TÀI LIỆU ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC
Câu 1, Bản chất CNDV biện chứng với ý nghĩa thế giới quan khoa học, vai trò của việc giáo dục thế giới quan khoa học cho
thế hệ trẻ hiện nay? 2
Câu 2, Tại sao trong nhận thức và hành động vừa phải tin tưởng tính khách quan, vừa phải phát huy tính năng động chủ
quan 5
Câu 3, sự vật tồn tại = mâu thuẫn và diễn ra trong mâu thuẫn hoặc thông qua mâu thuẫn, phân tích điểm này của lê nin 6
Câu 4, Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất, liên hệ học đi đôi với hành, giáo dục đào tạo gắn liền với yêu
cầu phát triển xã hội. Đổi mới cơ bản về giáo dục và đào tạo 9
Câu 5, Lý luận và thực tiễn: Chứng minh lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù
quáng 14
Câu 6, Lý luận và thực tiễn: luận chứng học đi đôi với hành, giáo dục đào tạo gắn với KTXH 14
Câu 7, Các hình thái KTXH phát triển theo quá trình lịch sử tự nhiên => Chứng minh lựa chọn CNXH là hợp quy luật và hợp
lòng dân 16
Câu 8, Từ LLSX & QHSX chứng minh ktế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 21
Câu 9 CSHT & KTTT chứng minh cho đổi mới KTCT của Đảng 25
Câu 10: Lý luận về hình thái KTXH để chứng minh cho việc lựa chọn CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN 28
Câu 11: Lý luận giai cấp & đấu tranh giai cấp => phân tích quá trình đấu tranh giai cấp hiện nay 35
Câu 12: Lý luận về nhà nước để tiếp tục xd và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân , do dân và vì dân 37
Câu 1, Bản chất CNDV biện chứng với ý nghĩa thế giới quan khoa học, vai trò của việc giáo dục thế giới
quan khoa học cho thế hệ trẻ hiện nay?
Bản chất của CNDVBC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a. Quan điểm duy vật về thế giới
- Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc
lập, quy định ý thức và được ý thức phản ánh.
- Thế giới thống nhất ở tính vật chất.
+ Vật chất là thực tại khách quan; tồn tại độc lập với ý thức, quy định ý thức và được ý thức phản ánh. Chỉ có một
thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Thế giới đó tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận.
+ Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều là những dạng cụ thể, hoặc là các tính chất của vật chất. Thế giới không
có gì khác ngoài vật chất đang vận động.
+ Các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất thống nhất với nhau; vận động và phát triển theo các quy luật khách
quan, chuyển hoá lẫn nhau; là nguồn gốc và là nguyên nhân và kết quả của nhau.
+ Ý thức là đặc tính, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
b. Quan điểm duy vật về xã hội
- Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên dẫn đến sự ra đời của con
người và xã hội loài người. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở chỗ, xã hội vận động, phát triển tuân theo những quy
luật tự nhiên nhưng phải thông qua hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhất định.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Xã hội loài người không chỉ sử dụng những thứ đã có sẵn trong tự
nhiên, mà còn tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm tồn tại và phát triển. Lịch sử tồn tại và phát
triển của xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
- Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử được tiến hành theo phương thức nhất định. Phương thức sản xuất
(lĩnh vực sản xuất vật chất của đời sống xã hội) quy định và sự thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến sự thay đổi
các lĩnh vực khác (lĩnh vực xã hội; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực tinh thần) của đời sống xã hội.
- Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển, mọi hoạt động của con người gắn với
phương thức sản xuất; điều kiện tự nhiên; môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v tạo nên điều kiện sinh
hoạt vật chất (tồn tại xã hội). Với tính cách là cái thứ nhất, tồn tại xã hội quy định cái thứ hai, mặt tinh thần của quá
trình lịch sử. Ý thức xã hội là hiện tượng tinh thần có cấu trúc gồm các cấp độ khác nhau (ý thức bình thường và ý
thức lý luận, hệ tư tưởng và tâm lý xã hội) và các hình thái của ý thức xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, triết học và khoa học v.v).
- Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên.
+ Mỗi xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể là mỗi hình thái kinh tế - xã hội; mỗi hình thái kinh tế - xã
hội gồm ba mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (tạo nên cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng.
+ Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường phát triển; đến mức độ nhất định, quan hệ sản xuất phải thay
đổi cho phù hợp với sự phát triển mới của lực lượng sản xuất; lúc này cơ sở hạ tầng (mặt vật chất, kinh tế) của xã
hội sẽ thay đổi theo dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng (mặt tư tưởng, chính trị). Đến đây, tất cả các mặt
cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi, hình thái kinh tế - xã hội này đã chuyển sang hình thái kinh tế - xã
hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.
+ Như vậy, là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên (thế giới vật chất), sự vận động, phát triển của xã hội vừa chịu
sự chi phối của của các quy luật chung nhất, vừa chịu sự chi phối của các quy luật của riêng mình mà trước hết và
quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Những quy luật đó làm sự thay
thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên.
- Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
+ Khẳng định sản xuất vật chất là yếu tố quy định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương thức sản xuất quy định
dời sống tinh thần và sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đồng thời đã khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
+ Vai trò đó của quần chúng nhân dân thể hiện ở 1) quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp của sản xuất vật
chất. 2) quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. 3) quần chúng nhân dân là người
sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần.
+ Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đánh giá cao vai trò của lãnh tụ
trong 1) nắm bắt xu thế của thời đại. 2) định hướng chiến lược, sách lược cho hành động cách mạng. 3) tổ chức,
thuyết phục, giáo dục, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng để giải quyết những vấn đề mà thời đại đặt ra.
- Ý nghĩa Thế giới quan
Như vậy từ các hiểu biết về thế giới chúng ta có được bức tranh về thế giới trong ý thức tức THẾ GIỚI QUAN và
từ đó nó quyết định lại thái độ và hành vi đối với thế giới.
Có một thế giới quan đúng đắn sẽ hướng con người hoạt động theo sự phát triển lôgic của xã hội và góp phần vào
sự tiến bộ của xã hội.Vì thế, thế giới quan là trụ cột về mặt hệ tư tưởng của nhân cách, là cơ sở cho đạo đức, chính
trị và hành vi
2. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
a. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
- Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hoá ý thức, khẳng định ý
thức sinh ra và quy định vật chất, còn chủ nghĩa duy vật trước Mác tuy khẳng định bản chất thế giới là vật chất,
nhưng mắc hai hạn chế cơ bản là duy vật không triệt để (duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội) và cũng không
thấy được sự tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên,
nhưng nguyên nhân cơ bản và chủ yếu là thiếu quan điểm thực tiễn.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng với việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với ý thức.
+ Vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai; vật chất quy định ý thức. Ý thức không chỉ phản ánh thế giới vật
chất, mà còn sáng tạo ra thế giới vật chất; ý thức có tác động ngược lại, trở thành lực lượng vật chất khi thâm nhập
vào quần chúng.
+ Thực tiễn, là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức với vật chất. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý
thức được vật chất hoá; tư tưởng trở thành hiện thực.
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
- Việc tách rời thế giới quan duy vật với phép biện chứng làm cho các nhà triết học trước Mác không nhận thức
được mối liên hệ phổ biến; không nhận thức sự thống nhất và nối tiếp nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất.
- Kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết triết học trước đó; tổng kết những thành tựu của khoa học
đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi tính siêu hình; giải thoát phép biện
chứng khỏi tính duy tâm, tư biện để sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng- kết quả của sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng.
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng đã đem lại quan niệm mới về thế giới- thế giới luôn
vận động, biến đổi, chuyển hoá và phát triển không ngừng.
c. Quan niệm duy vật triệt để
- Hạn chế của các nhà duy vật trước Mác về lịch sử tạo nên tính không triệt để của các học thuyết triết học duy vật
trước Mác.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục hạn chế về tính không triệt để của các học thuyết triết học duy vật trước
Mác bằng cách khẳng định nguồn gốc vật chất của xã hội (xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên); sản xuất vật
chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quy định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần
nói chung; tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội; sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên; quần chúng
nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng v.v.
- Do vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa học; là cuộc cách mạng trong quan
niệm về xã hội; là công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
d. Tính thực tiễn - cách mạng
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, là công cụ định hướng cho hành động, là vũ
khí lý luận tạo bước chuyển biến mới về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới, mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
+ Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi được thế giới, mà phải thông qua tri
thức của mình về thế giới, con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp v.v chỉ đạo hoạt động tác
động vào thế giới.
+ Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng giải thích thế giới, nhưng để thực hiện vai trò cải tạo thế giới, triết
học phải phản ánh đúng thế giới, phải định hướng cho hoạt động của con người hợp quy luật khách quan và phải
được quần chúng tin và hành động theo.
+ Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện trong sự định hướng cho hoạt động
của quần chúng được quần chúng hành động theo.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.
+ Trong tính hợp lý của cái đang tồn tại đã bao hàm cả quan niệm về sự diệt vong tất yếu của nó. Tính cách
mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua sự phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và
phát triển; qua đó khẳng định tính tất yếu của quá trình xoá bỏ cái lỗi thời, xác lập cái mới cao hơn, tiến bộ hơn.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là sự định hướng cho mọi hoạt động. Là hệ
thống mở, nên chủ nghĩa duy vật biện chứng cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng của hoạt động thực tiễn và
hoạt động nhận thức để tạo ra những nguyên tắc phương pháp luận mà sự vận dụng sáng tạo trong những hoàn cảnh
cụ thể là yêu cầu số một của những nguyên tắc ấy.
Thế giới quan
1. Khái niệm thế giới quan
- Định nghĩa. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
- Nguồn gốc của thế giới quan. Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống; là kết quả trực tiếp của quá trình nhận
thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là kết quả của cả hoạt động thực tiễn với hoạt động nhận thức, của mối
quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
- Nội dung phản ánh của thế giới quan. Thế giới quan phản ánh thế giới từ ba góc độ 1) Các khách thể nhận thức. 2)
Bản thân chủ thể nhận thức. 3) Mối quan hệ giữa khách thể với chủ thể nhận thức. Ba góc độ này của thế giới quan
vừa thể hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức của con người về chính bản thân mình.
- Hình thức biểu hiện của thế giới quan có thể là các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể là hệ thống lý luận
chặt chẽ.
- Cấu trúc của thế giới quan gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin, trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự
hình thành thế giới quan; song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin để hình thành lý
tưởng, động cơ hoạt động của con người.
- Một thế giới quan thống nhất giữa tri thức với niềm tin có vai trò là cơ sở để con người xác định những vấn đề
then chốt của cuộc sống như tiếp tục tìm hiểu thế giới; xác định thái độ, cách thức hoạt động, lối sống nói riêng và
nhân sinh quan nói chung.
- Các chức năng cơ bản của thế giới quan là chức năng nhận thức; chức năng nhận định, đánh giá; chức năng xác
lập giá trị và chức năng điều chỉnh hành vi v.v thể hiện chức năng cơ bản nhất của thế giới quan là chức năng định
hướng cho mọi hoạt động sống của con người.
2. Những hình thức cơ bản của thế giới quan
- Thế giới quan huyền thoại có nội dung pha trộn giữa thực với ảo, giữa người với thần đặc trưng cho tư duy
nguyên thuỷ giải thích các lực lượng tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng.
- Thế giới quan tôn giáo có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con
người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. Tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào một thế giới khác hoàn mỹ làm giảm nỗi
khổ trần gian.
- Thế giới quan triết học thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Thế giới quan
triết học không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, mà còn chứng minh chúng bằng lý
luận. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là bộ phận quan trọng nhất của triết học bởi vì nó chi phối các
quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan như quan điểm, quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị,
văn hoá v.v.
- Thế giới quan duy vật triết học và thế giới quan duy tâm triết học là hai hình thức của thế giới quan triết học (xem
cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học).
- Thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học. Thế giới quan khoa học phản ánh thế giới và định hướng
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người trên cơ sở tổng kết những thành tựu của nghiên cứu,
thực nghiệm và dự báo khoa học. Thế giới quan khoa học không ngừng được bổ sung và hoàn thiện và phát triển;
thông qua hoạt động thực tiễn của con người, thế giới quan khoa học được hiện thực hoá, trở thành sức mạnh vật
chất. Thế giới quan phản khoa học, ngược lại do không phản ánh đúng bản chất của thế giới nên dễ làm cho con
người rơi và thế giới quan duy tâm.
