Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Di chúc chung của vợ, chồng những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ


DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Sinh viên thực hiện: Đặng Thị Nga
Khóa: 34 MSSV: 0955020095
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Lương Văn Lắm
Niên khóa: 2009-2013

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, trước hết tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban giám hiệu nhà trường cùng tồn thể q thầy cơ trường Đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh. Thầy, cơ đã truyền đạt cho tác giả những kiến thức quý báu, những kinh
nghiệm bổ ích cùng với sự chỉ bảo tận tình của q thầy cơ giành cho chúng tác giả
trong suất bốn năm học qua.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Lương
Văn Lắm, thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tác giả nhận ra những sai sót và
khuyết điểm cũng như việc học hỏi được rất nhiều điều trong q trình viết khóa luận
này.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn thân thương nhất đến các bạn sinh viên lớp Dân
sự 34A, những người bạn đã giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt quá trình học tập cũng
như q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình và những người


thân của tác giả, những người đã luôn động viên, giúp đỡ và trở thành động lực để
giúp tác giả có thể phấn đấu cố gắng hồn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình.
Mặc dù khóa luận đã được hồn thành với tất cả những tâm huyết, sự cố gắng
và nỗ lực của bản thân nhưng do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau khơng thể tránh khỏi những sai sót, hạn chế nhất định. Vì vậy, tác giả rất mong
nhận được sự quan tâm, nhận xét, đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô và các bạn
để tác giả có thể khắc phục những khuyết điểm của mình.
Trân trọng cám ơn!
Tác giả


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS 1995

Bộ luật dân sự năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật dân sự năm 2005

CHLB

Cộng hòa liên bang

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

Luật HN&GĐ 2000


Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đổi, bổ sung
năm 2010

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

Tp. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ DI CHÚC
CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG .......................................................................................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ, chồng .......................................... 6
1.1.1. Khái quát chung về di chúc chung của vợ, chồng ............................................ 6
1.1.2. Sơ lược lịch sử về di chúc chung của vợ chồng .............................................. 15
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề di chúc chung của vợ,

chồng ............................................................................................................................ 22
1.2.1. Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng ......................................................... 22
1.2.2. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng ....... 29
1.2.3. Hiệu lực của di chúc chung vợ, chồng............................................................ 31
Chương 2: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ DI CHÚC
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ......................................................................................... 33
2.1. Một số hạn chế và bất cập về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng...................... 33
2.1.1. Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng ......................................................... 33
2.1.2. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng ....... 41
2.1.3. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng............................................................ 45
2.2. Thực trạng về vấn đề di chúc chung của vợ chồng. .............................................. 51
2.2.1. Thực trạng về vấn đề di chúc chung của vợ chồng trong cuộc sống. ............ 51
2.2.2. Thực tiễn xét xử về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ............................... 56
2.3. Những kiến nghị hồn thiện pháp luật. ................................................................. 65
2.3.1.Quan điểm khơng nên thừa nhận vấn đề di chúc chung vợ, chồng. ................ 65
2.3.2. Quan điểm nên thừa nhận di chúc chung của vợ chồng................................. 67
2.3.3. Một số kiến nghị cụ thể. .................................................................................. 68
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Để xây dựng một xã hội phát triển trước hết cần
phải xây dựng một gia đình hạnh phúc. Đúng như vậy, tình nghĩa vợ chồng thủy chung
son sắc như là một tập tục, một thói quen thường lệ được xã hội coi trọng. Điều này
không những được thể hiện trong cuộc sống đời thường mà vấn đề này còn được ghi
nhận trong cả Hiến pháp và pháp luật. Tại Điều 64 của Hiến pháp 1992 có quy định:
“Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hơn nhân theo
ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Theo quy định

tại Điều 18 Luật HN&GĐ 2000 thì vợ chồng phải “…chung thủy, thương yêu, quý
trọng, chăm chỉ, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững”.
Vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, họ sẽ tạo dựng được
khối tài sản chung cùng với nhau. Đây là tài sản chung của vợ và chồng. Do đó, họ có
quyền tự định đoạt khối tài sản chung đó khi họ còn sống (mua bán, thế chấp, tặng
cho…) và khi họ đã chết (thể hiện thông qua di chúc). “Quan niệm truyền thống của
người Việt Nam vốn rất được coi trọng đạo nghĩa vợ-chồng và ln muốn củng cố tình
thương u, đồn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích vợ, chồng cùng nhau lập di
chúc chung để định đoạt tài sản chung và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự
đoàn kết, yêu thương giữa vợ, chồng”1. Vấn đề di chúc chung của vợ chồng đã được ghi
nhận trong các quy định của pháp luật trước đó và cho đến ngày nay lại được quy định
tại Điều 663 BLDS 2005: “Vợ, chồng có thể lập di chúc để định đoạt tài sản chung”.
Đây là một loại di chúc khá phổ biến trong xã hội Việt Nam và tồn tại từ bao đời nay, nó
như là một thói quen gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc.
Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu cho thấy di chúc chung của vợ, chồng hồn tồn
khơng phải là vấn đề đơn giản và việc vận dụng nó lại vơ cùng phức tạp. Đã có rất nhiều
ý kiến, quan điểm là nên bỏ vấn đề này và trong báo cáo thẩm tra dự án sửa đổi BLDS
1995 của Ủy ban Pháp luật Quốc hội có ghi nhận: “Thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự
cho thấy việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến di chúc chung của vợ chồng là

1

Lê Minh Hùng, Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí khoa học
pháp lý số 35 năm 2006, tr.28.

1


phức tạp, khó bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người đã chết và người cịn sống.

Vì lý do đó, dự thảo lần này đã bác bỏ các quy định về di chúc chung của vợ chồng”.
Nhưng sau đó, vấn đề di chúc chung của vợ chồng lại xuất hiện và được quy định
minh thị trong BLDS 2005. Qua những phân tích trên, chúng ta thấy quy định về di chúc
chung của vợ chồng là có cơ sở lý luận nhưng việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn lại
rất khó khăn, phức tạp và nan giải. Pháp luật thực định chỉ dùng ba điều luật để điều
chỉnh về vấn đề này: Điều 663 quy định về quyền lập di chúc chung của vợ, chồng;
Điều 664 quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ
chồng và Điều 668 quy định về hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng. Qua đó, chúng ta
thấy tính chất tương xứng khơng được đặt ra, pháp luật chỉ quy định trong ba điều luật
ngắn để điều chỉnh một vấn đề phức tạp và có thể liên quan đến nhiều điều luật khác
trong hệ thống pháp luật. “Việc này cũng giống như dùng chiếc áo trẻ em để mặc cho
một cơ thể người lớn”2 . Do đó, quy định này đã gây nên những bất cập và khó khăn
trong việc hiểu luật cũng như áp dụng pháp luật, khơng những vậy cịn tạo ra nhiều mâu
thuẫn so với các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Qua đó, chúng ta thấy pháp luật có quy định về vấn đề di chúc chung của vợ
chồng là một quy định tiến bộ phù hợp với truyền thống, phong tục của người Việt.
Nhưng quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này còn quá chung chung chưa cụ
thể, gây nên nhiều bất cập, khó khăn trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh. Điều
này tạo nên sự lúng túng cho các cơ quan chức năng khi giải quyết những vấn đề pháp
lý và gây khó khăn trong việc hiểu luật và áp dụng pháp luật của người dân khiến cho
pháp luật không được thực thi trong cuộc sống. Chính vì lẽ trên mà tác giả khóa luận
chọn đề tài “Di chúc chung của vợ, chồng những vấn đề lý luận và thực tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các cơng trình khoa học, cơng trình nghiên cứu về vấn đề di chúc
chung của vợ chồng rất ít và khơng mang tính chất phổ biến. Có thể kể tên một số cơng
trình nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế nói chung và di chúc chung của vợ chồng nói riêng
như sau:
Thứ nhất, về sách chuyên khảo như: Vũ Văn Mẫu, “Thừa kế theo di chúc trong
luật Việt Nam”; Phùng Trung Tập, “Luật thừa kế Việt Nam” và “Thừa kế của công dân
2


