất
tăng dần.
Thực vật gồm các loại cây trong tự nhiên và hệ thống cây trồng trong sản xuất nông
- lâm nghiệp. Dưới các kiểu rừng khác nhau gặp các loại đất có độ phì rất khác nhau. Ví
dụ: đất dưới rừng tre, nứa hoặc trảng cỏ có độ phì thấp hơn đất dưới rừng cây lá rộng.
Một số loài thực vật được dùng làm cây chỉ thị cho một số tính chất đất. Ví dụ: cây
sim, cây mua là cây chỉ thị cho đất chua, cây sú vẹt chỉ thị của đất mặn v.v.
+ Vai trò của động vật:
Các loài động vật có thể chia thành 2 nhóm: động vật sống trên mặt đất và động vật
sống trong đất.
Ðộng vật sống trên mặt đất gồm nhiều loài khác nhau, các chất thải trong cuộc sống
rơi vào đất cung cấp một số chất dinh dưỡng. Sau khi chết xác chúng rơi vào đất bị phân
giải bổ sung chất dinh dưỡng và chất hữu cơ cho đất.
Ðộng vật sống trong đất có nhiều loài như: giun, kiến, mối Giun đất có vai trò rất
lớn trong sự tạo độ phì đất. Theo Russell, một hecta đất tốt có thể có tới 2.500.000 cá thể
các loại giun. Giun ăn đất, phân giun là các hạt kết viên bền vững làm cho đất tơi xốp. Khi
chết xác chúng được phân giải cung cấp nhiều nitơ và các chất khoáng cho đất.
Ðộng vật góp phần bổ sung chất hữu cơ và làm tăng độ phì đất.
+ Vai trò của vi sinh vật
Tập đoàn vi sinh vật trong đất rất phong phú với nhiều chủng loại khác nhau. Về số
lượng có thể có tới hàng trăm triệu con trong một gam đất.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy rất nhiều quá trình diễn ra trong đất có sự tham
gia trực tiếp hay gián tiếp của tập đoàn vi sinh vật đất. Quá trình phân giải xác hữu cơ, quá
trình hình thành mùn, quá trình chuyển hoá đạm trong đất, quá trình cố định đạm từ khí
trời trải qua nhiều phản ứng, nhiều giai đoạn, mỗi phản ứng đều có sự tham gia của một
loài sinh vật cụ thể.

Hầu hết các loài vi sinh vật đều sinh sản theo cách tự phân nên lượng sinh khối tạo
ra trong đất lớn, sau khi chết xác các loài vi sinh vật bị phần giải góp phần cung cấp chất
hữu cơ và tạo độ phì đất.
Như vậy, sau khi sự sống xuất hiện, giới sinh vật đã có những tác động sâu sắc về
nhiều mặt tới mẫu chất để chuyển mẫu chất thành đất, sinh vật tiếp tục tác động với đất để
đất ngày càng phát triển. Nói cách khác nếu không có sinh vật thì chưa có đất, vì vậy các
nhà khoa học cho rằng sinh vật là yếu tố quyết định trong sự hình thành đất.
- 9 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
1.2.3. Khí hậu
Các đặc trưng của khí hậu như nhiệt độ, ẩm độ không khí, lượng mưa ảnh hưởng
rất lớn tới sự hình thành đất.
+ Ảnh hưởng trực tiếp: khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến phong hoá đá, sự thay đổi
nhiệt độ tạo sự phá huỷ vật lý, lượng mưa và chế độ mưa ảnh hưởng tới phong hoá vật lý
và hoá học Nhiều quá trình diễn ra trong đất như khoáng hoá, mùn hoá, rửa trôi, xói
mòn chịu sự tác động rõ rệt của khí hậu.
Những vùng có lượng mưa > bốc hơi, lượng nước thừa sẽ di chuyển trên mặt đất và
thấm sâu xuống đất tạo nên các quá trình xói mòn và rửa trôi. Các nguyên tố kiềm, kiềm
đất rất dễ bị rửa trôi, do vậy lượng mưa càng lớn đất bị hoá chua càng mạnh. Mối tương
quan giữa lượng mưa và độ chua được thể hiện ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của lượng mưa đến độ chua của đất
(Theo Jenny - Bán đảo Mabrikia)
Lượng mưa hàng năm
(mm)
Nhiệt độ (
o
C)
H
+
(me/100g đất)

Tổng cation kiềm trao đổi
(me/100g đất)
pH
600-1300 29,5 5,5 24,0 6,8
1300-1900 26,2 11,2 15,0 6,3
1900-2500 22,9 14,7 8,2 5,9
2500-3200 22,3 16,6 5,5 5,7
3200-3800 20,6 19,6 4,0 5,6

+ Ảnh hưởng gián tiếp: Ảnh hưởng gián tiếp của khí hậu thông qua yếu tố sinh vật,
khí hậu góp phần điều chỉnh lại yếu tố sinh vật. Mỗi đới khí hậu trên Trái Ðất có các loài
thực vật đặc trưng. Ví dụ: thực vật đặc trưng của khí hậu nhiệt đới là cây lá rộng, thực vật
đặc trưng của khí hậu ôn đới là các cây lá kim V.V.Docuchaev đã phát hiện ở mỗi đới
khí hậu có những loại đất đặc thù riêng.
1.2.4. Ðịa hình
Ðịa hình cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành đất.
+ Ảnh hưởng trực tiếp: Các đặc trưng của địa hình như dáng đất, độ cao, độ dốc
ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quá trình diễn ra trong đất. Vùng đồi núi, vùng cao ở đồng
bằng quá trình rửa trôi xói mòn diễn ra mạnh. Ngược lại trong các thung lũng ở vùng đồi
núi hoặc vùng trũng ở đồng bằng diễn ra quá trình tích luỹ các chất. Lượng nước trong đất
cũng phụ thuộc địa hình; vùng cao thường thiếu nước, quá trình ôxy hoá diễn ra mạnh;
Vùng trũng thường dư ẩm, quá trình khử chiếm ưu thế kết quả ở các địa hình khác nhau
hình thành nên các loại đất khác nhau.
- 10 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
+ Ảnh hưởng gián tiếp: địa hình ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành đất thông
qua yếu tố khí hậu và sinh vật. Càng lên cao nhiệt độ càng giảm dần theo quy luật độ cao
tăng 100 m, nhiệt độ giảm 0,5
o
C, đồng thời ẩm độ tăng lên. Sự thay đổi khí hậu kéo theo