Câu 2, Tại sao trong nhận thức và hành động vừa phải tin tưởng tính khách quan, vừa phải phát huy tính
năng động chủ quan
Tôn trọng quy luật khách quan; phát huy tính năng động chủ quan
- Mục đích, đường lối, chủ trương đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực,
phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Khi đã có mục đích,
đường lối, chủ trương đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
- Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức, của con người. Tôn
trọng tri thức khoa học, lý luận phản ánh đúng thế giới khách quan, từ đó tạo khả năng xác định và hình thành được
mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Chống thái độ thụ
động, ỷ lại và bảo thủ, trì trệ; và chú ý vai trò của lợi ích bởi nếu phù hợp sẽ thúc đẩy, ngược lại, sẽ cản trở thậm chí
cố tình bóp méo, xuyên tạc chân lý. Chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối nghĩ đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện chủ yếu là do thiếu kiến thức, lý luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh
nghiệm.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa có ý nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là yêu cầu
có tính nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn./.
Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy
luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học của khẳng định đó?
Trả lời:
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân và gây ra tác hại lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh
nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, xảy ra trong một điều kiện
lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm
than, nô lệ ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra
những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc khách quan. Vì nguyên
tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận dụng nguyên tắc khách quan kết hợp với chủ
quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn trọng vai trò
quyết định của VC, tức:
�� Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược phát
triển đất nước;
�� Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh tế – quân sự,
trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa chúng.
Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát triển đất
nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần, ; cá nhân, tập thể, xã hội) thành
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu tố chủ quan (t.thức,
t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận thức & thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:
Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc Đổi mới; Chống lại
thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí
quật cường, tài trí người Việt Nam,…
Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng HCM); Nâng cao
và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường đi lên CNXH);
Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản đơn,
nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất chấp quy luật khách quan.
Câu 3, sự vật tồn tại = mâu thuẫn và diễn ra trong mâu thuẫn hoặc thông qua mâu thuẫn, phân tích điểm
này của lê nin
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V. I.
Lênin viết: "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế
là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển
thêm".
1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử
và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, v.v Những mặt trái
ngược nhau đó phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện
chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy
là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại
của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những
nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất của các mặt đối
lập" còn bao hàm cả sự "đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự
tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong
phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra
cuộc đấu tranh giữa chúng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo
thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập.
Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối
của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: "Sự thống nhất ( ) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối"1.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay
đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác
nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối
lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải
quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay
thế. V.I.Lênin viết: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập"2. Tuy nhiên, không có thống nhất
của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không
thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn
định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự
vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
3. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu
thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm
của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong
đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn
bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối, tùy theo phạm vi
xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét trong mối quan
hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Thí dụ: Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là
mâu thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong ASEAN là mâu thuẫn bên
ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy, để
xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi
sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên,
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn
bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện
để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn
trong nước ta không tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản:
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự
vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn
bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định
bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các
mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật
chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức
biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn
nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó
không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc
từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Thí
dụ: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ
đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động
chân tay, giữa thành thị và nông thôn, v.v
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải
quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn không
đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi
sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ
của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
4. ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu
nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những
mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V. I. Lênin viết: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận
của nó , đó là thực chất của phép biện chứng"1.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và
mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập,
mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể
hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương
tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt,
phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các
điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau.
Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù
hợp với điều kiện cụ thể.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng nhất – hạt nhân của phép biện
chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Nội dung quy luật
- Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức những mặt đối lập trong sự tồn tại
của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển của sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn
biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và
phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành
mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự
thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của
sự vận động và phát triển.
+ Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Trong
sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác
động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa
lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật
cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và là khách quan trong bản thân sự vật
nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với
từng mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp với từng loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu
thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu
thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.
Câu 4, Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất, liên hệ học đi đôi với hành, giáo dục đào tạo
gắn liền với yêu cầu phát triển xã hội. Đổi mới cơ bản về giáo dục và đào tạo
1. Phạm trù thực tiễn
- Phạm trù thực tiễn trong triết học Mác - Lênin.
+ Định nghĩa. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
+ Tính chất của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động vật chất, có tính lịch sử - cụ thể; có tính xã hội; có tính tất yếu;
phong phú và đa dạng.
+ Các hình thức thực tiễn cơ bản. Để hiểu được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói chung, lý luận nói riêng,
cần phải thấy thực tiễn là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh,
là phương thức tồn tại của con người và xã hội loài người. Các hình thức thực tiễn cơ bản là hoạt động sản xuất vật
chất; hoạt động chính trị xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học và một số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động
giáo dục, nghệ thuật, y tế v.v, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quy định các hình thức và
lĩnh vực còn lại.
2. Phạm trù lý luận
- Định nghĩa. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những
quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
- Nguồn gốc của lý luận. Lý luận hình thành nhờ quá trình nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận do các thế
hệ trước để lại.
+ Nhận thức kinh nghiệm được hình thành nhờ quá trình quan sát những diễn biến xẩy ra của các sự vật, hiện
tượng. Nhận thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm thông thường, là tri thức có được nhờ hoạt động hàng
ngày giúp con người giải quyết những vấn đề đơn giản, cụ thể; còn tri thức kinh nghiệm khoa học là tri thức thu
được nhờ tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức thu được trong quá trình thực nghiệm khoa học, loại tri thức
này là tiên đề trực tiếp để hình thành lý luận khoa học.
+ Nhận thức lý luận được hình thành nhờ tri thức kinh nghiệm khoa học và lý luận do các thế hệ trước để lại.
- Các cấp độ lý luận. Lý luận ngành và lý luận triết học.
+ Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành; có vai trò là cơ sở lý
luận để sáng tạo, đông thời là phương pháp luận của ngành đó (lý luận văn học, nghệ thuật v.v).
+ Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế
giới ấy, đồng thời là thế giới quan và phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Các chức năng cơ bản của lý luận. Chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận cho
hoạt động thực tiễn.
+ Chức năng phản ánh hiện thực khách quan của lý luận thể hiện qua những quy luật chung nhất.
+ Chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn (xem phương pháp luận).
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển phải
xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở của lý luận.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế
giới.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác quan và bộ não của con người không
ngừng được hoàn thiện và phát triển, tạo ra năng lực tư duy trừu tượng ngày càng cao.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thông qua lao động, thực tiễn trang bị cho con người công cụ, phương
tiện nhận thức ngày càng tinh vi hơn, giúp con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng, mở
rộng tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
- Thực tiễn là động lực của lý luận.
+ Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con người hoàn thiện mình và hoàn thiện các mối quan hệ với tự nhiên, với
xã hội.
+ Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý luận, làm lý luận phản ánh hiện thực ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
+ Nhờ vậy, thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
- Thực tiễn là mục đích của lý luận.
Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người và mục đích đó chỉ được thực
hiện thông qua hoạt động thực tiễn tạo vai trò đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của lý luận.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
+ Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan mà nó phản ánh và đã được
thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận phải được thực tiễn chứng minh.
+ Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn cũng vận động, phát triển và chuyển hoá.
Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong những giai đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ
có những lý luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính toàn vẹn của nó mới đạt đến chân lý.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ
sung và phát triển trong thực tiễn
- Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định hướng mục đích; xác định lực lượng,
phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích.
+ Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu tồn tại và thông qua đó, khái quát
thành lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng chuyển sang tự
giác.
+ Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích.
- Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong quá trình hoạt động, bởi vậy lý luận
không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt
động của con người.
- Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo
tự nhiên, xã hội.
- Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ sung, phát triển trong
thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC
TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn; khái quát được những kinh
nghiệm của thực tiễn
- Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi nên nhận thức phải bám sát để phản ánh quá trình đó; so sánh, đối
chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận.
- Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của nhân loại; tổng kết được thực tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ
thể
- Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
- Lý luận phản ánh thực tiễn trong dạng quy luật nên lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn.
- Bệnh kinh nghiệm, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh kinh nghiệm xuất hiện do tuyệt đối hoá những
kinh nghiệm đã có và áp dụng chúng vào hiện tại mặc đù điều kiện đã thay đổi. Muốn khắc phục bệnh này, cần
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn bám sát thực tiễn, nâng cao trình độ lý luận; bổ
sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.
- Bệnh giáo điều, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh giáo điều xuất hiện do nắm lý luận còn nông cạn,
tuyệt đối hoá lý luận, vận dụng máy móc những kiến thức đã có trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn khắc
phục bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn gắn lý luận với thực tiễn, kiểm
tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận cùng với sự phát triển của thực tiễn./.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN: Kiên định mục tiêu CNXH, sáng tạo con đường đi lên CNXH
Nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng
ta lấy đổi mới tư duy lý luận làm khâu “đột phá” cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới của mình. Đổi mới trên cơ sở kế
thừa, kế thừa trên cơ sở đổi mới. Với ý nghĩa đó, đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý
luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối
đúng đắn đã được Đảng ta xác định và dân tộc ta, nhân dân ta lựa chọn. Trái lại, đổi mới tư duy chính là bổ sung và
phát triển những thành tựu lý luận đã đạt được, làm cho lý luận đó thâm nhập vào hoạt động thực tiễn của quần
chúng, dấy lên phong trào cách mạng to lớn, rộng khắp trong nhân dân. Về nguyên tắc, đổi mới không làm thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn.
Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta bao quát mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Do đó cần phải
có bước đi thích hợp, biết lựa chọn trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Vận dụng đặc trưng cơ bản đó của quan
điểm toàn diện, Đảng ta cho rằng, trong đổi mới tư duy thì “đổi mới tư duy kinh tế” được coi là khâu “đột phá”.
Đảng ta chủ trương cùng với việc “củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và
khu vực tập thể ” là việc “sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới
sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”
8
. Các “thành phần kinh tế khác” này, bao gồm: kinh tế tiểu sản
xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp
doanh; kinh tế tự nhiên, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng miền núi khác;
“Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển
nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”
9
.
Đảng ta chủ trương chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo
thị trường và giá cả được quản lý chặt chẽ, thực sự đã tạo ra một bước chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, góp
phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, đưa
nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng, đi vào ổn định và phát triển không ngừng.
Có thể nói, kể từ Đại hội lần thứ VI (12-1986) cho đến nay, tư duy kinh tế của Đảng ta đã có sự đổi mới căn bản và
ngày càng phát triển hoàn thiện, đã và đang đi vào cuộc sống và “đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi
mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển”
10
.
Cùng với đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà
nước - đổi mới tư duy chính trị. Bộ máy nhà nước của ta thời kỳ này nhìn chung cồng kềnh, kém hiệu quả. Cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc. Nhiều tổ chức trùng lắp, chồng
chéo. Phong cách làm việc nặng về hình thức, giấy tờ, hội họp nhiều mà quyết định công việc thì chậm, v.v Đứng
trước thực trạng đó, đòi hỏi Đảng ta phải “tự đổi mới, tự chỉnh đốn mình” để ngang tầm với những nhiệm vụ của
giai đoạn mới. Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Kiện toàn và đổi mới hoạt
động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Về phía Nhà nước, chức năng cơ bản là phải thể
chế hóa bằng pháp luật những quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo
pháp luật và bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý; theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ.
Một trong những biểu hiện của đổi mới tư duy chính trị chính là việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước. Nếu trước đây Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách trực tiếp, đem chỉ thị, nghị quyết của Đảng thay
cho pháp luật của Nhà nước, v.v. thì giờ đây “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết;
lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà
nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện”
12
. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện,
làm thay Nhà nước; trái lại phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong việc quản lý đất nước,
quản lý xã hội. Đây là một bước tiến hết sức quan trọng trong nhận thức, trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Thời kỳ trước đổi mới, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” chưa được sử dụng. Nhưng xét theo những giá trị, nội
dung khoa học của nhà nước pháp quyền trên một mức độ nào đó đã được thể hiện.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật Pháp luật là thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước”
13
. Đây là một
bước tiến quan trọng trong đổi mới nhận thức, quan niệm của Đảng ta về nhiệm vụ, vai trò quản lý kinh tế - xã hội
của Nhà nước.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền Việt
Nam” chính thức được đưa vào văn kiện. Từ đó đến nay, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” hay “Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã được sử dụng một cách rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Tại Đại hội X (4-2006), Đảng ta khẳng định: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền”
14
.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở đổi mới căn bản nhà nước hiện có.
Trước hết là đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước. Biểu hiện của sự đổi
mới ấy là việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng
các thiết chế, cơ chế bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội. Đường lối của Đảng phải là định hướng chính trị và nội dung hoạt động của nhà nước và
được thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp và pháp luật, thành các chương trình hành động của Nhà nước.
Đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Thể hiện sự phát triển về trí tuệ và tầm tư duy lý luận của Đảng ta và phù hợp với tiến bộ xã hội trong thời
đại ngày nay.
Các đặc trưng của CNXH: XHXHCN mà nhân dân ta xd là 1 XH: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền ktế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp; có
nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới.
Các phương hướng đi lên CNXH:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển ktế tri thức, bvệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền ktế thị trường định hướng XHCN
Ba là, xd nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xd con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng XH
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn XH
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế
Sáu là, xd nên dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất
Bảy là, xd Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Tám là, xd Đảng trong sạch, vững mạnh
Câu 5, Lý luận và thực tiễn: Chứng minh lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý
luận là thực tiễn mù quáng
Lý thuyết xem câu 4
Liên hệ thực tiễn:
- Chỉ đạo thực tiễn bằng khoa học chứ không phải bằng kinh nghiệm
- Thời đại toàn cầu hóa hiện nay, chỉ đạo thực tiễn phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam trở về trước, Việt Nam chủ trương
xây dựng chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996), Việt
Nam không nói “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” nữa, mà nói tới “bỏ qua chế độ tư bản”. Nhưng, “bỏ qua chế độ
tư bản” là bỏ qua cái gì, bỏ qua như thế nào thì trong Văn kiện các Đại hội VII và VIII đều không giải thích. Vấn đề
này đã được giải quyết tại Đại hội IX. Văn kiện Đại hội IX không nói “bỏ qua chế độ tư bản”, mà nói “bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa” với nội dung cụ thể như sau: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(5). Như vậy, con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam là con đường phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư
bản, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất; đồng thời chấp nhận sự tồn tại và
phát triển của các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa ở mức độ nhất định, nhưng không cho
phép chúng trở thành các quan hệ thống trị. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa dứt khoát phải trải qua một giai đoạn đặc biệt, lâu dài với nhiều chặng đường có tính chất quá độ mà nội dung
của giai đoạn này khác hẳn nội dung của giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Chặng đường đầu tiên mà Việt Nam đang trải qua hiện nay là một giai đoạn lịch sử đặc thù của các nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đây là sự bổ sung, phát triển rất quan trọng
vào cơ sở lý luận của đường lối đổi mới của Việt Nam, đồng thời cũng chứng tỏ Việt Nam dứt khoát từ bỏ con
đường quá độ trực tiếp để chuyển sang thực hiện sự quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 6, Lý luận và thực tiễn: luận chứng học đi đôi với hành, giáo dục đào tạo gắn với KTXH
Lý thuyết câu 4
Liên hệ thực tiễn: học phải đi đôi với hành, giáo dục phải gắn với KTXH
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người vạch đường, chỉ lối, người tổ chức,
lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thầy giáo với ý nghĩa đã trực tiếp
giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng nên bao thế hệ cán bộ của cách mạng Việt Nam.
Mục đích giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc dạy tri thức nâng cao trình độ học vấn,
mà hơn thế giáo dục nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện về nhân cách, vừa đủ đức, đủ tài. Vì vậy,
trong quá trình giáo dục, Bác đặc biệt quan tâm đến phương pháp giáo dục, giáo dục phải làm sao cho khoa học,
phong phú, đa dạng và mẫu mực.
Bác luôn luôn căn dặn: “Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm vội cũng không
được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba mới đến bước thứ ba.
Vội thì ngã. Phải làm có kế hoạch, có từng bước” . Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, theo Người, là phải học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta. Học để mà làm. Học phải đi đôi
với hành. Học để làm việc làm người, làm cán bộ, học để phục vụ đoàn thể, Tổ quốc và nhân dân.
Như vậy, con đường ngắn nhất để khắc phục bệnh kinh viện, sách vở trong công tác giảng dạy là đưa lý luận vào
cuộc sống. Gắn lý luận và với thực tiễn, rồi từ thực tiễn sinh động để củng cố, bổ sung, hoàn thiện những nhận thức
những lý luận mới để có thể nhận thức đúng đắn. Đó chính là vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình giảng dạy hiện nay.
Phương pháp giáo dục được sử dụng trong giảng dạy phải dựa vào nhu cầu của người học. Giáo dục phải căn cứ
vào “trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình
thiết thực của quần chúng" . Trong giáo dục, phải tạo được môi trường dân chủ, thẳng thắn và đối thoại. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không
được nói gàn, nói vòng quanh. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng
hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. Từ đó Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người
khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo
dục nào. Người viết “giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội
thì kết quả cũng không hoàn toàn” .
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Phương pháp nêu gương
là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy “mình phải làm gương,
gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt tinh thần, vật
chất và văn hoá" . Nêu gương là một phương pháp giáo dục quan trọng. Người dạy: những gương người tốt, việc
tốt muôn hình, muôn vẻ, là vật liệu quý để xây dựng con người, lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất.
Suốt mấy thập kỷ qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng
luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII : "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại
vào quá trình dạy học, bảo đảm thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh ” .
Trong giai đoạn hiện nay, chủ trương giáo dục là "quốc sách hàng đầu" thì việc đổi mới phương pháp giáo dục cần
tránh xu hướng "theo phong trào" mà phải lấy người học làm trung tâm của quá trình dạy học. Muốn vậy, cả người
dạy và người học phải tuân thủ quy trình liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, đó là:
Thứ nhất, phải liên hệ lý luận với thực tiễn công tác tư tưởng của mình, để cải tạo mình, nâng cao sự tu dưỡng của
mình.
Thứ hai, đem lý luận học được "phân tích các kinh nghiệm công tác đã qua" và "tìm nguyên nhân của những
thành công và thất bại".
Thứ ba, liên hệ những vấn đề từ thực tế để thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng cho phù hợp và phương pháp
giải quyết các vấn đề đó như thế nào cho đúng. Và thông qua những việc làm đó sẽ "giúp cho việc củng cố lập
trường, nâng cao quan điểm và phương pháp của mình".
Hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, là một giảng viên ở trường chính
trị Lê Duẩn, tôi luôn nhận thức rằng: để nâng cao chất lượng giảng dạy cần phải quán triệt học tập và vận dụng
phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh. Đó là học phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh thể hiện ngay trong cách
nói, cách viết của Người, nói hay viết luôn phải ngắn gọn, giản dị, rõ ràng, sinh động và hấp dẫn, phù hợp với mọi
đối tượng để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ và làm theo. Để đạt được điều đó, trong phương pháp giảng dạy cần phải
nắm bắt đối tượng người học về: dân tộc, lứa tuổi, chức vụ, trình độ, giới tính "đi nói chuyện ở đâu, phải hiểu
trình độ dân nơi ấy" trong giáo dục phải "nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng chỗ" và phải có phương pháp thích hợp
với từng đối tượng. Phải luôn thấm nhuần nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, lý luận có vai trò hết sức to lớn
với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ cho chúng ta trong công việc thực tế. không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi". Bởi vậy, cùng với công tác giảng dạy thì việc đi ngiên cứu thực tế cơ sở là một việc làm
thiết thực và quan trọng đối với người giảng viên. Nó giúp cho giảng viên khẳng định được rằng, những kiến thức
truyền đạt của mình đã được kiểm chứng. Cần phải tạo ra các động lực để người giảng viên tự học, nâng cao trình
độ, trau dồi chuyên môn. Một khi không còn động lực phấn đấu, giảng viên sẽ rơi vào thụ động, truyền thụ một
chiều, rập khuôn vào cái cũ "sáo mòn", chất lượng bài giảng sẽ không cao. Vì vậy, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh
không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo nền giáo
dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn về
giáo dục hết sức quý báu, sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục hiện nay.
Giảng dạy trong nhà trường cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Trong giảng dạy triết học, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được giảng viên trình bày một cách thống nhất, làm
sao để lý luận triết học thường xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự
biến đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất nhanh chóng trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục cũng đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ.
Những thay đổi trong đời sống thực tiễn phải được giảng viên kịp thời nắm bắt và đưa vào trong nội dung bài giảng
của mình. Chúng ta không được coi lý luận triết học như một cái gì xong xuôi, cứng nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo
và luôn được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Tuy nhiên, các kết luận nghiên cứu triết học không phải là những lời giải đáp trực tiếp cho từng vấn đề cụ thể vô
cùng phong phú, đang dạng mà là cơ sở có giá trị định hướng về mặt phương pháp luận. Do đó, trong quá trình
giảng dạy, cần phân tích làm cho người học nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của các vấn đề
cần truyền đạt, từ đó họ có thể lý giải được những vấn đề thực tiễn.
Khi trình bày các nguyên lý, phạm trù, quy luật, cần lấy những ví dụ minh họa mang tính thực tiễn, thường xuyên
liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, không nên trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận; vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật để luận giải các vấn đề thực tiễn. Giảng dạy triết học là làm cho sinh viên hiểu được, nắm được cơ sở
lý luận, khía cạnh phương pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời sống, từ đó có
thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Đối với sinh viên sư phạm, cần chú trọng liên hệ, đối chiếu lý luận triết học với thực tiễn giáo dục, với quá trình đổi
mới giáo dục - đào tạo ở nước ta. Trong giảng dạy triết học, cần định hướng cho sinh viên vận dụng phương pháp
luận biện chứng duy vật để luận giải mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục. Chẳng hạn, trên cơ sở trình bày
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên cần chỉ ra quan điểm giáo dục toàn diện (nội dung giáo dục phải bảo
đảm tính toàn diện); trên cơ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cần làm sảng tỏ nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội, v.v Nội dung tự học, tự nghiên cứu, thảo luận nhằm vào mục đích rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức triết
học vào nghiên cứu các khoa học chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn. Có như vậy, giảng dạy triết học
mới trở nên thiết thực, bổ ích đối với sinh viên; trang bị cho họ lý luận và phương pháp luận biện chứng duy vật để
phân tích các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục.
Câu 7, Các hình thái KTXH phát triển theo quá trình lịch sử tự nhiên => Chứng minh lựa chọn CNXH là
hợp quy luật và hợp lòng dân
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác
động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành,
phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất là “quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác”(1). Quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội
Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển
trên cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành
và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ
xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ
sản xuất.
4.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các
quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"(1).
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các
quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội
khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ
thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát
triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi
sẽ làm cho kiến trúcthượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan. V.I. Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên"(2).
Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều
kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v Chính vì vậy, lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình.
Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ
qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch
sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần
tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất
định.
4.3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Đó là:
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho
nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời
sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động,
các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản,
quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy,
muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ
lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về
đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa
học.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. V.I. Lênin viết: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển
không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối
hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách
khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy
luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"(1).
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển
hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để
nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó "không bao giờ có tham vọng giải
thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử"(2).
Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ, có những quan điểm đi đến phủ nhận học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đòi phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch
sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn
minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ
khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nó
không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ
thấp đến cao.
Vận dụng
- Tự nhiên phát triển theo quy luật => XH loài người cũng theo quy luật nhưng có tính xu hướng
- Tự nhiên phát triển từ thấp đến cao => Các hình thái xã hội loài người cũng từ thấp đến cao: thấp không thay đc
cao nhưng cao kế thừa và phát huy hạt nhân của thấp.
- Tự nhiên phát triển liên tục vừa gián đoạn => Các hình thái KTXh cũng vậy, LLSX phát triển kéo theo QHSX
phát triển.
- Nhân loại không có quyền lựa chọn XH nhưng mỗi một quốc gia một dân tộc lại có quyền lựa chọn XH trong sự
phát triển của mình khi biết căn cứ vào trình độ trưởng thành của nhân loại
- Nhân tố chủ quan, khách quan => VN phải có Đảng lãnh đạo => hợp lòng dân ?
- Lý luận hình thái KTXH => chứng minh CNXH hợp quy luật?
Vận dụng vào Việt Nam:
Đảng ta vận dụng học thuyết hình thái KTXH để xây dựng hình thái hình thái KTXH nước ta như sau:
- Xây dựng nền kinh tế SX hàng hoá nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
- Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động là người chủ xã hội, bảo vệ quyền dân chủ của
mọi thành viên trong XH.
- Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới của văn minh nhân loại.
- Tạo môi trường hoạt động tự do sáng tạo cho mọi cá nhân và đơn vị. Khai thác triệt để yếu tố con người vì con
người, chú ý đến nguồn lực con người.