Lê Minh Hùng, Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí
khoa học pháp lý số 35 năm 2006, tr.37

2


Việt Nam từ 1945 đến nay”; Phạm Văn Tiết, “Thừa kế theo quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng”; Nguyễn Ngọc Điện, “Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật Dân sự
Việt Nam”; Đỗ Văn Đại, “Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án”…
Thứ hai, về một số luận văn, luận án cũng có nghiên cứu về vấn đề này như:
Phạm Văn Tiết, Luận án Tiến sỹ, “Thừa kế theo di chúc”; Đỗ Thu Hiền, Luận văn Thạc
sỹ, “Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam”; Đồng Thị Thu Sa,
khóa luận tốt nghiệp, “Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực di chúc chung của vợ
chồng”; Hoàng Thị Mỹ Phương, khóa luận tốt nghiệp, “Một số vấn đề trong việc thừa
nhận việc lập di chúc chung của vợ chồng”…
Thứ ba, ngồi ra cịn một số cơng trình nghiên cứu trong các tạp chí như: Lê
Minh Hùng, Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 20 năm 2009; Lê Minh Hùng, Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền
lập di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí khoa học pháp lý số 35 năm 2006; Nguyễn
Quang Hà, Pháp luật thừa kế từ những góc nhìn, Tạp chí TAND số 17 năm 2012;
Nguyễn Thị Lài, Bàn về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí TAND số 20
năm 2010; Nguyễn Thế Lục, Trao đổi bài viết bàn về hiệu lực di chúc chung của vợ
chồng, Tạp chí TAND số 04 năm 2011…
Đa số các cơng trình nghiên cứu ở trên đều có phạm vi rất rộng về vấn đề thừa kế
nói chung, rất ít các cơng trình nghiên cứu về vấn đề di chúc chung của vợ chồng một
cách cụ thể và càng khơng có cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề về di chúc
chung của vợ chồng về những vấn đề lý luận, thực tiễn, các bất cập và kiến nghị.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của khóa luận nhằm đưa ra những khái quát chung nhất và những cơ sở

lý luận về di chúc chung của vợ chồng để cho người đọc có một cái nhìn chung nhất
và tổng quát nhất về những vấn đề xoay quanh di chúc chung của vợ, chồng. Tiếp theo
đó, trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành có quy định về di chúc chung của
vợ chồng để so sánh, đối chiếu với quy định của pháp luật trước đó và quy định trong
pháp luật của một số nước trên thế giới, qua đó đánh giá những quy định của pháp luật
thơng qua việc phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề
này. Cuối cùng, từ những quy định của pháp luật thực định để nghiên cứu thực tiễn
việc hiểu luật và áp dụng luật cũng như đưa ra một số giải pháp hồn thiện pháp luật
về thừa kế nói chung và vấn đề di chúc chung của vợ chồng nói riêng.

3


Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Do vấn đề di chúc chung của vợ chồng là vấn
đề có một phạm vi rất rộng và rất phức tạp và có sự giới hạn về trình độ cũng như khả
năng hạn chế của bản than nên trong phạm vi đề tài này tác giả chỉ đi nghiên cứu vào
quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề di chúc chung của vợ chồng (quyền lập di
chúc chung của vợ, chồng; vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung vợ
chồng và hiệu lực của di chúc chung vợ chồng) và những vấn đề pháp lý có liên quan
trong hai mảng chính là lý luận và thực tiễn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong việc nghiên cứu đề tài này, khóa luận đã sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau. Phương pháp đầu tiên phải kể đến là phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật
biện chứng của C.Mác-Lênin-Nhìn nhận vấn đề trong mối quan hệ tổng thể giữa cái
chung và cái riêng của từng vấn đề có lơgic, có qua có lại giữa các vấn đề để làm sáng
tỏ nội dung cần nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về di chúc chung của
vợ chồng.
Các phương pháp khác cũng được sử dụng trong khóa luận như phương pháp so
sánh, phân tích, chứng minh để làm sáng tỏ, từng vấn đề cụ thể giữa các quy định cũ
và quy định mới, giữa những quy định chung và riêng nhằm đưa ra nhận xét, quan

điểm của cá nhân để làm nổi bật lên vấn đề cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng đang là một vấn đề rất quan trọng và rất
được chú trọng trong cuộc sống đời thường cũng như trong những quy định của pháp
luật. Trong đề tài “Di chúc chung của vợ chồng những vấn đề lý luận và thực tiễn” đã
giải quyết được những vấn đề sau: Đưa ra được cơ sở lý luận về vấn đề di chúc chung
của vợ, chồng giúp cho người đọc có cái nhìn sâu sắc nhất về vấn đề này; so sánh
những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề di chúc chung của vợ chồng với
quy định của những thời kỳ trước đó cũng như so sánh với quy định pháp luật của một
số nước trên thế giới để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt về vấn đề này qua
đó phục vụ cho việc nghiên cứu lập pháp của Việt Nam; Bên cạnh đó khóa luận đã nêu
lên những bất cập trong việc hiểu luật cũng như áp dụng pháp luật về vấn đề di chúc
chung của vợ chồng, mặt khác khóa luận cũng làm sáng tỏ sự bất cập ấy thông qua
thực tiễn cuộc sống cũng như thực tiễn xét xử về vấn đề này qua đó đưa ra một số kiến
nghị để hồn thiện pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng.

4


6. Cơ cấu của khóa luận
Ngồi phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được
cơ cấu gồm 2 chương:
Chương 1: tập trung giải quyết những vấn đề sau: nêu lên những khái quát chung
nhất về di chúc chung của vợ chồng và sơ luợc về lịch sử về vấn đề di chúc chung của
vợ, chồng so với các thời kỳ trước đó và với pháp luật của một số nước trên thế giới;
phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề di chúc chung
của vợ, chồng.
Chương 2: tập trung giải quyết những vấn đề sau: nêu lên thực trạng về vấn đề di
chúc chung của vợ, chồng và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này.