sự thay đổi của sinh vật. Ở các độ cao khác nhau có các đặc trưng khí hậu và sinh vật khác
nhau. Các nhà thổ nhưỡng đã phát hiện được quy luật phát sinh đất theo độ cao. Năm 1968,
Cao Liêm đã tìm ra quy luật hình thành đất theo độ cao trên dãy núi Hoàng Liên Sơn như sau:
Ðộ cao (m)
Dưới 1000 m
1000-1800 m
1800-2300 m
2300-2900 m
> 2900 m
Loại đất
Ðất Feralít
Ðất Feralít - mùn trên núi
Ðất mùn alít trên núi cao
Ðất mùn thô trên núi
Ðất mùn thô than bùn trên núi
1.2.5. Thời gian
Thời gian là tuổi của đất, gồm tuổi tuyệt đối và tuổi tương đối.
Tuổi tuyệt đối được tính từ khi mẫu chất được tích luỹ chất hữu cơ (cacbon hữu cơ)
đến ngày nay, nói cách khác tuổi tuyệt đối chính là tuổi cacbon hữu cơ trong đất hay là tuổi
mùn của đất. Ðể xác định tuổi của mùn, dùng phương pháp phóng xạ cacbon. C
12
có 2
đồng vị phóng xạ là C
13
và C
14
, trong cơ thể sống của thực vật tỷ lệ C
13
và C
14

là một hằng
số và giống trong khí quyển. Sau khi chết C
14
không bền và bị phân huỷ giảm dần, từ lượng
C
14
còn lại trong mùn dựa vào chu kỳ bán phân rã của C
14
, tính được tuổi của mùn trong
đất. Bằng phương pháp trên, Devries (1958) đã xác định tuổi của đất vàng (hoàng thổ) ở
Úc từ 32-42 ngàn năm.
Tuổi tương đối của đất được dùng để đánh giá sự phát triển và biến đổi diễn ra
trong đất nên không tính được bằng thời gian cụ thể. Dựa vào hình thái đất để có các nhận
xét về hình thành và phát triển của đất. Ví dụ: Sự phân tầng chưa rõ của phẫu diện thường
gặp ở những loại đất mới được hình thành. Sự hình thành kết von hoặc đá ong trong một số
loại đất đỏ vàng chứng tỏ đất đã phát triển tới mức cao (già hơn) so với đất cùng loại chưa
có kết von.
1.2.6. Con người
Con người đã có những tác động rất sâu sắc đối với các vùng đất được sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Sự tác động về nhiều mặt trong quá trình sử dụng đất đã
làm biến đổi nhiều vùng theo các hướng khác nhau, hình thành nên một số loại đất đặc
- 11 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
trưng. Ví dụ: Ðất phù sa, đất xám bạc màu, đất mặn, đất phèn sau một thời gian sử dụng
gieo trồng lúa nước sẽ hình thành nên đất lúa nước.
Những tác động tốt của con người như: Bố trí cây trồng phù hợp với tính chất đất;
xây dựng các công trình thuỷ lợi; đắp đê ngăn lũ và nước mặn; bổ sung chất dinh dưỡng
trong đất bằng các loại phân bón; bảo vệ đất; cải tạo tính chất xấu của đất làm cho đất
biến đổi theo chiều hướng tốt dần lên. Ngược lại, những tác động xấu như: Bố trí cây trồng
không phù hợp; bón phân không đầy đủ; chặt phá rừng làm nương rẫy; không thực hiện tốt

các biện pháp chống thoái hoá đất sẽ làm cho đất biến đổi theo chiều hướng xấu.
Sự tác động tổng hợp của các yếu tố hình thành đất sẽ quyết định các quá trình hình
thành và biến đổi diễn ra trong đất. Những quá trình hình thành phổ biến trong tự nhiên:
- Quá trình hình thành đất sơ sinh.
- Quá trình tích luỹ chất hữu cơ và mùn trong đất.
- Quá trình tích luỹ sắt, nhôm trong đất.
- Quá trình rửa trôi, xói mòn đất.
- Quá trình glây.
- Quá trình hoá chua, phèn, nhiễm mặn.
- Quá trình lắng đọng vật liệu phù sa.
1.3 Các khoáng vật và đá hình thành đất
1.3.1. Khoáng vật
a/Khoáng vật nguyên sinh
Khoáng vật nguyên sinh là khoáng vật được hình thành đồng thời với đá và hầu
như chưa bị
b
iế
n
đổi về thành phần và trạng thái; là khoáng vật có trong các loại đá,
là thành phần tạo nên
đá.
Kho
áng vật
nguyên
sinh đưọc
c
hia
r
a làm 8 lớp như
s

a
u
:
 Lớp
s
ilic
át
Silicát là muối của axit silic. Silicát là lớp khoáng vật phổ
biến nhất trong
t
hiên nh

n,
c
húng
c
h
iếm
75% trọng lượng vỏ Trái
Đ
ất
.
Các loại khoáng vật điển
h
ì
nh trong lớp silicat
là:

Ôlivin: (Mg,Fe)2SiO4: Có màu xanh hơi
v

à
ng.

Ogit: (Ca,
N
a
)(Mg,F
e
,Al)(Si,Al)2O6: Có màu xanh, xanh
đ
e
n.

Hocnơblen: (Ca,Na)2(Mg,Fe,Al,Ti) (Si4O11)2(OH)2: Có màu xanh
ho
ặc xanh
đen, nhưng
nh
ạt
hơn
ogit.

Mica: Có
c
ấu tạo dạng
l
á bóc được dễ dàng; Có 2 loại
là:
- 12 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn

- Mica trắng (Muscovit):
KA
l
2
(
AlSi3O10) (OH.F)2: Màu sắc hầu hết có màu
trắng, có khi
v
à
ng

đụ
c
.
- Mica đen (Biotit):
K(F
e
,Mg)
3
(A
l
Si3O10)(OH.F)2 có màu đen. Tỷ lệ mica đen ít
hơn
mica

t
r

ng.