Như vậy xây dựng hình thái KTXHCN ở nước ta trong thời kỳ quá độ là phát triển lực lượng SX và xây dựng
QHSX mới theo định hướng XHCN, xây dựng một hệ thống chính trị bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao
động hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người, vì con người. Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước cộng hoà XHCNVN, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. lấy liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức XHCN làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
Những nguyên tắc, phương pháp luận nói trên là tổng hợp những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng mô hình XHCN
ở nước ta, trong đó cần chú trọng cả 3 mặt: LLSX, QHSX KTTT những bộ phận cấu thành của hình thái KTXH.
5.1 Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích xã hội tư
bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế -
xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Khi đó, chủ nghĩa xã hội được xây
dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ
nhận chủ nghĩa xã hội.
Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, chứ không phải bác bỏ
chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp cho chúng ta
nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp thế
kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp
với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh
vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ"(1).
5.2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"(2).
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác
nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa. Ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất
đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc"([1]).
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển
chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: "Mục đích
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối"(2).
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
"Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường
để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động của toàn thể nhân dân"([2]).
5.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái
thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và
công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5.4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó
vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã
hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được Đảng ta
vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ ra: "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010
nhằm: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao"(1).
Câu 8, Từ LLSX & QHSX chứng minh ktế nhiều thành phần theo định hướng XHCN
I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1 PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị, văn hóa và xã
hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngưòi từ thấp
đến cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là LLSX, mặt khác
là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ
nhất định với QHSX tương ứng.
1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX
biểu hiện quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất, con người phải chinh
phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình.
LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
* TLSX : bao gồm :
+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến
cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lươngj
tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là con người, với những
kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công nghệ
hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể hiện qua 3 mặt :
Quan hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức
quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả
những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những TLSX chủ
yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật về sự phù
hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của
QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX tác động trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng chung
của SX là không nhừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của
LLSX, trước hết là CCLĐ.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng của người
lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của LLSX gắn với tính chất của LLSX. Tính
chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì LLSX có tính chất cá nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí hiện
đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt
nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo
ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản
xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự phát triển của
LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự phù hợp đólà động
lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.
QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở ra điều kiện
thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng LLSX luôn luôn phát triển còn
QHSX có xu hướng tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp nữa,
trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát
triển khách đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình
độ mới của LLSX, mở đường cho LLSX phát triển. Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng QHSX mới cũng có nghĩa
là sự diệt vong của một PTSX lỗi thời và sự ra đời của PTSX mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn
giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của
các cuộc cách mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại “Quy luật
QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù hợp với trình độ của LLSX lại trở thành động lực cơ bản
thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển. QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển
của LLSX. Song tác động kìm hãm đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng QH
cũng se phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động trở lại mạnh mẽ
với LLSX là vì nó qui định: Mục đích của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý xã hội, Phương thức phân phối
và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích việc
cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển. Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát triển
khi có một QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũnhg sẽ
kìm hãm sự phát triển của LLSX. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật
chung nhất của sự phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật này đã đưa xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác
nhau. Tuy nhiên không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước có thể bỏ
qua hợc một số các PTSX để tiến lên PTSX mới cao hơn.
Sự kết hợp giữa LLSX và QHSX phù hợp trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH Việt Nam
Mỗi hình thái KT – XH có một phương thức sản xuất riêng. Đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức SX vật chất là sự thống nhất biện chứng của LLSX và
QHSX.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ LLSX thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên
của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. LLSX là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động. Phương
tiện SX (đường xá, cầu cống, xe cộ, bến cảng, hệ thống kho chứa ) là yếu tố quan trọng của LLSX.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp. Nó vừa là ngành SX riêng, vừa thâm nhập vào
các yếu tố cấu thành LLSX, đem lại sự thay đổi về chất của LLSX. Các yếu tố cấu thành của LLSX tác động lẫn
nhau một cách khách quan làm cho LLSX trở thành yếu tố đồng nhất.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu SX,
quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ SX,
quan hệ sở hữu về tư liệu SX giữ vị trí quy định các quan hệ khác.
QHSX do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người.
QHSX mang tính ổn định tương đối trong bản chất XH và tính phong phú đa dạng trong hình thức biểu hiện.
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất vật chất. Phương thức SX vật chất là sự thống nhất biện
chứng của LLSX và QHSX. Tuy nhiên mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng và nó tồn tại
ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của con người. Trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng đó Nhà nước ta đã vận
dụng để chủ trương và định hướng cho phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta phù hợp với thực tiễn và các
định hướng tương lai.
Sự tồn tại các thành phần kinh tế hay cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được bắt nguồn từ: yêu cầu của QHSX phải
phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Khi LLSX phát triển với nhiều tính chất, trình độ khác nhau thì tất yếu
sẽ tồn tại nhiều QHSX khác nhau mà trước hết là tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, do
đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Ở nước ta, từ thời kỳ quá độ lên CNXH, trình độ của LLSX, sự phân công lao động XH, năng suất lao động thấp
và không đồng đều giữa các xí nghiệp, giữa các ngành, các vùng. Do vậy có nhiều cách thức kết hợp khác nhau
giữa tư liệu SX với sức lao động, nhiều quy mô, trình độ khác nhau dẫn đến nhiều thành phần kinh tế.
Mặt khác, để cải biến các thành phần kinh tế cũ, cải biến các QHSX cũ thành các QHSX mới đòi hỏi phải có
những điều kiện nhất định về vật chất, kỹ thuật, quản lý tương ứng với LLSX. Chúng ta xây dựng QHSX XHCN
tức là xây dựng các thành phần kinh tế phát triển mới mang đặc trưng của QHSX mới đó là thành phần kinh tế Nhà
nước và kinh tế tập thể.
Như vậy, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen là một đặc điểm
mang tính tất yếu của nền kinh tế nước ta.