5


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ, chồng
1.1.1. Khái quát về di chúc chung của vợ, chồng
1.1.1.1 Khái niệm di chúc chung của vợ chồng
Pháp luật về thừa kế là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam,
có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thừa
kế. Theo Từ Điển Luật Học: “Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho
người khác theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật”. Theo đó, cá nhân trước khi
chết có quyền để lại tài sản cho người thừa kế và người thừa kế có quyền nhận hay
khơng nhận tài sản đó. Hiện nay, đa số pháp luật các nước trên thế giới đều qui định có
hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Việt Nam cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ, theo Điều 631 BLDS 2005: “Cá nhân có quyền lập
di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Thừa kế theo pháp luật là
hình thức do pháp luật quy định mà theo đó việc phân chia di sản thừa kế khơng phụ
thuộc vào ý chí của người để lại di sản. Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa
kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định3.
Khác với thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc là chia di sản cho người
thừa kế theo sự định đoạt trong di chúc của người có di sản lập di chúc và người thừa kế
theo di chúc là bất kì ai4. Theo quy định tại Điều 646 BLDS 2005: “Di chúc là sự thể
hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc là do ý chí định đoạt của chính người có
di sản. Như vậy, việc phân chia di sản cho những ai, tỷ lệ bao nhiêu là hồn tồn do ý
chí và mong muốn của người chết5. Mặt khác, người được hưởng di sản thừa kế có thể

là bất kì ai, khơng nhất thiết phải nằm trong hàng thừa kế đã được quy định tại Điều 676
BLDS 2005. Thông thường di chúc chỉ do cá nhân một người lập, thể hiện ý chí của một
cá nhân để chuyển giao tài sản của mình sau khi chết cho người khác. Pháp luật dân sự
3

Xem Điều 674 BLDS 2005
Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, tr. 77
5
Tuy nhiên việc phân chia này bị giới hạn tại Điều 669 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc: “Trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng ít hơn hai phần ba
suất đó thì họ sẽ được hưởng hai phần ba của một suất mặc dù việc này không được ghi nhận trong di chúc”.
4

6


Việt Nam đã quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt có sự thể hiện ý chí chung thống
nhất của hai người là “Di chúc chung của vợ chồng” được ghi nhận tại Điều 663 BLDS
2005: “Vợ, chồng có thể lập di chúc để định đoạt tài sản chung”.
Pháp luật dân sự hiện hành thừa nhận việc lập di chúc chung của vợ chồng nhưng
lại không đưa ra khái niệm về di chúc chung của vợ, chồng mà chỉ đưa ra quy định về
quyền lập di chúc chung của vợ chồng tại Điều 663 BLDS 2005. Do đó, chúng ta có thể
dựa vào các quy định chung về di chúc và bản chất về thừa kế theo di chúc có thể đưa ra
khái niệm về di chúc chung của vợ, chồng như sau: “Di chúc chung của vợ, chồng là
một loại di chúc đặc biệt thể hiện ý chí chung, thống nhất giữa vợ và chồng để cùng
định đoạt tài sản chung của vợ chồng cho người khác sau khi chết”. Đây là một loại di
chúc khá phổ biến trong xã hội Việt Nam và tồn tại từ bao đời nay, nó như là một thói
quen gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc.
Tuy nhiên, xung quanh quy định này cịn có rất nhiều hạn chế, đặt ra vấn đề cần
thiết phải pháp điển hóa, quy định cụ thể vào các văn bản cấp độ luật. Bởi lẽ đây là loại

di chúc đặc biệt gắn liền với ý chí chung của hai chủ thể để cùng thống nhất định đoạt
khối tài sản chung. Do đó, xoay quanh vấn đề này đã đặt ra rất nhiều các vấn đề pháp lý
có liên quan mà khi dựa vào những quy định của pháp luật hiện hành thì lại rất khó giải
quyết. Chính vì vậy, cần có những chế định pháp luật nhất định để giải quyết những vấn
đề pháp lý ấy và đồng thời để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ và chồng khi
lập di chúc chung cũng như đối với những người thừa kế nhất định.
1.1.1.2 Đặc điểm về di chúc chung của vợ chồng
Di chúc chung của vợ, chồng là một loại di chúc rất đặc biệt. Đây là bản di chúc
thể hiện được sự thống nhất về ý chí chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung của
vợ chồng cho người khác sau khi chết. Do đó, di chúc chung của vợ chồng sẽ mang
những đặc điểm của di chúc thơng thường và những đặc điểm mang tính chất đặc thù
của nó như:
Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng là một loại giao dịch dân sự, dạng hành vi
pháp lý đơn phương và khơng mang tính chất đền bù thể hiện ý chí chung và “thống
nhất ý chí của cả vợ, chồng”6 để cùng định đoạt một khối tài sản chung. Nó khác với di
chúc thơng thường ở chỗ: di chúc thơng thường chỉ do ý chí của một cá nhân tự chuyển
dịch tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác. Trong di chúc thơng thường
quan hệ xác lập dựa trên quan hệ giữa một bên là một cá nhân là người lập di chúc với
6

Hoàng Thế Liên (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, tập III, Tr. 78.

7


một bên là người thừa kế, còn trong di chúc chung của vợ chồng thì cả hai vợ chồng
cùng là một bên trong quan hệ với một bên là người thừa kế. Do đó, ngay cả khi vợ
chồng cùng lập di chúc chung thì tính chất một bên của giao dịch vẫn không hề mất đi.
Vợ chồng đã thỏa thuận, thống nhất cùng định đoạt khối tài sản chung của mình thì phải
được pháp luật tơn trọng và bảo vệ. Như vậy, xét về chủ thể lập di chúc chung thì phải

là vợ chồng được pháp luật cơng nhận theo quy định của luật HN&GĐ 20007. Do đó,
nếu hai người sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa
nhận mặc dù họ cùng có ý chí thống nhất với nhau trong việc lập di chúc thì di chúc
chung của họ không phải là di chúc chung của vợ chồng nên khơng có giá trị pháp lý.
Thứ hai, tài sản được định đoạt trong di chúc phải là tài sản chung của vợ chồng.
Điều này khác với di chúc thông thường tài sản được định đoạt trong di chúc là tài sản
riêng của cá nhân người lập di chúc. Theo Điều 634 BLDS 2005: “Di sản bao gồm tài
sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”. Đây là hình thức sở hữu tài sản có thể phân chia được. Ngược lại, về hình thức sở
hữu chung của vợ chồng thì theo quy định tại Điều 219 BLDS 2005 là sở hữu chung
hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của
mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung8. Chúng ta chỉ thừa
nhận di chúc này là di chúc chung của vợ, chồng khi di chúc này định đoạt tài sản chung
của vợ chồng. Theo Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 và theo quy định tại mục 3 Nghị quyết
số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
HN&GĐ 2000 thì tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: (i) Tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác như tiền lương, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng sổ xố mà vợ
chồng có được... (ii)Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 có quy định tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ, chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ, chồng. Theo Điều 5, Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết Luật HN&GĐ 2000 có hướng dẫn tài
sản phải đăng ký sở hữu có ghi tên cả hai vợ, chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất và
những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Như vậy, một vấn
đề đặt ra là trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên vợ
hoặc chồng thì sẽ xác định tài sản này như thế nào? Tại khoản 3, Điều 43 Nghị định số
7
8


Vấn đề này đề nghị tham khảo tại phần 1.2.1.
Xem Điều 217 BLDS 2005.