P
h
e
npat: là những
kho
áng vật phổ biến nhất, chiếm tới 50% trọng lượng
vỏ
T
r
ái
Đ
ất
.
Ph
e
npat có màu trắng
x
ám
.
Có các loại
c
hính
là:
- Phenpat kali (Octoclaz):
(K
2
O.A
l
2

O
3
.6

S
i
O
2
)
- Phenpat natri (anbit):
N
a
A
l

S
i
3
O
8
- Phenpat
c
anxi (anoctit):
Ca
A
l
2
S
i
2

O
8
Hỗn hợp phenpat natri và
c
anxi
t
hì gọi là
Pl
ag
i
o
cl
az.
 Lớp
c
a
c
bo
nat:
l
à những muối của axit
cac
bonic, có đặc điểm
l
à
sủ
i
bọt khi nhỏ HCl vào. Lớp này có
c
ác khoáng vật điển

h
ì
nh
là:

Canxit - CaCO3: Có màu trắng đục; khi vỡ
tạo
ra
hình
bình
h
à
nh.

Đôlômit -
C
a,Mg
(CO3)2: Màu trắng
x
ám
.

Siđêrit -FeCO3: Có màu phớt vàng, đôi khi
n
â
u.
 Lớp
O
x
i

t: Là hợp chất của
o
xi. Có các khoáng vật điển
h
ì
nh
là:

Thạch anh - SiO2: là thành phần
c
h
í
nh trong
c
ác loại đá macma axit, trong
cát
,
cuội, sỏi, ánh thủy tinh, màu sắc trong
suố
t
.

Hêmatit - Fe2O3: Có màu nâu đỏ, Hêmatit là
nguyên
liệu chế
t
ạo sắt,
bộ
t
hêmatit dùng

l
àm bút
c

đỏ.

Manhêtit - Fe3O4: Có màu đen, có từ tính, là
nguyên
liệu để chế
t
ạo
s
ắt
.

Coridon - Al2O3: Có màu
l
am, xám, đỏ,
hồ
ng, có khi vàng, lục hay không

u
;
 Lớp Sunphua: Là hợp chất của lưu huỳnh. Có các khoáng vật
đ
iể
n
hình
là:


Galêrit - PbS (Sunfua chì): Có màu chì xám, khi vỡ thành những khối lập
phương nhỏ
c
ó
những mặt bậc
t
h
a
ng.

Pirit (FeS2): Có màu vàng (còn gọi là Vàng sống); khi đánh vào tóe lửa và
m
ù
i
khét lưu huỳnh bay

n.
 Lớp sunphat: là những muối của axit sunphuric. Các khoáng vật
đ
iể
n
- 13 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
hình
là:

Anhydrit (hay thạch cao khan) - CaSO4: Có màu trắng, xám, hơi đỏ; Thường
gặp dạng
t
ập

h
ợp
đông đặc, dạng hạt nhỏ. Anhydrit thường được dùng để sản xuất xi

ng.

Thạch cao - CasO4.2H2O: Có màu
t
r
ắng, mềm, hơi trong, tinh
t
hể dài như bó
sợi. Khi nung
t
h
ì
nước bốc hơi còn lại dạng bột trắng như vôi. Thạch cao dùng để nặn
t
ượng, làm phấn, và
l
àm
nguyên
liệu
c
ải tạo
đ
ất
mặ
n.
 Lớp photphat: là những muối của axit photphoric. Các khoáng vật điển

hình
là:

Apatit - Ca5(PO4)3
(
F
,
Cl
): Có màu vàng lục, trắng,
l
am, đôi khi không

u
;

Photphorit [Ca3(PO4)2]: Có màu vàng hoặc nâu trắng xen kẽ; thường được
t
ạo
thành trong
các
hang
đ
á vôi,
n
ê
n còn được gọi là phân

n.

Vivianit

[
Fe
3
(
P
O
4
)
2
.8
H2O]: có màu xanh lơ; mềm, có dạng bột vẽ được
h
ì
nh
thành dưới
c
ác
lớp
than
bùn.
 Lớp Haloit: là những muối của các axit haloit (HF,
H
Cl
, HBr). Có
các
kho
áng vật điển hình
là:

Muối mỏ - NaCl: Có màu trong suốt hoặc trắng; có vị mặn. Được thành tạo

trong các vũng
b
iể
n
khô cạn từ lâu. Muối mỏ dùng để ăn và trong công nghiệp hóa
họ
c
.

Kacnalit - KCl, MgCl2.6H2O:
K
ac
nalit

trầm tích
hóa học
biển, được
hình
thành ở vùng
khô
lạnh. Có màu
hồ
ng hay nâu đỏ; Thường gặp dạng khối đông
đ
ặc
; dễ
chảy nước, vị
c
hát. Dùng
k

ac
n
alit
làm phân manhê, phân
k
ali
.
 Lớp nguyên tố tự
nh
i
ên
(
Khoáng vật đơn nguyên
tố)

Lưu huỳnh (S): Có màu vàng, nâu; Có thể do hoạt động núi lửa phun
r
a
ho
ặc
bằng con đường
s
i
nh

a trong trầm
tíc
h.

Than đá, than chì (graphit),

k
i
m cương (C) là những dạng
c
ủa C và
c
á
c kim
l
oạ
i
quý như vàng
(Au)
, đồng (Cu), bạch
k
im
,
b/ Khoáng vật thứ sinh
Khoáng vật thứ sinh là do khoáng vật nguyên sinh phá hủy, bị biến đổi về thành
phần và trạng
t

i
mà tạo nên. Chúng được hình thành trong quá trình phong hóa đá
và quá trình biến đổi của
đấ
t
.
So với khoáng vật nguyên sinh thì số lượng
khoáng vật

thứ sinh ít hơn nhiều và
có kích thước
b
é
.

S

phân biệt
khoáng vật
thứ sinh với khoáng vật nguyên sinh nhiều
- 14 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
khi chỉ

tương đối. Ví dụ:
T
h
ạc
h
anh trong
đá


nguyên sinh và thạch anh trong đất

thứ sinh
.
Ngưòi ta
chia

khoáng vật
thứ sinh
ra 3
lớp:
 Lớp
a
l
um
i

nos
ilic
at
Lớp aluminosilicat do các
kho
áng vật lớp silicat nguyên sinh bị biến đổi và phá
hủy mà hình thành
.
Lớp này
thường
gặp
c
ác
khoáng vật
sau
đ
â
y
:


Hydromica: Do các loại mica ngậm
t
hêm
n
ước;
+ Vemiculit: Dạng tấm
m

ng, màu nâu, nâu phớt vàng, đôi khi có phớt
l

c
.
+ Hydromuscovit (còn gọi là Ilit): KAl2 [(Si.Al)4O10](OH)2.nH2O: màu trắng
v

y
hoặc
t
ấm mỏng, thường gặp trong đất
s
ét
.

