Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Bình giảng đoạn trích Cảnh ngày xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.23 KB, 3 trang )

Bi vn hay lp 9

bài số 9
Bình giảng đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của
Nguyễn Du).

Bài làm
ĐÃ có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Tản
Đà hay Tố Hữu bày tỏ cảm xúc suy nghĩ của mình về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Song
hầu hết những suy nghĩ của họ đều nghiêng về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong
Truyện Kiều. Giá trị của Truyện Kiều cũng nh những đóng góp lớn lao của Đại thi hào
Nguyễn Du cho văn học nớc nhà không chỉ dừng lại ở đó. Nghệ thuật độc đáo của Truyện
Kiều mà u thế là nghệ thuật miêu tả nhân vật; nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đ Ã có biết bao nhiêu bËc thi sÜ tµi hoa nh trë
thµnh lý do khiÕn cho Truyện Kiều trở thành kiệt tác hấp dẫn hàng triệu trái tim ngời
đọc trong và ngoài nớc, đoạn trích Cảnh ngày xuân là một dẫn chứng tiêu biểu.
Nh chúng ta đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh biết Truyện Kiều thuộc dòng văn học trung đại Việt Nam, lúc bấy giờ
trong văn học ngời ta thờng hay sử dụng nghệ thuật miêu tả ớc lệ. Khi miêu tả Cảnh
ngày xuân Nguyễn Du cũng đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh sử dụng triệt để thi pháp này, cảnh mùa xuân hiện lên
chủ yếu bằng cách gợi chứ không tả nhiều. Có thể nói đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể
hiện giá trị nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du.
Đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh (đầu tháng ba), chị em Kiều đi
chơi xuân. Đây là đoạn thơ nằm liền ngay sau đoạn mở đầu giới thiệu gia cảnh họ V ơng
và tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Đoạn gồm mời tám câu thơ đợc kết cấu theo đúng
trình tự thời gian của cuộc du xuân.
Ngày xuân con én đa thoi,
Thiều quang chín chục đà ngoài sáu mơi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Nguyễn Du là một đại thi hào luôn có khả năng nắm bắt đợc cái hồn của cảnh vật để
rồi sau đó chỉ bằng vài chi tiết đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh làm cảnh vật đ ợc chạm khắc nổi bật với đúng cái
thần, cái hồn của nó. Chẳng hạn cảnh mùa thu đợc ông miêu tả:


Long lanh đáy nớc in trời.
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Trong đoạn thơ này với bốn câu thơ gợi tả khung cảnh ngày xuân Nguyễn Du đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh
chạm khắc bức tranh toàn cảnh bằng không gian, thời gian và một vài hình ảnh đặc trng:
đó là một không gian rộng lớn, thời gian trôi nhanh với hình ảnh chim én, cỏ xanh, hoa lê
... Ngay từ câu thơ mở đầu Ngày xuân con én đa thoi nghệ thuật miêu tả ớc lệ đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh đợc
bộc lộ khá rõ. Trong một câu thơ tác giả vừa tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân chim
én vừa nói về thời gian thấm thoát trôi nhanh nh thoi dệt cửi, câu thơ còn nh ngụ cả ý
tiếc ngày xuân đi quá nhanh nữa thì phải. Nh vậy cái ớc lệ đâu chỉ có ở hình ảnh chim én
nói về mùa xuân mà còn có cả cái thấm thoắt thoi đa để chỉ sự biến chuyển mau lẹ của
thời gian nữa, cái tiếc nuối của con ngời cũng đợc gửi cả vào trong ấy. Nó khác hẳn cách
viết Ngày xuân mơ nở trắng rừng trong bài Việt Bắc của Tố Hữu sau này. Câu thơ tiếp
theo là mét c¸ch tÝnh thêi gian cơ thĨ “ThiỊu quang chÝn chục đ Ã có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh ngoài sáu m ơi, có chín
chục ngày xuân mà đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh đi qua hơn sáu mơi ngày.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Một câu thơ tuyệt hay và tuyệt đẹp. Trong đó tác giả đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh sử dụng thủ pháp nghệ
thuật miêu tả toàn cảnh và cận cảnh, thi pháp đối lập màu sắc làm chủ đạo. Trớc hết là
bức tranh không gian rộng lớn nh mở ra đến vô cùng vô tận.
Cỏ non xanh tận chân trời
Quả là một hình ảnh đầy sức sống có sức gợi tả đặc biệt. Câu thơ này có bản viết là