8


81/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai 2003 có quy định: “Trường
hợp hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp được nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ chồng thì ghi cả họ, tên vợ
và họ, tên chồng trong trường hợp hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên
chồng thì phải có văn bản thỏa thuận của vợ và chồng có chứng thực của UBND xã,
phường, thị trấn”. Như vậy, quy định này địi hỏi phải có sự thỏa thuận của vợ, chồng.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 5, Nghị định 70/2001/NĐ-CP: “Trong trường hợp tài
sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định
này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng thì vợ chồng có thể yêu cầu
cơ quan nhà nước cấp lại...nếu vợ hoặc chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký
quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng; nếu có tranh
chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thì có nghĩa vụ chứng
minh”. Như vậy, nếu việc đăng ký quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng mà
muốn ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì phải có văn bản thỏa thuận có chứng thực của
hai bên vợ và chồng; nếu đã đăng ký mà không yêu cầu cấp lại theo quy định của pháp
luật thì vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng, trường hợp nếu có tranh chấp thì cần phải
chứng minh tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của một bên. Nếu khơng chứng minh được
hoặc khơng có cơ sở để chứng minh đó là tài sản riêng thì nó vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ, chồng.
1.1.1.3. Cơ sở lý luận về di chúc chung của vợ chồng
Theo Từ Điển Tiếng Việt9: cơ sở là nền tảng, là cái dựa trên đó để xây dựng nên
những cái khác; lý luận là tổng kết có hệ thống những kinh nghiệm của loài người, phát
sinh từ thực tiễn để chi phối và cải biến thực tiễn. Theo quan niệm của triết học Mác –

Lênin thì lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn
phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm
trù, nguyên lý, quy luật…Như vậy, cơ sở lý luận của vấn đề di chúc chung vợ chồng là
hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm của thực tiễn để làm cơ sở, nền
tảng để xây dựng nên những quy định về di chúc chung của vợ chồng. Hay nói cách
khác nó được sử dụng để trả lời cho câu hỏi “Tại sao lại có quy định về di chúc chung
của vợ, chồng?”.

9

Nguồn: www.informatik.uni-leipzig.de/~dud/dict/. Ngày cập nhật: 05/6/2013

9


a. Xuất phát từ bản chất mối quan hệ giữa vợ và chồng trong cuộc sống
Thông thường, khi đến một độ tuổi nhất định thì hai bên nam, nữ sẽ thiết lập một
quan hệ vợ chồng với nhau, nhằm cùng nhau chia sẻ tình cảm, gánh vác cơng việc sinh
con và nuôi dạy con. Hành vi đăng ký kết hôn của nam và nữ là một sự kiện làm phát
sinh quan hệ hôn nhân. Hiểu một cách đầy đủ và tồn diện thì hơn nhân là sự liên kết
giữa một người nam và một người nữ, trên nguyên tắc hoàn tồn tự nguyện, bình đẳng,
tn thủ đầy đủ các quy định của pháp luật nhằm cùng nhau xây đựng gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, chịu sự
tác động của đạo đức, tôn giáo, pháp luật. Hôn nhân là nền tảng, là cơ sở chủ yếu để
hình thành nên gia đình. Từ quan hệ hơn nhân, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ
và chồng. Hôn nhân là mối liên kết vừa mang tính quy luật tự nhiên vừa mang tính quy
luật xã hội, pháp lý10.
Chính vì lẽ đó, vấn đề này cịn được ghi nhận cả trong Hiến pháp và pháp luật.
Tại Điều 64 của Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 51/2001

của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 10 thơng
qua ngày 25/12/2001) có quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia đình. Hơn nhân theo ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,
vợ chồng bình đẳng”. Ngay tại Lời nói đầu của Luật HN&GĐ 2000 cũng khẳng định:
“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng để hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Theo quy định
tại Điều 18 Luật HN&GĐ 2000 thì vợ chồng phải “…chung thủy, thương yêu, quý
trọng, chăm chỉ, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững”.
Từ những cơ sở trên, vợ chồng cùng nhau sống dưới một mái nhà, cùng nhau
phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất để xây dựng một gia đình ấm no và hạnh phúc.
Trong q trình đó họ sẽ tạo lập được một khối tài sản chung, khối tài sản này sẽ là cơ
sở kinh tế của gia đình, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình để từ đó thực hiện tốt
các chức năng của xã hội. Theo Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 thì: “Tài sản chung của vợ
chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác
mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Mặt khác theo quy định tại Điều 58 Hiến
10

Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Luật hơn nhân và gia đình, Tr. 11-12

10


pháp 1992 thì: “Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sản xuất, vốn…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của
cơng dân”. Chính vì lẽ trên mà vợ chồng là chủ sở hữu chung đối với khối tài sản chung
của họ nên họ có quyền tự định đoạt khối tài sản chung đó khi họ còn sống (mua bán,

thế chấp, tặng cho…) và khi họ đã chết (thể hiện thông qua di chúc). Như vậy, di chúc
chung của vợ chồng thể hiện quyền tự định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng dựa trên
ý chí cùng thống nhất chung giữa hai vợ chồng11.
b. Xuất phát từ tục lệ của Việt Nam từ xưa đến nay
Theo Gs. Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội trước đây
cho thấy, di chúc chung của vợ chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ chồng
cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ. Quan niệm truyền
thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ, chồng và ln muốn củng cố
tình thương u, đồn kết trong gia đình nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng
nhau lập di chúc để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là biểu hiện cao đẹp của sự
đoàn kết, yêu thương giữa vợ, chồng12. Đồng thời, đây cũng là một thiết chế góp phần
làm bình đẳng quan hệ giữa vợ và chồng. “Bởi vậy, tự nhiên phải có các biện pháp
nhằm tạo ra một đối trọng thực sự đối với thiết chế chủ gia đình chủ sở hữu do luật và
đạo đức quy định nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền hạn của người này trái với lợi ích
của gia đình...Sự tham gia của người vợ vào di chúc do người chồng lập, với tư cách là
người cùng đứng lập, là một giải pháp của luật cổ và tục lệ Việt Nam”13.
Nhìn một cách khái quát nhất thì pháp luật cận đại và hiện hành dù thể hiện một
cách trực tiếp hay gián tiếp cũng đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng14
là thể hiện nguyên tắc củng cố tình u thương, đồn kết trong gia đình. Bởi lẽ những gì
đã tồn tại thì khơng dễ dàng bị thay đổi hay mất đi, mặt khác vấn đề di chúc chung của
vợ chồng so với thời điểm hiện nay nó hồn tồn khơng phải là một vấn đề lạc hậu, ấu
trĩ không phù hợp với thời đại mà ngược lại đây lại là vấn đề rất tiến bộ. Chính từ lẽ đó
mà vấn đề di chúc chung của vợ chồng lại vẫn được ghi nhận trong BLDS 2005. Nó
được thể hiện là một loại di chúc khá phổ biến trong xã hội Việt Nam và tồn tại từ bao
đời nay, như là một thói quen gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên,
11

Xem Điều 219 BLDS 2005: “…Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung…có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung…Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận…định đoạt
tài sản chung”

12
Lê Minh Hùng, Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí khoa học
pháp lý số 35 năm 2006, tr. 28
13
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam, tr.168
14
Vấn đề này đề nghị tham khảo tại phần 1.1.2.1.