Secpentin - Mg6(SiO4)(OH)8: Là sản phẩm của
khoáng

O
li
v

i
n
biến
đổi, màu
xanh
l
á cây
đ
ế

n
xanh đen, còn gọi là khoáng "da rắn"
(
vì thường nằm lẫn với ami ăng
tạo
thành những khoang
t
r

ng
đen như da rắn
c
ạp
no

ng).

Clorit - Mg4Al2(Si2Al2O10)(OH)8: Là sản phẩm phá hủy của
khoáng


Og
it
; màu
xanh
l
á

y,

mềm
.

Các khoáng vật sét: Là nhóm
khoáng vật
có tinh thể rất nhỏ, cấu tạo dẹt, khi
thấm nước thì
t
r
ươn
g
lên, dẻo,
d
í
nh, có khả năng hấp phụ. Hai khoáng vật điển hình
của nhóm
n
à
y
là:
K

a
o
li
n
it
(Al2O3.2SiO2.2H2O) và
Mon
m
or
il
on
it
(
Al
2
O
3
.4S
i
O
2
.nH
2
O).
 Lớp
O
x
i
t và
hyd

r
ox
i

t

Oxit và hydroxit nhôm: Những
khoáng vật
điển hình
là:
+
Đ
ia
s
po -
(HA
l

O
2
)
+ Gipxit -
A
l
(OH)
3
Hai
l
o
ại này hỗn hợp với nhau sẽ

tạo
thành Bôxit
(
Al2
O
3
.nH
2
O)

Oxit và hydroxit sắt: Thường gặp trong đá
o
ng và
đất
đỏ; có màu nâu, nâu
đỏ,
vàng hay đen. Có 2
d

ng
:
+ Gơtit -
HF
e
O
2
+ Limônit -
F
e
2

O
3
.nH
2
O

Oxit và hydroxit mangan: Màu đen, mềm, thường kết tủa
thành
những hạt
tròn nhỏ trong
đất
phù
s

a
và đất
đá
vôi.
Nh
ư:
+ Manganit:
Mn
2
O
3
.H
2
O
+ Psilômêlan:
m

MnO.nMnO
2
.pH
2
O
- 15 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn

Hydroxit silic: Điển hình

Ôpan,
S
i
O
2
.nH
2
O
thường
có màu trắng, xám,
đ
ược
tạo thành khi các loại silicat bị phá hủy,
o
xit silic được tách
r

a
.
 Lớp Cacbonat,

s
unfat và
cl

o
r
ua
Các kim loại kiềm và kiềm thổ bị tách ra từ khoáng, đá hay xác sinh vật chúng sẽ kết
hợp với
C
O
32-
,
SO42-, Cl- trong môi trường tạo
t
hành các muối cacbonat, sunfat và clorua,
như: Canxit: CaCO3; Manhêzit: MgCO3; Nalit:
N
aCl
;
T
h
ạc
h cao: Ca
SO
4
.2

H
2

O.
1.3.2. Các loại đá hình thành đất (Đá mẹ)
a/ Đá macma (còn
g
ọi là đá núi
l
ửa)
 Nguồn gốc và
phâ
n
l
oạ
i
Đá macma là
đ
á được hình thành do khối
A
l
uminosilicat nóng chảy nửa lỏng,
nửa đặc
(
gọi

macma) trong
l
ò
ng
T
r
ái Đất phun ra

ngo
àn
, do nhiệt độ hạ thấp đột
ngột bị ngưng kết lại tạo
t
hành
đ
á
.
Tùy
t
heo vị trí ngưng kết mà người
t
a
chia
đá

mac
ma ra 2 loại

: Đá macma
x
âm
nhập và đá macma phún
x
uấ
t
.
Dựa vào tỷ lệ SiO2 (%) có trong đá mà người ta
c

h
i
a đá macma ra các loại sau đ
â
y
:
- Macma siêu axit SiO2 > 75
%
- Macma axit 65 - 75
%
- Macma
t
r
ung

nh 52 - 65
%
- Macma bazơ 40 - 52
%
- Macma siêu bazơ < 40
%
 Mô tả một số đại diện của đá
m
a
cm
a
 Đá macma siêu axit và
a
xit
:

- Đá pecmatit: Là đá macma xâm nhập, có màu
hồ
ng; xám sáng; khoáng vật
c
ó
Octoclaz,
t
h
ạc
h anh và
mica
.
- Đá
Gr
anit (còn gọi là đá Hoa cương): Là đá macma xâm nhập, màu xám sáng,
khoáng vật
gồ
m
Octoclaz,
t
hạch anh,
mic
a, đôi khi có hocnơblen hoặc
ôgit.
- Đá
Li
parit (hay Riolit): Là đá macma phún xuất,
t
hành phần khoáng vật
g

i
ống
granit, màu xám
s
á
ng.
 Đá macma trung

nh:
- Sienit: Là đá macma xâm nhập; thành phần khoáng vật có octoklaz,
hocnơblen,

u

x
ám
.
- Trakit: Là
đ
á macma phún xuất,
t
hành phần
kho
áng vật có octoklaz,
- 16 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
hocnơblen,

u


x
ám
.
- Đá Diorit: Là đá macma xâm nhập;
khoáng vật

p
l
agioklaz, hocnơblen;
c
ó
màu xám xanh
nh
ạt
.
- Andezit: Là đá macma phún
xu
ất
; màu xám xanh, thành phần khoáng vật có
p
la
g
i
ok
l
az,
ho
c
n
ơble

n

og
it
,
 Đá macma
baz
ơ
:
- Đá gabro: Là
đá
macma xâm nhập; khoáng vật có ogit,
p
la
g
i
ok
l
azơ; màu
đ
e
n
hoặc xám
l

c
.
- Đá Bazan (còn gọi là đá Huyền vũ): Là đá
mac
ma phún

xu
ất
;
khoáng vật

ogit,
p
la
g
i
ok
lazơ,


u
đen hoặc xanh
đ
e
n.
- Điaba: Là
đá
macma phún
xu
ất
;
khoáng vật
có ogit, plagioklazơ, có màu
đ
e
n

hoặc xanh
đ
e
n.
 Đá macma siêu bazơ: Có các đá Đunit, Périđôtit và Pirôxênit: Là đá
macma
xâm nhập;
khoáng vật
các
đá
này
đ