Bi vn hay lp 9
Cỏ non xanh rợn chân trời. Nếu chữ tận gợi về cái không gian chạy đến tít tắp cuối
chân trời thì chữ rợn lại thiên về cảm giác rợn ngợp trớc sức xanh của cỏ. Dù là chữ nào
thì câu thơ vẫn là cái phông, cái nền cho câu thơ tiếp theo xuất hiện: Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa. Chữ trắng đối rất chuẩn với chữ xanh trong câu trên. Một vài bông
hoa lê trở thành thứ trang sức quí giá để tô điểm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Chữ điểm
làm cho mùa xuân càng nh có tâm hồn.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du chọn cảnh ngày xuân để nói vỊ qu · cã biÕt bao nhiªu bËc thi sÜ tài hoa nhng
thời gian êm đềm, ngắn ngủi của cuộc đời Thuý Kiều. Bởi trong bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông thì mùa xuân vẫn là mùa có sức quyến rũ lòng ngời nhất. Mùa xuân là mùa bắt đầu
của một năm, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời trong trẻo, mát mẻ..., đó còn là
mùa diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm.
Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Hai câu đầu
nhà thơ nói về Lễ hội Thanh minh diễn ra vào tháng ba, tác giả đ Ã có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh triết tự từ Lễ hội
thật tài tình:
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Nh vậy có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi viếng mộ và đi chơi xuân ở chốn
đồng quê.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe nh nớc áo quần nh nêm.
Nghệ thuật miêu tả ớc lệ lại một lần nữa thể hiện rõ nét trong đoạn thơ này. Không
khí ngày lễ hội đợc ví với hàng loạt hình ảnh tợng trng nh: chim yến, chim hoàng anh,
nh nớc, nh nêm (chật cứng nh nêm). Để tái hiện đợc không khí náo nức của lễ hội,
Nguyễn Du đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh sử dụng một loạt từ ghép là tính từ, danh từ, động từ xuất hiện với tần số
dày đặc. Các danh từ ghép (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân...) gợi tả sự đông vui, nhiều
ngời cùng đến lễ hội; các động từ ghép (sắm sửa, dập dìu...) gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt;
các tính từ ghép (gần xa, nô nức...) diễn tả tâm trạng háo hức của ngời đi chơi lễ hội.
Hình ảnh ẩn dụ gần xa nô nức yến anh gợi lên cảnh từng đoàn ngời nhộn nhịp đi chơi
xuân nh chim én, chim hoàng anh đang ríu rít... Từ láy dập dìu thật gợi hình, gợi cảm,
vừa tả đợc cảnh từng đôi lứa tài tử giai nhân đang du xuân vừa diễn tả đợc cái nhịp
điệu trữ tình thơ mộng trong từng bớc chân, từng đoàn xe đang đi trên đờng. Không chỉ
có vậy, Nguyễn Du còn miêu tả một phong tục trong ngày tết Thanh minh đó là rắc thoi
vàng vó, đốt tiền giấy hàng mà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh để tởng nhớ những ngời đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh khuất.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bớc dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nớc uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về đợc bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển
đổi của thời gian Tà tà bóng ngả về tây. Buổi chiều tà thờng gợi về cái gì đó thật buồn,
bởi nó báo hiệu một ngày đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh tàn. Đang vui vẻ, nô nức là thế, bây giờ đ à có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh kết thúc sao
tránh khỏi tâm trạng thơ thẩn đầy tiếc nuối. Vẫn biết vậy sao ta cứ ám ảnh m à có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nhi bởi
hình ảnh ba chị em Kiều đang thơ thẩn ra về. Cảnh mùa xuân ở những câu cuối đợc cảm
nhận qua tâm trạng, những từ láy tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ diễn tả sắc
thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con ngời. Đặc biệt câu thơ nao nao dòng nớc uốn
quanh nh nhuốm màu tâm trạng. Nó vừa nh vẫn còn đọng cái cảm giác bâng khuâng
xao xuyến từ d âm ngày vui xuân vừa nh đà có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa nh dự báo, linh cảm về những tháng ngày
không còn hồn nhiên vô t nữa của Thuý Kiều vì ngay sau đoạn này là đoạn Kiều gặp nấm
mồ Đạm Tiên.
Đoạn thơ Cảnh ngày xuân quả thực là một bức tranh mùa xuân thật đẹp, thật sống
động nhng cũng đầy tâm trạng. Có lẽ nếu trên đất nớc này vẫn còn những tâm hồn biết
rung động trớc cái đẹp thì Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn là
một niềm rung động lín.


Bài văn hay lớp 9



×