11


trong xã hội đương đại việc lập di chúc chung của vợ, chồng không phải là hiện tượng
phổ biến.
c. Xuất phát từ việc tiếp thu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
Trong việc nghiên cứu lập pháp thì để tạo ra một văn bản pháp luật cần có một
quá trình nghiên cứu lâu dài. Nếu đưa ra một văn bản luật khơng phù hợp với tiến trình
phát triển của xã hội thì sẽ dẫn đến hậu quả là pháp luật sẽ không được thực thi trong
cuộc sống. Đây sẽ là thất bại lớn nhất của nhà làm luật. Do vậy, muốn ban hành một văn
bản phù hợp với thực tiễn thì cần dựa trên hồn cảnh kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội
của đất nước, trình độ văn hóa và am hiểu pháp luật của nhân dân…Để làm được điều
này là vơ cùng khó khăn vì cần phải có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, ứng dụng khác
nhau để kiểm chứng tính phù hợp của pháp luật.
Một giải pháp hữu ích nhất được đặt ra là tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của một
số nước trên thế giới thông qua việc so sánh hệ thống pháp luật. So sánh hệ thống pháp
luật là việc so sánh, đối chiếu các hệ thống pháp luật để tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, giải thích tại sao lại có sự tương đồng và khác
biệt ấy đồng thời đưa ra giải pháp để hồn thiện pháp luật nước mình.
Xuất phát từ việc tiếp thu pháp luật của một số nước trên thế giới có quy định về
vấn đề di chúc chung của vợ chồng15 như: pháp luật của CHLB Đức; pháp luật của
Quebec (Canada), Áo… Với những quốc gia này nếu khi kết hôn vợ chồng lập hôn ước

để định đoạt tài sản của mình hoặc hơn nhân của họ là chế độ phân sản thì quyền lập di
chúc chung cũng khơng bị hạn chế trừ điều kiện về tài sản vợ chồng định đoạt trong di
chúc phải là tài sản chung16. Như vậy, ở các quốc gia này đã đặt ra vấn đề di chúc chung
của vợ chồng, cũng giống như pháp luật Việt Nam, một điều kiện tiên quyết đã được đặt
ra là trong di chúc chung phải định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Xuất phát từ những
điểm tương đồng về các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội... Do đó, kéo theo các chế định
pháp luật cũng có một số điểm tương đồng. Chính vì vậy, đây cũng là một cơ sở để thiết
lập nên chế định di chúc chung của vợ chồng.
d. Xuất phát từ thực tế đời sống đang đặt ra nhu cầu phải điều chỉnh bằng
pháp luật về việc vợ chồng cùng nhau lập di chúc chung.

15

Vấn đề này đề nghị tham khảo tại phần 1.1.2.2.
Nguồn: luanvan.co/.../phap-luat-viet-nam-hien-hanh-ve-hieu-luc-phap-luat-di-chuc- chung-cua-vo-chong9716/, ngày cập nhật 05/6/2013
16

12


Sống với nhau đến cuối đời, đa số các cặp vợ chồng thường có ý nguyện lập di
chúc chung để lại tài sản cho người thân của mình. Việc này thể hiện sự thống nhất của
vợ chồng khi định đoạt tài sản chung, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người vợ hoặc
chồng còn sống và ràng buộc trách nhiệm đối với những người được hưởng di sản. Vợ
chồng cùng nhau tạo lập nên khối tài sản chung nên họ cùng nhau thống nhất ý chí để
định đoạt khối tài sản chung đó. Đây cũng là một điều dễ hiểu trong cuộc sống. Một vấn
đề pháp lý được đặt ra là tại sao pháp luật chỉ thừa nhận di chúc chung của vợ chồng mà
khơng ghi nhận hình thức di chúc chung khác? Bộ luật dân sự hiện hành chỉ có một quy
định duy nhất về hình thức di chúc chung là di chúc chung của vợ, chồng17. Đây là một
câu hỏi được đặt ra rất khó trả lời và có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Điều

đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, có một số quan điểm cho rằng ngoài di chúc chung của vợ chồng có
thể tồn tại di chúc chung khác. Lập luận cho quan điểm này là pháp luật chỉ có quy định
về di chúc chung của vợ chồng và không quy định về bất cứ một loại di chúc chung nào
khác. Tuy nhiên việc khơng quy định khơng có nghĩa là pháp luật “cấm” mọi người
không phải vợ chồng lập di chúc chung. Nhà nước ta ln khuyến khích mọi người sống
và làm việc theo pháp luật và không được làm những gì mà pháp luật cấm. Do đó, vấn
đề các hình thức di chúc chung khác khơng phải là quy định “cấm” nên vẫn có thể tồn
tại loại hình thức di chúc này.
Thứ hai, có một số quan điểm cho rằng có thể tồn tại hình thức di chúc chung do
mọi người khơng phải là vợ chồng lập, ví dụ như: anh em có thể lập di chúc chung về di
sản mà bố mẹ để lại. Tuy nhiên, cần thêm một điều kiện đó là phải ghi nhận sự thỏa
thuận trong việc lập di chúc chung. Phải có sự thỏa thuận này bởi vì nếu có một người
chết trước thì phần di sản của người chết trước sẽ có hiệu lực pháp luật. Như vậy chẳng
khác gì việc lập di chúc riêng. Do đó, chúng ta có thể dựa trên quy định tại Điều 686
BLDS 2005 về việc hạn chế phân chia di sản: “Trong trường hợp theo ý chí của người
lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả các người thừa kế, di sản chỉ được phân
chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem
chia”. Như vây, nếu có sự thỏa thuận trong di chúc chung đó là chỉ được chia di sản
thừa kế sau khi cả hai bên lập di chúc chung cùng chết hoặc người sau cùng chết thì vấn

17

Xem Điều 663 BLDS: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”

13


đề này sẽ đảm bảo yếu tố về hiệu lực của di chúc giống như hiệu lực về di chúc chung
của vợ, chồng18.

Thứ ba, chỉ tồn tại một hình thức di chúc chung duy nhất là di chúc chung của
vợ, chồng. Do đó, trong trường hợp bên lập di chúc chung khơng phải là vợ chồng cùng
thống nhất ý chí để lập di chúc thì sẽ khơng có giá trị pháp lý. Chúng tôi cũng đồng ý
với quan điểm này bởi các lý do sau:
Một là, Theo Điều 663 BLDS 2005 thì vợ chồng có thể lập di chúc chung để định
đoạt tài sản chung. Ngồi ra khơng có điều luật nào khác có quy định trường hợp lập di
chúc chung nữa. Theo Điều 219 BLDS 2005 thì sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu
chung hợp nhất, do có tài sản chung của vợ chồng thì mới có trường hợp vợ chồng được
lập di chúc chung, thể hiện ý chí chung, hợp nhất của vợ chồng, mà tài sản chung của
vợ chồng lại được hình thành trong thời kì hơn nhân, pháp luật tơn trọng quyền quyết
định mang tính hợp nhất, để làm phát triển hơn nhân, hơn nhân mang tính thống nhất.
Cuộc sống chung của vợ chồng cùng với tính chất quan hệ hơn nhân đã xác lập địi hỏi
vợ, chồng phải có khối tài sản chung . Và khối tài sản ấy sẽ là cơ sở kinh tế của gia đình,
đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình để từ đó thực hiện tốt các chức năng và vai
trò đối với xã hội. Gia đình phát triển tốt thì xã hội mới phát triển tốt được.
Ngồi mối quan hệ vợ chồng thì các mối quan hệ dân sự khác như pháp nhân, tổ chức
kinh tế, tổ chức chính trị xã hội… cũng có thể có ý chí hợp nhất, sự hợp nhất ấy cũng có
thể là do tình cảm ( anh em dịng tộc, tình cảm bạn bè, đồng nghiệp hay do uy tín...)
nhưng quyền lợi thì phân minh, rõ ràng trước pháp luật, vì nó hình thành trên sự thỏa
thuận, đã có sự thỏa thuận thì đa phần là đảm bảo được lợi ích bình đẳng, nếu có phát
sinh tranh chấp thì mối liên hệ ấy dễ dàng chấm dứt. Nên vấn đề lập di chúc chung giữa
các chủ thể này sẽ không được đặt ra, vì lợi ích mang tính cá nhân, riêng lẻ.
Hai là, Pháp luật không cấm mọi người không phải vợ chồng lập di chúc chung.
Nhưng vấn đề ở đây là khơng có pháp luật điều chỉnh mối quan hệ này. Do đó, trên thực
tế, khơng thể giải quyết những trường hợp này được. Trong quan hệ pháp luật, thì pháp
luật khơng cấm thì chúng ta được làm, nhưng khơng phải những gì chúng ta làm đều có
thể thành hiện thực và được các cơ quan chức năng chấp thuận.
Ba là, nếu như ghi nhận di chúc chung không phải do vợ chồng lập thì điều đó
cũng chẳng khác gì so với di chúc cá nhân. Có hai loại hình thức sở hữu chung là hình
18