Ô
li
v
i
n,
Ôg
it
.
b/ Đá trầm
t
íc
h
 Nguồn
gố
c
Đá trầm tích được hình thành từ sản phẩm phá huỷ của các đá khác, có thể là

s

n
phẩm vỡ vụn cơ học,
hoặc
các chất hoà tan trong nước hoặc từ xác sinh vật chết
đ
i
,
chúng được nước mang đi và tích đọng ở sông, biển,
hồ,
l
úc đầu thường rời rạc, sau
đó do
những

c
hấ
t
hoá học tự nhiên, hoặc bị sức ép chúng gắn
c
hặt
l
ại với nhau tạo
thành
đá
cứng rắn, gọi
l
à đá
t

r
ầm

tíc
h.
Do sự vận động địa
c
h
ất
, sự
ho
ạt động “tạo sơn” mà đá
t
r
ầm tích nằm ở đáy
biển,
đá
y hồ
đ
ược
nhô lên tạo thành các dãy núi
đá
.
H
iệ
n nay đá trầm tích chiếm
kho
ảng 75% diện tích mặt
đ
ất

.
 Đặc điểm
c
hung
- Đa số các
l
o
ại đá trầm tích đều có cấu
tạo
phân lớp, mỗi một lớp là kết quả
l
ắng đọng của
c
ùng
m

t
loại
s
ản phẩm trong một thời
g
i
an nhất
đ

nh.
- Thành phần
ho
á học và
khoáng vật

đơn
g
i
ản hơn đá macma
(
ví dụ: Đá vôi
c
h

có CaCO3,
đá
sét chỉ có
s
ét
, ).
- Có thể có di tích hữu
cơ.
 Phân
l
oại trầm
tíc
h
Căn cứ sản phẩm gắn kết tạo nên đá mà người ta
c
h
i
a đá trầm tích ra

m 4 nhó
m:

- 17 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
 Đá trầm
t
í
ch cơ học (còn gọi

đá vụn): Là
đá

s
ản phẩm tạo nên đá

do
sự phá huỷ cơ học của
c
ác đá
kh
ác
.
Người ta thường dựa vào kích thước của các sản phẩm vỡ vụn để chia ra: đá
v
ụn
không gắn kết và đá vụn gắn
kết
.
- Đá vụn không gắn kết: Sản phẩm vỡ vụn ở trạng thái rời rạc. Dựa vào
k
íc
h

thước của
c
ác hạt vụn. Người
t
a
c
h
i
a
r
a:
+ Đá tảng: Có kích
t
hước > 200
mm
.
+ Dăm, cuội: có kích thước 10 - 200 mm. Dăm

những đá vụn sắc cạnh, còn
cuội là những
đá

vụn
mà cạnh bị bào
m
òn.
+ Sạn, sỏi: có kích thước từ 2 - 10
mm
.
+ Cát: có kích

t
hước từ 0,1 - 2 mm. Có
t
hể
c
h
i
a
r
a:
Cát
t
hô 1 - 2
mm
Cát hạt lớn 0,5 - 1
mm
Cát
hạt trung bình 0,25 - 0,5 mm
Cát nhỏ 0,1 - 0,25
mm
+ Bột (alơrit): có kích
t
hước
t
ừ 0,01 - 0,1
mm
.
+ Sét: có kích thước < 0,01
mm
.

- Đá vụn gắn kết: Là những loại
đá
được
t
ạo
t
hành do các hạt vụn được gắn lại
với nhau bởi
m

t
"chất kết gắn"
hoặc
một
t
ác nhân nào đó. Tuỳ
t
heo loại hạt vụn khác
nhau mà sẽ có tên đá
tương


ng
:
+ Dăm,
c
uội, sạn, sỏi, gắn kết lại với nhau
t
ạo nên đá dăm
kết

.
+ Hạt
c
át gắn kết lại với nhau tạo nên đá cát kết hay sa
t
hạ
c
h.
+ Hạt bột gắn kết lại với nhau tạo nên đá bột kết (alơrôlit) hay đá phấn
sa.
+ Sét bị ép cứng
l
ại với nhau
tạo nên
đá sét (acgilit); khi bị ép mạnh và bị
ph
â
n
hành lớp rõ thì gọi là đá phiến
s
ét
.
 Đá trầm
t
í
ch
ho
á
họ
c

Đá trầm tích hoá học được hình thành do các loại đá khác bị phá huỷ bằng các
phản ứng hoá học
g
i
ải phóng ra một chất nào đó, chất ấy kết hợp với một chất khác có
trong môi trường, tạo nên một
đ
á

mới
có thành phần hoá học khác với đá ban đ

u.
Có các loại
sau đây
:
+ Túp vôi: Đá xốp
t
r
ắng, hơi xám
hoặc
hơi vàng;
s
ủi bọt mạnh với HCl loãng.
Túp vôi
đ
ược
tạo thành là do vôi kết tủa bởi các dung dịch nước quá bão hoà vôi trong
- 18 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn

khu vực giàu đá vôi, do
CaC
O
3

hoà tan
đọng
lại
.
+ Túp silic (gâyđêrit - cửa suối nước nóng): Tạo thành do sự lắng đọng
s
ilic

cửa suối nước nóng chứa silic hoà tan. Đá gồm một khoáng chất SiO2.nH2O (op
a
n)
, bề
ngo
ài
giống túp vôi nhưng không sủi bọt với HCl loãng và có độ rắn lớn
h
ơ
n.
 Đá trầm
t
í
ch hữu

Đá trầm tích hữu cơ là đá trầm tích mà sản phẩm
t

ạo nên đá có nguồn gốc từ
x
ác
sinh
v
ật
. Có một số đá
sau đây
:
- Đá vôi: Đá vôi được
tạo
thành ở biển, do nhiều loài sinh vật biển trong cơ
t
h

chứa nhiều canxi khi chết đi để lại, ví dụ:
s
an hô, trai, ốc, nhuyễn thể, tảo
b
iể
n,
- Đá silic: Là sản phẩm của các loại Khuê tảo, Hải miên, Đá rất cứng
t
h
ườn
g
có dạng phiến
nên
gọi là phiến
s

ilic
.
- Đá phôtphat: Là
sản
phẩm
c
ủa động vật có xương sống và vác động vât khác,
cơ thể của chúng
c
ó
nhiều Ca và P2O5. Ở Việt Nam gặp 2
l
o
ại sau
đ