Trước đây, do nhận thức đơn giản về mô hình XHCN và con đường đi lên XHCN cũng như nhận thức chưa đầy
đủ về quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX và một loạt các nguyên nhân khác, chúng ta
đã nôn nóng xoá bỏ các thành phần kinh tế cũ (kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân), thiết lập kinh tế quốc doanh
(kinh tế Nhà nước) và kinh tế tập thể tràn lan, không chú trọng đến hiệu quả đã rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, chúng ta cũng đã rơi vào sai lầm tuyệt đối hoá quyền sở
hữu đối với TLSX cho rằng công hữu về TLSX là xây dựng được XHCN không chú ý đến hai mặt còn lại của
QHSX do đó đã tạo ra mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã thấy được vai trò của cả
ba mặt trong QHSX tạo điều kiện cho SX nước ta tiến lên CNXH thông qua TBCN, xây dựng chế độ sở hữu xã hội
về TLSX. Chúng ta chấp nhận nhiều hình thức sở hữu về TLSX như một bộ phận kinh tế tự nhiên tạo điều kiện
thuận lợi cho SX phát triển. Tuy nhiên, không nên xây dựng QHSX quá xa so với tính chất và trình độ của LLSX.
Phải tạo nhiều hình thức kinh tế trung gian, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, chú trọng đến đời sống nhân dân, vận
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho LLSX phát triển. Trên cơ sở đó, từng bước hoàn
thiện quan hệ xã hội, hướng tới xây dựng thành công CNXH.
Từ khi đổi mới đến nay với nhận thức rõ hơn về các vấn đề trên với thực tiễn phát triển kinh tế nhiều thành phần
tại các nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX luôn luôn khẳng định: Phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là đường lối chiến lược lâu dài của nước ta. Cải thiện đời sống nhân
dân, tạo điều kiện thực hiện công bằng xã hội, cùng với mục đích đó là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội
tiếp tục xây dựng các tiền đề cho việc đẩy mạnh CNH – HĐH XHCN trong chặng đường tiếp theo.
Vận dụng quan hệ trên để phân tích chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Kinh tế nhiều thành phần của nước ta bao gồm: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể; Ktế Tư bản tư
nhân: Kinh tế TB nhà nước; Thành phần KT có vốn đầu tư nước ngoài.
Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần được khởi xướng từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc
lần thứ VI, cho đến nay Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ IX, trong Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội nước ta từ
năm 2001 đến 2005 Đảng ta tiếp tục coi trọng và là một chủ trương lớn trong chiến lược để đưa đất nước ta tiến vào
CNH-HĐH "Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các TPKT kinh doanh theo pháp
luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh".
Bài học nóng vội sẽ trả một giá rất đắt trong phát triển kinh tế của nước ta, khi chúng ta chưa tự đánh giá đúng
thực tiễn. Trong khi LLSX của đất nước ta vùa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội và nhất loạt xây
dựng QHSX một thành phần, dựa trên chế độ công hữu XHCN về TLSX. Nếu như vậy thì sự chênh lệch quá xa
giữa QHSX và LLSX.
Vậy chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn. Phát
triển kinh tế nhiều thành phần là bước đi đúng hướng và vững chắc và phù hợp với tình hình đất nước trên con
đường tiến lên CNXH.
"Mỗi năm tạo thêm hơn 1,2 triệu việc làm mới; Tỷ lệ hộ nghèo (theo TC nước ta) từ 30% giảm xuống còn 10%." Đó
là định hướng chiến lược phát triển KT-XH của nước ta trong thời gian tới mà ĐH Đảng IX đã đề ra. Nền kinh tế
nhiều thành phần đã phát huy triệt để nội lực hiện tại, khơi dậy tiềm năng của SX, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ
động của các chủ thể LĐ trong SXKD, thúc đẩy SX phát triển, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao
động, xoá đói giảm nghèo cho cộng đồng, đảm bảo chính trị xã hội, an ninh quốc phòng tạo tiền đề cho tiếp tục
phát triển kinh tế.
Nền kinh tế nhiều thành phần đã huy động được mọi nguồn lực, các tiềm năng về vốn, về cải tiến kỹ thuật, phát
huy sáng kiến sáng tạo trong nhân dân chúng ta. "làm giàu cho mình là làm giàu cho đất nước."
Tuy nhiên Nhà nước vẫn coi thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là thành phần chiến lược quan trọng và
đóng vai trò chủ đạo để chi phối và điều tiết kinh tế vĩ mô. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:
"Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để NN định hướng và điều
tiết Vĩ mô nền Ktế. Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng
cao hiệu quả các DN Nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn
hoặc cổ phần chi phối ở một số ngành hoặc lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng".
Nền kinh tế nhiều thành phần cũng tự nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích
của mình mà có hoạt động theo hướng TBCN. Thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất XHCN
nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường, làm ăn kém hiệu quả, nên ở đây diễn ra cuộc đấu tranh định hướng
gay gắt. Để thực hiện định hướng XHCN trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của kinh tế của Nhà nước giữ một vai trò hết sức quan trọng và quyết định.
Câu 9 CSHT & KTTT chứng minh cho đổi mới KTCT của Đảng
* CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
* KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo ,các thể chế xã hội
tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội… được hình thành trên một CSHT nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
- CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTT nấy):
+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu thuẫn trong
chính trị. Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính trị.
+ Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định.
+ CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho một KTTT mới
ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.
- Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối và vai trò
khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những xu hướng khác nhau.
+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm
suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.
+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng phát triển khách
quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2 hướng:
. Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, đảm bảo sự phát triển
bền vững cho CSHT.
. Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự tăng trưởng, gây bát ổn cho
đời sống xã hội
* Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CHXH ở nước ta hiện
nay: Đổi mới KTCT của Đảng
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản nguyên thủy tiến lên xã hội
chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất
trong quá trình tiến hóa này là chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
là 1 quá trình đấu tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang trong quá trình xây dựng nên là cái mới còn rất
non yếu, muốn xóa bỏ hết tàng dư của xã hội cũ - đại diện cho cái cũ rất khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên
con đường đi lên CNXH ở nước ta diễn ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý muốn chủ
quan của con người quyết định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày càng phát triển và ngược lại cái cũ
không hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quá trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta
phải xây dựng các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo ,các thể chếxã hội tương ứng
như Nhà nước, đảng phái, giáo hội cho phù hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất mà Đảng đã đề ra để
góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình phát triển kinh kế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và
quán triệt quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
Trong quá trình đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chúng ta từng bước xây dựng CSHT của CNXH.
CSHT trong thời kỳ quá độ ở nước ta chính là một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên mối quan hệ sản xuất
trong đó QHSX trên cơ sở của quan hệ sở hữu công hữu là quan hệ sản xuất thống trị tự do đó kinh tế Nhà nước giữ