Xem Điều 668 BLDS 2005: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại
thời điểm vợ, chồng cùng chết”

14


thức sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần19. Nếu trong trường hợp xác
định được tỷ lệ sở hữu của từng người thì sẽ rất khó cùng nhau thống nhất ý chí chung
vì tỷ lệ sở hữu của các bên đã được phân chia một cách rõ ràng. Ngược lại, tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ chồng là hình thức sở hữu chung hợp nhất nên mới đặt ra vấn đề là
cần có ý chí thống nhất chung để định đoạt vì khơng xác định được tỷ lệ sở hữu của
từng người trong khối tài sản chung ấy. Mặt khác, trong di chúc chung của những đối
tượng khơng phải do vợ, chồng lập thì nếu một bên chết trước thì đương nhiên di sản
của người chết trước đó sẽ có hiệu lực pháp luật. Vì theo Điều 633 BLDS 2005 thì thời
điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Như vậy, điều này chẳng khác gì so
với di chúc riêng của cá nhân. Và giả sử rằng, nếu như hiệu lực về di chúc có thể thỏa
thuận có hiệu lực sau khi hai bên cùng chết hoặc người sau cùng chết như theo quan
điểm trên thì cũng chưa giải quyết được hết vấn đề mà vẫn còn tồn tại một vấn đề nữa là
việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung. Theo quy định tại Điều 622
BLDS 2005: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc bất cứ
lúc nào”. Do vậy, một bên lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
bất kỳ lúc nào ngay cả khi khơng có sự đồng ý của một bên khi còn sống và khi một bên
đã chết vì khơng có một quy định nào hạn chế về vấn đề này như di chúc chung của vợ
chồng20. Do đó, di chúc chung của những chủ thể này sẽ không tồn tại.
Bốn là, pháp luật chỉ quy định vợ chồng được quyền lập di chúc chung mà không
quy định quyền lập di chúc chung của các chủ thể khác, một phần cũng là do thói quen,
tục lệ từ bao đời nay đã từng tồn tại như đã phân tích ở trên, thói quen thì rất khó thay
đổi và mặt khác nhu cầu trong cuộc sống cũng đang đặt ra việc lập di chúc chung của
vợ, chồng. Vợ chồng cùng sống dưới một mái nhà, cùng nhau tạo dựng khối tài sản

chung để xây dựng gia đình, để củng cố tình u thương giữa vợ và chồng, pháp luật rất
tơn trọng nguyên lý đó là cho họ được quyền cùng nhau thống nhất ý chí để định đoạt tài
sản chung. Đây cũng chính là một điều dễ hiểu và là một quy luật trong cuộc sống và
đồng thời cũng là sự tất yếu của việc hình thành nên di chúc chung của vợ chồng.
1.1.2. Sơ lược lịch sử về di chúc chung của vợ chồng
1.1.2.1. Đối với pháp luật Việt Nam

19

Xem Điều 216 BLDS 2005: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi
chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”.
20
Xem Điều 664 BLDS 2005: “Khi vợ chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được
sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến
phần tài sản của mình”.

15


Như đã trình bày ở trên, vấn đề di chúc chung của vợ chồng không phải là vấn đề
mới được ghi nhận ở pháp luật hiện hành mà vấn đề này đã được ghi nhận trong pháp
luật của các thời kỳ trước đó, cũng như đã được thừa nhận trong tục lệ, tập quán của
người dân Việt Nam từ xưa đến nay. Trong khóa luận này, chúng tơi xin trình bày một
số Bộ luật nổi bật trong các thời kỳ như: Trong cổ luật có hai Bộ luật nổi tiếng là Bộ luật
Hồng Đức (thời nhà Lê) và Luật Gia Long (thời nhà Nguyễn); Tiếp theo phải kể đến hai
Bộ luật là Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Bộ dân luật Trung kỳ năm 1936 (thời pháp
thuộc); Kế tiếp là Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972 và trong giai đoạn từ năm 1975 đến
nay thì có Pháp lệnh thừa kế năm 1990, BLDS 1995 và BLDS 2005.
a. Pháp luật Việt Nam thời phong kiến
 Trong Cổ luật Việt Nam

Bộ Quốc Triều Hình Luật, hay cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật thành văn
nổi tiếng và có giá trị bậc nhất trong cổ pháp Việt Nam. Trong lĩnh vực thừa kế, quan
điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với các quan điểm hiện đại về thừa kế.
Các quan hệ thừa kế theo di chúc được quy định tại các Điều 354 và 388; các quan hệ về
thừa kế không di chúc (ngày nay là thừa kế theo pháp luật) quy định từ Điều 374 đến
377, Điều 380, 388. Tuy nhiên, Bộ luật Hồng Đức lại không quy định một cách minh thị
về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng.
Khi nghiên cứu cổ luật, chúng ta thấy Bộ luật Hồng Đức đã ghi nhận khả năng
vợ, chồng cùng lập di chúc chung21. Để lý giải cho điều này, có lẽ chúng ta nên dựa trên
những điểm nổi bật, tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức so với các quy định của pháp luật
trước đó. Người vợ, theo phong tục và quy định phải lệ thuộc vào người chồng nhưng
trong Bộ luật Hồng Đức địa vị của người vợ có những độc lập nhất định như họ có
quyền có tài sản riêng, có quyền xin ly hơn trong một số trường hợp nhất định…và nâng
cao vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyền lợi của họ trong việc hương hỏa, tế
lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Một điểm đáng chú ý nhất là người con gái có quyền bình
đẳng với người con trai. Đây là một điểm tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong
kiến khác. Bởi lẽ, thừa kế là một điểm nổi bật của Bộ luật Hồng Đức. Mặt khác, việc lập
di chúc chung của vợ, chồng lại được thừa nhận từ rất lâu trong phong tục tập quán của
người Việt. Những thói quen, phong tục tốt đẹp thì ln được thừa nhận và phát huy,

21

Đỗ Văn Đại (2012), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, tập 2, tr. 93.