â
y
:
+ Phôtphorit: Ca3(PO4)2: Thường
đ
ược tạo
t
hành trong các khe núi hoặc
h
a
ng
đá
vôi do di tích
s

i
nh vật chết từ
l
âu, nên còn gọi

phân lèn. Có màu vàng nâu hoặc trắng
đen
x
e
n

k

,
có cấu tạo đồng
t
âm như mã
não.
+ Đá phiến Apatit Ca5(PO4)3(F.Cl): Được
h
ì
nh
t
hành do xác sinh vật biển
c
hết
đi,
ca
nx
i


phô
t
ph
at
trong cơ
t
hể bị hòa
t
an rồi kết
t
ủa
l
ại tạo
nên
. Có dạng
đá

ph
iế
n, hạt
nhỏ, màu xanh xám
hoặc
nâu
x
a
nh.
- Đá than: Do xác thực phân hủy trong điều kiện yếm khí tạo
n
ê

n.
+ Than bùn: Là do xác thực vật phân hủy không
ho
àn toàn trong điều kiện yếm
khí,
tạo nên
một
t
hứ
t
han
xố
p, màu nâu, nâu vàng
hoặc
nâu đen; còn nhiều di tích của
rễ, cành,
l
á

y.
+ Than đá: Thực vật bị chôn vùi dưới sâu, bị phân hủy yếm khí
đ
ầu tiên tạo
thành than bùn,
s
a
u
đó lâu ngày
t
hì bị ép cứng biến thành

t
han nâu. Than nâu lâu dần
thành than khói và thành than
không
khói. Dựa vào tỷ lệ C và chất bốc cháy mà người
t
a
c
h
i
a
r
a: than gỗ, than nâu, than mỡ,
t
han gầy,
t
h
a
n
không
khó
i
,
 Đá trầm
t
í
ch
hỗ
n
h


p
Là những đá cấu
tạo
từ sản phẩm
hỗ
n hợp: vật liệu vỡ vụn, vật liệu hóa học,
v
ật
liệu hữu cơ, Có các loại như:
đá
sét vôi,
đá
vôi lẫn sét, đá vôi
l
ẫn
cát
,
c/ Đá
b
i
ến
c
hất
Đá macma
hoặc
trầm tích
c
hịu
t

ác động
c
ủa nhiệt độ cao hoặc áp suất lớn thì bị
- 19 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
biến đổi về
t
h
à
nh
phần khoáng vật, thành phần hóa học và cả về kiến trúc tạo nên đá
biến
c
hấ
t
.
Đá biến đổi do nhiệt độ cao gọi là đá biến chất nhiệt; Đá biến đổi do áp suất
lớn
gọi là đá biến chất động
l

c
.
Một số đá
biến
chất phổ biến
nh
ư:
- Đá phiến mica: Do
c

ác vảy
mica
xếp
t
hành lớp nên gọi


phiến

mica
.
- Đá Gơnai: Có thành phần
khoáng vật
giống
đá
granit (thạch anh, phenpat,
mica,
hoo
c
n
ơ
b
le
n).
Nếu
t
ừ macma
t
hì gọi là
o

ctogơnai, nếu
t
ừ đá trầm tích
t
hì gọi là
parag
ơ
na
i
.
- Đá hoa (cẩm thạch): Là sản phẩm kết tinh của đá vôi hay những đá trầm tích
giàu
c
anxi
kh
ác
;
c
ó
màu trắng, hơi lục,
hồ
ng, vàng hoặc đỏ; sủi bọt với HCl
l
o
ãng
nhưng yếu hơn đá

i
.
- Đá quăczit: Do cát và cát kết biến đổi tạo thành. Đá có màu trắng, khi bị lẫn

t
h
ì
hơi đỏ, đỏ thẫm, còn gọi là đá “óc
c
hó”.
- 20 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHONG HÓA ĐÁ VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẤT
2.1 Quá trình phong hóa đá và sản phẩm của quá trình phong hóa đá
2.1.1 Quá trình phong hóa khoáng vật và đá
Dưới sự tác động của nước, các chất khí như O
2
, CO
2
và nguồn năng lượng bức
xạ mặt trời, các khoáng vật và đá lộ ra ở phía ngoài cùng của vỏ Trái Ðất bị phá huỷ. Quá
trình phá huỷ khoáng vật và đá được gọi là quá trình phong hoá. Có 3 loại phong hoá đá và
khoáng vật là phong hoá vật lý, phong hoá hoá học và phong hoá sinh học. Sự phân chia
các loại phong hoá chỉ là tương đối vì trong thực tế các yếu tố ngoại cảnh đồng thời tác
động lên đá và khoáng vật, do vậy 3 loại phong hoá đồng thời cùng diễn ra. Các quá trình
phong hoá liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau, tuỳ điều kiện cụ thể mà một trong 3 quá
trình xảy ra mạnh hơn.
a. Phong hoá vật lý
Phong hoá vật lý là sự vỡ vụn của các loại đá thành các hạt cơ giới có kích thước
khác nhau nhưng chưa có sự thay đổi về thành phần khoáng vật, thành phần hoá học của
các đá ban đầu.
Nguyên nhân gây nên việc phá vỡ khoáng vật và đá là do sự thay đổi của nhiệt độ,
áp suất và sự tác động của các hoạt động địa chất ngoại lực như nước chảy, gió thổi xảy ra

trên bề mặt vỏ Trái Ðất.
Sự thay đổi nhiệt độ làm cho các khoáng vật có trong đá bị giãn nở không đều dẫn
đến kết quả đá bị vỡ ra. Các khoáng vật khác nhau có hệ số giãn nở rất khác nhau.
Ví dụ:
Tên khoáng vật Hệ số giãn nở
Thạch anh
Octoclaz
Mica
Canxit
0,00031
0,00017
0,00035
0,00020

Một loại đá được cấu tạo bởi nhiều khoáng vật khác nhau, do đó nhiệt độ thay đổi
các khoáng vật co giãn không giống nhau làm đá bị vỡ vụn. Như vậy thành phần khoáng
vật của đá càng nhiều thì đá càng dễ bị vỡ vụn. Những đá cấu tạo bởi một loại khoáng vật
(đá đơn khoáng) cũng bị vỡ do hệ số nở dài theo các phương khác nhau. Sự chênh lệch
nhiệt độ giữa ngày và đêm, giữa các mùa trong năm càng lớn thì phong hoá vật lý diễn ra
- 21 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
càng mạnh. Ví dụ, vùng sa mạc thường có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn
nên vào ban đêm có thể nghe được tiếng nổ vỡ của đá trong vùng.
Trong đá thường có các lỗ hổng và các vết nứt nguyên sinh chứa đầy khí hay nước.
Khi nhiệt độ xuống thấp dưới O
o
C, nước ở thể lỏng chuyển thành thể rắn (nước đóng băng)
làm tăng thể tích tạo áp suất lớn có khi tới hàng ngàn atmôtphe lên thành khe nứt làm cho
đá bị vỡ ra.
Các mảnh vụn sinh ra có thể di chuyển đi nơi khác theo dòng nước chảy hoặc gió

thổi sẽ phá huỷ các đá trên đường di chuyển của chúng.
Phong hoá vật lý có tính chất tiên phong, tạo điều kiện thuận lợi cho phong hoá hoá
học và sinh học.
b. Phong hoá hoá học
Do sự tác động của H
2
O, O
2
, CO
2
các khoáng vật và đá bị phá huỷ, thay đổi về
hình dạng, kích thước, thành phần và tính chất hoá học. Có thể nói, phong hoá hoá học chính là
các phản ứng hoá học diễn ra do sự tác động của H
2
O, O
2
, CO
2
lên đá và khoáng vật.
Phong hoá hoá học được chia thành 4 quá trình chính là: Ôxy hoá, hyđrat hoá, hoà
tan và sét hoá.
+ Quá trình ôxy hoá:
Quá trình này phụ thuộc chặt chẽ vào sự xâm nhập của O
2
tự do trong không khí và
O
2
hoà tan trong nước. Quá trình ôxy hoá làm cho khoáng vật và đá bị biến đổi, bị thay đổi
về thành phần hoá học.
Ví dụ:

Khoáng vật pyrít bị ô xy hoá và biến đổi như sau:
FeS
2
+ 7O
2
+ 2 H
2
O = 2 FeSO
4
+ 2 H
2
SO
4
12 FeSO
4
+ 3O
2
+ 6 H
2
O = 4 Fe
2
(SO
4
)
3
+ 4 Fe(OH)
3
Quá trình ôxy hoá diễn ra rất mạnh với hầu hết các nguyên tố hoá học có trong
khoáng vật và đá, đặc biệt là các nguyên tố hoá trị cao, ví dụ Mangan.
+ Quá trình hyđrát hoá:

Là quá trình nước tham gia vào mạng lưới tinh thể của khoáng vật, thực chất đây là
quá trình nước kết hợp với khoáng vật làm thay đổi thành phần hoá học của khoáng vật.
Ví dụ:
CaSO
4
CaSO
4
.2H
2
O
Anhyđrit Thạch cao
- 22 -
+ 2 H
2
O
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn

Fe
2
O
3
Fe
2
O
3
.nH
2
O
Hêmatít Limonit
+ Quá trình hoà tan:

Là quá trình các khoáng vật và đá bị hoà tan trong nước. Hầu như tất cả các khoáng
vật và đá bị hoà tan trong nước, nhưng mạnh nhất là các khoáng vật của lớp cácbônát và
lớp muối mỏ.
Ví dụ: CaCO
3
(đá vôi) bị hoà tan như sau:
CaCO
3
+ H
2
O + CO
2
⇔ Ca(HCO
3
)
2
Các khoáng vật và đá bị hoà tan tạo thành các dung dịch thật.
+ Quá trình sét hoá:
Các khoáng vật silicat, nhôm silicat do tác động của H
2
O, CO
2
sẽ bị biến đổi tạo
thành các khoáng sét (keo sét). Các chất kiềm và kiềm thổ trong khoáng vật bị H
+
chiếm
chỗ trong mạng lưới tinh thể được tách ra dưới dạng hoà tan. Như vậy thực chất của quá
trình sét hoá là các quá trình hoà tan, hyđrát hoá chuyển các khoáng vật silicát, nhôm
silicat thành các khoáng vật thứ sinh, các muối và oxýt.
Ví dụ:

K
2
Al
2
Si
6
O
16
+ H
2
O + CO
2
H
2
Al
2
Si
2
O
8
.2H
2
O + K
2
CO
3
+ SiO
2.
nH
2

O
Fenspatkali (orthoclaz) Kaolinit Ôpan
c. Phong hoá sinh học
Hoạt động của sinh vật bậc thấp, bậc cao cũng tham gia phá huỷ các khoáng vật và
đá. Rễ cây xuyên vào các khe nứt hút nước và các chất khoáng, theo thời gian, rễ to dần
phá vỡ đá. Mặt khác rễ cây tiết H
2
O và CO
2
tạo H
2
CO
3
để hoà tan đá và khoáng vật. Khi
chết xác sinh vật bị phân huỷ sinh ra các axit hữu cơ góp phần hoà tan các khoáng vật và
đá. Do vậy, bản chất của phong hoá sinh học là phong hoá vật lý và hoá học do sự tác động
của sinh vật lên khoáng vật và đá. Cũng trong quá trình này mẫu chất được tích luỹ chất
hữu cơ do xác sinh vật để lại sau khi chết, làm cho mẫu chất xuất hiện những thuộc tính
mới được gọi chung là độ phì và mẫu chất biến đổi thành đất. Nhà khoa học nổi tiếng
người Nga Vecnatxki cho rằng: "Hoạt động hoá học của vỏ Trái Ðất, gần 99% có liên quan
tới quá trình sinh hoá học".
2.1.2. Sản phẩm phong hoá, vỏ phong hoá
- 23 -
+ n H
2
O
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
a. Sản phẩm và vỏ phong hoá
+ Sản phẩm phong hoá: Các sản phẩm phong hoá là kết quả của quá trình phá huỷ
các khoáng vật và đá, do vậy chúng rất phong phú và đa dạng. Phong hoá vật lý tạo thành