16


“Di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ, chồng cùng
lập di chúc chung là hiện tượng phổ biến lúc bấy giờ”22.
Bộ Hoàng Triều Luật Lệ, được ban hành năm 1812 dưới triều đại nhà Nguyễn,

thời Nguyễn Phúc Ánh lấy niên hiệu là Gia Long nên gọi là Luật Gia Long. So với Bộ
luật Hồng Đức thì Luật Gia Long hà khắc hơn nhiều. Cụ thể là những vấn đề bình đẳng
nam, nữ không được công nhận, luật không đề cập về quyền thừa kế của con gái với
những tài sản thông thường. Luật Gia Long có quy định về thừa kế nhưng lại không đề
cập đến vấn đề di chúc chung của vợ chồng.
 Trong thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ thực dân Pháp đơ hộ nước ta, chúng dùng chính sách chia để trị,
đồng hóa dân tộc ta. Điều đó dẫn đến việc các quy định của pháp luật cũng bị ảnh hưởng
nhất định. Thi hành chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia cắt nước Việt Nam thành ba
xứ gọi là kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau và ban hành pháp
luật riêng biệt của mỗi kỳ.
Ở Bắc kỳ, năm 1931, ban hành Bộ Dân Luật Bắc Kỳ. Vấn đề thừa kế được quy
định trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ gồm 139 điều (từ Điều 310 đến Điều 448) trong đó thừa
kế thường gồm 84 điều (Điều 310 đến Điều 393), thừa kế phụng tự gồm 55 điều (Điều
394 đến Điều 448). Một điểm đáng chú ý trong Bộ Dân Luật Bắc Kỳ là đã thừa nhận
quyền lập di chúc chung của vợ, chồng. Quy định này thể hiện tại Điều 321 Dân Luật
Bắc Kỳ: "Người cha được lập chúc thư để xử lý tài sản chung của gia đình tùy theo ý
mình, nhưng phải có vợ chính đồng ý...Trừ tài sản của vợ chính ra thì người chồng được
làm chúc thư để xử trí tài sản của gia đình tùy theo ý mình, khơng có vợ chính thuận
tình cũng được”.
Ở Trung kỳ, năm 1936, ban hành Bộ Dân Luật Trung Kỳ. Cũng tương tự như Bộ
Dân Luật Bắc Kỳ, Bộ Dân Luật Trung Kỳ cũng thừa nhận quyền lập di chúc chung của
vợ, chồng. Quy định này thể hiện tại Điều 341 Dân Luật Trung Kỳ: "Người cha được
lập chúc thư để xử lý tài sản chung của gia đình tùy theo ý mình, nhưng phải có vợ
chính đồng ý...Trừ tài sản của vợ chính ra thì người chồng được làm chúc thư để xử trí
tài sản của gia đình tùy theo ý mình, khơng có vợ chính thuận tình cũng được”. Qua hai
Bộ luật trên, chúng ta thấy pháp luật thời kỳ này không quy định một cách trực tiếp về
22

Vũ văn Mẫu, Les successions testamentaires en droit Vietnmaien (Thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam),

Luận án Pari, 1948, tr. 67, dẫn theo Nguyễn Ngọc Diện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật Dân sự Việt Nam,
1999, tr. 167.

17


vấn đề di chúc chung của vợ, chồng mà chỉ dán tiếp quy định về vấn đề này thông qua
việc đưa ra một quy phạm bắt buộc phải thực hiện là: "nhưng phải có vợ chính đồng ý”.
Do đó, việc lập di chúc để định đoạt tài sản chung phải có sự đồng thuận của cả hai vợ,
chồng.
Ở Nam Kỳ có Dân luật giản yếu ban hành năm 1883 bằng tiếng Pháp. Trong Bộ
luật này lại không quy định vấn đề thừa kế.
 Trong chính thể Ngụy quyền Sài Gịn
Trong thời kỳ này có Bộ Dân Luật Sài Gịn ban hành năm 1972. Các vấn đề thừa
kế được quy định tại quyển số 3, từ Điều 489 đến 649. Một điều rất đặc biệt là vấn đề di
chúc chung của vợ chồng đã được thừa nhận tại Điều 572: "Chúc thư chỉ có thể do một
người lập ra; hai người không thể cùng chung một chúc thư lợi tha hay lưỡng tương đắc
lợi. Đặc biệt, trong trường hợp chúc thư do hai vợ chồng cùng làm để sử dụng tài sản
chung, chúc thư được thi hành riêng về phần di sản của người chết trước, người sống
vẫn có quyền hủy bãi hay thay đổi chúc thư về phần mình”. Như vậy, quy định này đã
gián tiếp thừa nhận di chúc chung của vợ chồng thông qua việc quy định về hiệu lực của
di chúc chung cũng như vấn đề hủy bỏ, thay đổi di chúc chung của vợ, chồng.
b. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay
 Trước khi có BLDS 1995
Thông tư số 81/TANDTC của TANDTC được ban hành ngày 24/7/1981 đã quy
định một cách tương đối và toàn diện về vấn đề thừa kế, trong đó có đề cập đến vấn đề
di chúc chung của vợ chồng. Tại phần số VI.B của thơng tư có quy định: "Di chúc do
hai vợ chồng cùng làm để định đoạt tài sản chung, nếu một người chết trước, thì chỉ
riêng phần di sản của người đó được thi hành theo di chúc. Người cịn sống có quyền
giữ ngun, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình”.

Tiếp theo đó là Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được ban hành. Tại Khoản 1, Điều
23 của Pháp lệnh có quy định: "Trong trường hợp di chúc lập chung, mà có người chết
trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của người chết trước đó có hiệu
lực”. Như vậy, Pháp lệnh thừa kế năm 1990 tuy không trực tiếp quy định về di chúc
chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung23.
 So sánh giữa BLDS 1995 và BLDS 2005

23

Lê Minh Hùng, Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, Tạp chí khoa học
pháp lý số 35 năm 2006, tr. 29

18


BLDS 1995 đã ra đời nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu cần điều chỉnh các quan hệ
xã hội bằng pháp luật, do sự phát triển của xã hội và sự thay đổi của các hoàn cảnh kinh
tế xã hội mang lại. Quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của cơng dân được cụ thể hố
trong BLDS 1995 của Nhà nước ta, thêm một bước khẳng định quyền thừa kế tài sản
của công dân Việt Nam luôn luôn được pháp luật bảo hộ và không ngừng được sửa đổi,
bổ sung phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong từng giai
đoạn của lịch sử. Những nguyên tắc về thừa kế di sản và những qui định về quyền thừa
kế của công dân đã được pháp điển hoá một cách cụ thể trong BLDS của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995.
BLDS 1995 quy định một cách rất chi tiết về thừa kế, hơn hẳn so với các quy
định của pháp luật trước đó, đặc biệt là về vấn đề di chúc chung của vợ chồng. BLDS
1995 quy định về quyền lập di chúc chung của vợ, chồng (Điều 666), vấn đề sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung (Điều 667) và hiệu lực di chúc chung của vợ chồng
(Điều 671). Đây là những quy định rất cụ thể và đặc biệt hơn so với các quy định của
thời kỳ trước đó.