các hạt vô cơ có kích thước khác nhau. Phong hoá hoá học tạo thành các hợp chất dễ tan,
oxyt, Hydrôxit và các loại keo sét. Phong hoá sinh vật ngoài sự tạo thành các sản phẩm
trên còn tạo sự tích luỹ chất hữu cơ trong mẫu chất.
+ Vỏ phong hoá: các loại sản phẩm phong hoá tích đọng lại tạo thành vỏ phong hoá.
Vỏ phong hoá là lớp vật chất nằm ở phía ngoài cùng của vỏ Trái Ðất. Sản phẩm phong hoá
biến đổi tạo thành mẫu chất, mẫu chất chịu tác động sâu sắc của sinh vật dần dần trở thành đất.
b. Các loại vỏ phong hoá
Căn cứ vào quá trình tích luỹ, thành phần và tính chất, vỏ phong hoá được chia
thành vỏ phong hoá tại chỗ và vỏ phong hoá trầm tích.
+ Vỏ phong hoá tại chỗ:
Các sản phẩm phong hoá tích luỹ ngay trên đá gốc (đá mẹ) tạo thành vỏ phong hoá
tại chỗ. Vỏ phong hoá tại chỗ có các loại sau:
- Vỏ phong hoá vụn thô: các mảnh vụn cơ học có kích thước lớn tích luỹ ngay trên
đá gốc, gặp ở vùng xói mòn mạch.
- Vỏ phong hoá Feralit: phổ biến ở vùng ôn đới có khí hậu ôn hoà. Hầu hết khoáng
vật silicát, nhôm silicát đều hoá sét, các muối dễ tan của các chất kiềm và kiềm đất có rất ít
do bị rửa trôi mạnh. Các khoáng vật nguyên sinh còn lại đều là khoáng vật bền vững như
thạch anh - SiO
2
.
- Vỏ phong hoá alít: Phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, phong hoá diễn ra
mạnh, khoáng vật nguyên sinh gặp phổ biến là thạch anh, thành phần chính là các hợp chất
của nhôm.
+ Vỏ phong hoá trầm tích
Sản phẩm phong hoá di chuyển theo dòng nước chảy hay cuốn theo gió thổi, được
tích luỹ lại khi gặp các điều kiện thuận lợi tạo thành vỏ phong hoá trầm tích. Vỏ phong hoá
trầm tích có các loại sau:
- Vỏ phong hoá trầm tích Sialit: chủ yếu là sét, các keo sét, ngoài ra còn có limon
cát. Khoáng vật nguyên sinh có thạch anh, Fenspat.
- Vỏ phong hoá cacbonat - Sialit: Thành phần giống vỏ phong hoá trầm tích Sialit

nhưng có chứa một lượng CaCO
3
nhất định.
- 24 -
Bài giảng khoa học đất Trần Xuân Miễn
- Vỏ phong hoá Clorua, Sunphát, Cacbonát - Sialit: Thành phần giống 2 loại vỏ
phong hoá trầm tích Sialít, Cacbonat - Sialít và có chứa thêm các muối Clorua Sunphát của
các chất kiềm và kiềm đất.
Theo viện sĩ Pôlưnốp có 3 loại mẫu chất là tàn tích (êluvi), sườn tích (đêluvi) và
phù sa (aluvia). Tàn tích là sản phẩm phong hoá tích đọng tại chỗ ngay trên đá gốc, thường
bị rửa trôi và xói mòn mạnh. Sườn tích là sản phẩm phong hoá bị cuốn trôi từ trên đỉnh đồi,
đỉnh núi xuống tích tụ ở sườn hay chân đồi, núi. Do vậy sườn tích còn gọi là sản phẩm dốc
tụ. Phù sa là sản phẩm tích đọng từ các sản phẩm được cuốn trôi do dòng nước chảy, thành
phần phù sa phức tạp và khác xa so với đá gốc.
+ Vỏ phong hoá ở Việt Nam
Theo V.M.Fritland, Việt Nam có các loại vỏ phong hoá sau:
- Vỏ phong hoá Feralit: Phổ biến ở vùng trung du và núi thấp, các khoáng vật thứ
sinh chủ yếu là Kaolinit, gipxit, gơtit. Trên vỏ phong hoá này hình thành nên nhóm đất
Feralit - đất đỏ vàng ở nước ta.
- Vỏ phong hoá alit: gặp ở vùng núi cao từ 1700m trở lên, điển hình nhất là ở độ
cao > 2000m. Khí hậu ẩm ướt, sắt bị rửa trôi mạnh nhưng nhôm được tích luỹ do không bị
rửa trôi như sắt.
- Vỏ phong hoá Macgalit - Feralit: Gặp ở Phủ Quỳ Nghệ An trên đá bọt bazan
- Vỏ phong hoá trầm tích Sialit: Gặp ở các vùng đồng bằng tạo bởi quá trình lắng
đọng phù sa của hệ thống sông ngòi nước ta. Thành phần là các loại keo sét, ngoài ra còn
gặp các khoáng vật nguyên sinh như Thạch anh, Fenspat, Mica.
Vùng ven biển còn gặp vỏ phong hoá Clorua, Sunphát - Sialit.
2.2 Một số quá trình thường xảy ra trong đất
Dưới tác động của các điều kiện tự nhiên khác nhau, mỗi loại đất không chỉ chịu
ảnh hưởng

c

a
một quá trình nhất định, mà
c
hịu ảnh hưởng của nhiều quá trình khác nhau,
trong đó có một hoặc vài
qu
á

t
r
ì
nh chiếm ưu
thế
, quyết định tính
c
h
ất
đ
ất
.
Sau đây là một số quá trình thường xuất hiện trong sự hình thành
đ
ất
V
iệt Nam
2.2.1 Quá trình hóa sét
Trong quá trình phong hóa hình thành đất, các khoáng thứ sinh
al

umin
s
ilicat
phức
tạp được hình thành từ các khoáng vật nguyên sinh silicat như fenspat,
mica
,
am
ph
i
bo
lit
,
Ví dụ: Sự phá hủy
c
ủa fenspat
k
ali:
K
2
O.Al
2
O
3
.6SiO
2
+ nH
2
O + CO
2


A
l
2
O
3
.2S
i
O
2
.2H2O + K
2
CO3
+
4SiO
2
.nH
2
O
fenspat kali
k
ao
li
n
it
- 25 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×