Tiếp theo đó là sự ra đời của các luật khác như Luật HN&GĐ năm 2000; Luật đất
đai năm 2003; Luật doanh nghiệp năm 2005… dẫn đến nhu cầu sửa đổi bổ sung BLDS
1995 để phù hợp hơn với tình hình ấy. Chính vì lẽ đó, BLDS 2005 đã ra đời. BLDS
2005 đã có những đổi mới rất nhiều so với BLDS 1995, trong đó có vấn đề di chúc
chung của vợ, chồng. Về các quy định tại Điều 666, 667 BLDS 1995 về quyền của
người lập di chúc và vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc tương ứng với
Điều 663, 664 BLDS 2005 thì vẫn được giữ ngun, khơng có gì thay đổi. Tuy nhiên,
chỉ có vấn đề về hiệu lực của di chúc chung là có sự thay đổi. Điều 671 BLDS 1995 có
quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước,
thì chỉ có phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có
hiệu lực pháp luật, nếu vợ chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực
của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc
chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”. Điều luật này đã được thay thế bởi BLDS
2005 tại Điều 668: “Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm người sau
cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”.
Xét về mặt hình thức, thì rõ ràng BLDS 2005 có quy định ngắn gọn hơn rất nhiều
so với BLDS 1995 về vấn đề hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng. Xét về mặt nội
dung, thì sự quy định về vấn đề hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng trong hai Bộ
luật: BLDS 1995 (Điều 671) và BLDS 2005 (Điều 668) là hoàn toàn khác nhau. “Trước
đây, theo quy định tại Điều 671 BLDS 1995 thời điểm có hiệu lực di chúc chung vợ,
19


chồng được xác định theo phần. Theo đó, khi người vợ hoặc chồng chết trước thì phần
di chúc liên quan đến di sản bằng ½ khối tài sản chung và phần tài sản riêng của người
đó có hiệu lực thi hành. Còn lại phần di chúc liên quan đến tài sản riêng của người cịn
sống và ½ khối tài sản chung của vợ, chồng vẫn thuộc sở hữu của người chồng hoặc vợ
cịn sống chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu vợ chồng thỏa thuận trong di chúc
chung thời điểm di chúc chung có hiệu lực thi hành là thời điểm người sau cùng chết thì
thời điểm di chúc có hiệu lực thi hành đối với di sản của người vợ hoặc chồng đã chết

trước là thời điểm người vợ hay chồng còn sống tạ thế sau này. Việc xác định hiệu lực
của di chúc chung như vậy khá phức tạp. Vì tài sản của vợ, chồng thuộc sở hữu chung
hợp nhất, tức là không thể phân chia theo hiện vật, mà chỉ có thể phân chia theo giá trị
tài sản”24.
Theo quy định tại Điều 668 BLDS 2005 thì vấn đề về hiệu lực di chúc chung
khơng cần phải có sự thỏa thuận của hai bên vợ, chồng trong di chúc mà Điều 668 quy
định rất cụ thể là di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực kể từ thời điểm người sau
cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết. Điều này đã khắc phục được vấn đề
có hiệu lực của di chúc được xác định theo phần so với hiệu lực của di chúc chung vợ
chồng trong BLDS 1995, BLDS 2005 không xác định hiệu lực của di chúc chung khi
một bên đã chết và một bên còn sống. Bởi lẽ, sở hữu tài sản chung của vợ, chồng là sở
hữu chung hợp nhất25. Do đó, họ có quyền cùng thống nhất ý chí để định đoạt khối tài
sản chung đó. “Bởi vậy, BLDS 2005 chỉ sửa về hiệu lực của loại di chúc đặc biệt và
phức tạp này cho phù hợp với tính chất và bảo đảm được trọn vẹn ý chí của hai người,
đó là hiệu lực pháp luật của di chúc chung vợ, chồng được xác định từ thời điểm người
sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”26.
1.1.2.2. Đối với pháp luật của một số nước trên thế giới
Di chúc chung của vợ, chồng là một vấn đề khá phức tạp, có rất nhiều quan điểm,
ý kiến khác nhau về việc nên quy định hay không nên quy định về di chúc chung của vợ,
chồng. Do đó, trên thế giới cũng có những luồng quan điểm khác nhau về vấn đề thừa
nhận di chúc chung của vợ, chồng. Có một số nước quy định về vấn đề di chúc chung
của vợ, chồng như pháp luật của CHLB Đức, Áo, Quebec (Canada)…và có một số nước
khơng thừa nhận vấn đề di chúc chung của vợ, chồng như Luật La Mã, pháp luật của
Liên Bang Nga, Pháp, Hunggari, Thụy Điển…

24

Hoàng Thế Liên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật nân sự năm 2005, tập III, tr.88-89
Xem Điều 219 BLDS 2005: “Sở hữu chung của vợ, chồng là sở hữu chung hợp nhất”.
26

Đinh Trung Tụng, Bình luận những điểm mới của Bộ luật dân dự 2005, tr. 228.
25

20


“Di chúc thường được coi là hành vi pháp lý đơn phương của một người nên
không hiếm hệ thống pháp luật cấm di chúc chung, cho dù đó là di chúc chung của vợ,
chồng”27. Xuất phát từ Luật La Mã, có thể nói đây là Bộ luật cổ xưa nhất và có ảnh
hưởng nhiều nhất đến các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Điểm nổi bật nhất
của pháp luật La Mã là điều chỉnh về lĩnh vực hợp đồng, do đó các quy phạm pháp luật
về dân sự phát triển. Trong lĩnh vực thừa kế, Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản
là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, ngoài ra cịn có thừa kế theo lệnh của
các quan. Tuy nhiên, trong thừa kế theo di chúc lại không hề đề cập đến vấn đề di chúc
chung của vợ, chồng. "Cho đến nay các nhà làm luật vẫn không lý giải được tại sao
pháp luật La Mã lại không quy định vấn đề di chúc chung của vợ chồng trong hệ thống
pháp luật của mình”28.
Pháp cũng là một nước có hệ thống pháp luật lớn và có ảnh hưởng đến một số
nước trên thế giới bởi vì Pháp đã từng đơ hộ rất nhiều nước trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Một điều đáng chú ý là hệ thống pháp luật này cũng không hề quy định về
vấn đề di chúc chung của vợ, chồng mà ngược lại còn đưa ra quy định cấm đoán việc
lập di chúc chung. Theo quy định tại Điều 968 BLDS Pháp: “Hai hay nhiều người
không được lập di chúc chung để lại di sản cho người thứ ba hay để lại di sản cho
nhau”. Để lý giải cho điều này “Học lý Pháp đưa ra hai lý do để biện hộ cho việc cấm di
chúc chung này. Thứ nhất, việc lập di chúc chung là một cản trở đối với quyền tự do
định đoạt. Thứ hai, di chúc này đi ngược lại tinh thần của nguyên tắc theo đó cho đến
ngày di chúc có hiệu lực người lập di chúc có quyền thay đổi ý định của mình”29. Sự
khác biệt về luật pháp giữa Pháp và Việt Nam có lẽ do sự khác nhau giữa quan niệm đạo
đức, giữa lối sống đạo đức của người phương đơng với lối sống phóng khống của
người phương tây. Ngoài ra, pháp luật của Liên Bang Nga, Thụy Sỹ, Hunggari cũng

không quy định về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng.
Khác với các hệ thống pháp luật kể trên, trên thế giới cũng tồn tại một số nước có
ghi nhận về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng như pháp luật của Áo, CHLB Đức,
Quebec. Sở dĩ có sự khác nhau vậy là do tùy vào hồn cảnh về điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, chính trị, trình độ lập pháp, ý thức pháp luật, thói quen, tục lệ, phong tục tập
quán của mỗi quốc gia là khác nhau. Cũng giống như Việt Nam, pháp luật của CHLB
Đức, Quebec thừa nhận về vấn đề lập di chúc chung của vợ, chồng và quy định điều
kiện về lập di chúc chung là tài sản định đoạt trong di chúc là tài sản chung. “Với quy
27

Đỗ Văn Đại (2012), Sđd, tr.92.
Nguồn: luanvan.co/.../phap-luat-viet-nam-hien-hanh-ve-hieu-luc-phap-luat-di-chuc- chung-cua-vo-chong9716/, ngày cập nhật: 05/6/2013.
29
Đỗ Văn Đại (2012), Sđd, tr.92.
28

21


×