Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

chính sách xóa đói giảm nghèo huyện đại từ thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.67 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định đói nghèo như là một thứ giặc, cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm, nên đã
đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh phúc.
Cho tới bây giờ, ở nước ta, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tê xã hội bức
xúc. Xóa đói giảm nghèo toàn diện, bền vững luôm luôn được Đảng, Nhà nước ta
hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với
thực tiễn nước ta, công cuộc xoa đói giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể,
có ý nghĩa to lớn kể cả về kinh tế, chính trị, an ninh – quốc phòng, phát huy được
bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển
đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ
17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ
(bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ), đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với
1,1 triệu hộ. Theo đánh giá trong “ Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004” của
WB: “ Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện
thành công nhất trong phát triển kinh tế.
Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thực hiện có
hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo, cần có sự phối hợp đồng bộ của Chính
phủ Việt Nam và các cơ quan , đơn vị liên quan. Trong đó không thể không kể đến
tỉnh Thái Nguyên. Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai
đoạn 2001-2005 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
2803/QĐ-UB ngày 20/9/2002. Chương trình đã được triển khai đồng bộ ở tất cả
các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội. Huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên là một
đơn vị tiên phong trong phong trào xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Trong khuôn khổ
bài thảo luận này, nhóm em xin trình bày về “Chính sách xóa đói giảm nghèo ở
huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên”.
Chương 1: Sự Cần Thiết Phải Xóa Đói Giảm Nghèo.


1. Khái niệm.
Khái niệm nghèo, đói.
Theo quan niệm quốc tế.
Trong Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan, 1993 định nghĩa:
“ Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
các nhu cầu cơ bản của con người mà các nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy
theo trình đọ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa
phương.”
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối
và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối đo lường số người có thu nhập dưới một ngưỡng nhất định
hoặc số hộ gia đình không có đủ tiền để chu cấp cho những hàng hóa và dịch vụ
thiết yếu nhất định.
Chuẩn nghèo tuyệt đối của thế giới do WB xác định là 1 USD và 2 USD
mỗi ngày mỗi người tính thao ngang giá sức mua (PPP) năm 1993:
- Ngưỡng 1 USD/ngày/người thường được sử dụng cho các
nước kém phát triển, chủ yếu là châu Phi.
- Ngưỡng 2 USD/ngày/người được dùng cho các nền kinh tế có
mức thu nhập trung bình như Đông Á và Mỹ Latinh.
Nghèo tương đối đo lường quy mô theo đó một hộ gia đình được coi là
nghèo nếu nguồn tài chính của họ thấp hơn một ngưỡng thu nhập được xác định là
chuẩn nghèo của xã hội.
Chuẩn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một
xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công
chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các
nước thành viên của Liên minh Châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít
hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Tuy nhiên chuẩn nghèo
tương đối theo cách đo như vậy trên thực tế phản ánh rất ít về mức sống của con
người do khi thu nhập đồng loạt tăng hoặc giảm thì tỷ lệ người nghèo vẫn không

đổi mặc dù thu nhập của họ có thay đổi. Vì vậy trong ngưỡng nghèo tương đối có
pha trộn cả vấn đề phân phối thu nhập . Vì trên thực tế không có sự phân định rõ
ràng giữa nghèo và giàu nên ngưỡng nguy cơ nghèo cũng hay được dùng thay cho
ngưỡng nghèo tương đối.
1.1.2 Theo quan niệm đói nghèo của Việt Nam.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một phần
các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối
thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện.
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam nhằm giải
quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn đề
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất.
Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình phát
triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể chế
kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói giảm nghèo.
Một số khái niệm liên quan.
Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới
ngưỡng đói nghèo.
Theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ
trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005
được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như
sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/ tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu
trên được xác nhận là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có thể nâng

chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả
nước.
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách
đói nghèo theo chuẩn nâng lên.
Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002
của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã
nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có:
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
+ Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm
đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể
là:
Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch.
Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
 Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô
không đi lại được cả năm.
 Số phòng học( Theo quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo) chỉ đáp ứng được dưới 70% nhu cầu của học sinh
hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá.
 Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
 Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình thực
hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập đã ở
trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái niệm
hộ thoát(hoặc vượt) đói và họ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương nhiên không
còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói có thể đồng thời thoát
hẳn nghèo(ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường hợp thoát đói(rất nghèo)
nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo.
Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiếu số giữa

tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác
với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu
kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm
đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo, chưa
phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình.
Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt nghèo
nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của khái niệm
này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp xoá đói giảm
nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do gặp thiên tai bất khả
kháng.
Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu kì
không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như vậy, hộ
mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ nghèo chuyển
tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì một lý do nào đó lại
trở thành hộ nghèo hoặc hộ tái nghèo.
Phương pháp đánh giá nghèo đói.
Phương pháp của ngân hàng thế giới WB:
Ngưỡng nghèo thường dùng là 1 USD và 2 USD/ ngày. Đây là ngưỡng chi
tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người,
mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói
ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng
mà không đủ chi tiêu cho những hàng hóa phi lương thực.
Phương pháp của Việt Nam:
Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương pháp
của tổng cục thống kê): Phương pháp này xác định 2 ngưỡng nghèo
- Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ
lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng ( tương tự cách
tiếp cận của WB).
- Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo

chung” ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương
thực.
Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
Năm 1993 Năm 1998
Ngưỡng nghèo về lương
thực, thực phẩm
750 nghìn đồng 1.287 nghìn
đồng
Ngưỡng nghèo chung 1.116 nghìn đồng 1.788 nghìn
đồng
Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (phương pháp của Bộ Lao
động – Thương binh – Xã hội). Phương pháp này hiện đang được dùng để xác
định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia (chuẩn nghèo
quốc gia).
Giai đoạn 2001-2005
Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000
đ/người/tháng, hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân
100.000đồng/người/tháng, hay 1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng,
hay 1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Giai đoạn 2006-2010:
Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là:
Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.
Giai đoạn 2011-2015:
Khu vực nông thôn : thu nhập bình quân 400.000đồng/người/tháng, được

coi là nghèo
Khu vực thành thị: thu nhập bình quân 500.000đồng/người/tháng, được coi
là nghèo
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa phương về công tác xóa đói,
giảm nghèo.
Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích
vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh
phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn
gốc bất công xã hội.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn
đề công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa
đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội Đảng gần
đây, từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều văn bản
đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát
triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới tất cả
các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội. Công bằng xã hội
phải được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự phát triển sản
xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Công
bằng xã hội đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa
nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối
giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục,
văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc biệt,
công bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa

đói giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã
hội, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các
gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”.
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và
mặt yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: “Để
phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa
nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội,
nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích
làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo,
từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều
khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan
chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa ra
những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói,
giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp
quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo.
3.1 Yếu tố khách quan.
Vị trí địa lý không thuận lợi, ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, địa hình phức
tạp, không có đường giao thông. Do điều kiện địa lý như vậy, người dân dễ bị rơi
vào thế bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của
phát triển như tín dụng, khoa học kỹ thuật, công nghệ và thị trường,… làm cho
cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp, dẫn
đến đói nghèo.
Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít màu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng,

vật nuôi thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp, việc tích lũy và tái sản xuất
mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có, dẫn đến đói nghèo.
Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, bão, lũ
lụt, hạn hán, cháy rừng ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém cũng ảnh
hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình.
3.2 Yếu tố chủ quan.
Do cơ chế, chính sách các cấp.
Việc hoạch định ra những chính sách trên cơ sở chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh để áp dụng vào giải quyết thực tế đói nghèo của
huyện là không đơn giản. Đối với bất cứ một chính sách nào cũng có 2 mặt của nó.
Vì vậy, trong qua trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo, bản thân
những chính sách của huyện có tác động ngược lại. Tức là gây ra tình trạng nghèo
đói hơn, gây ra hoang mang cho người dân. Tuy nhiên đây cũng là thực tế hiếm
hoi và thời gian tác động tiêu cực là không dài. Nhiều năm qua huyện luôn nỗ lực
trong chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và đã đạt được rất nhiều thành
tích điển hình. Nhìn nhận từ thực tế cho ta thấy thực trạng đói nghèo ngày một
giảm và đi tới kiểm soát được.
Do bản thân người nghèo.
Đã có những dự án lớn, có những chương trình lớn nhằm đẩy lùi nạn nghèo
đói, tuy nhiên không phải chỉ có vậy là sẽ hết nghèo, hết đói. Bản thân người
nghèo đều có thể quyết định cuộc sống của họ. Tuy nhiên, trong thực tế do có tâm
lý chủ quan, trông chờ vào cấp trên từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại. Họ thiếu quyết tâm
thoát nghèo nên đói nghèo vẫn tồn tại trong cuộc sống của họ. Đói nghèo chỉ có
thể xoá được khi có sự nỗ lực từ chính bản thân người nghèo.
Trên đây chỉ là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vấn đề nghèo đói.
Thực tế cho thấy nạn nghèo đói không thể giải quyết trong thời gian ngắn, chính vì
vạy mà những yếu tố ảnh hưởng đến nó cũng sẽ thay đổi theo thực trạng nghèo đói
của từng nơi.

4. Thực tiễn công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam và một số địa
phương.
4.1 Thực tiễn công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Sau hơn 20 năm, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc được quốc
tế công nhận trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Từ năm 1993 đến năm 2004, tỷ lệ
nghèo của Việt Nam (tính theo chuẩn nghèo 1USD/ngày/người của WB) đã giảm
từ 50,8% năm 1990 xuống còn 10,6% năm 2004, giảm gần 4/5 trong vòng 14 năm.
Nếu so sánh với một số nước khác trình độ phát triển cao hơn thì thành tựu vượt
trội trong xóa đói giảm nghèo của Việt Nam càng rõ nét hơn. Tính toán dựa trên
báo cáo của WB năm 2003 cho thấy tỷ lệ nghèo theo ngưỡng 1 USD/ngày của
Việt Nam là 13,3%, trong khi đó của Trung Quốc là 16,1%, Ấn Độ 34,7%,
Philippin 14,6%. Tính theo ngưỡng nghèo 2 USD thì mức giảm nghèo của Việt
Nam có phần khiêm tốn hơn, nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng người dân Việt
Nam không còn nghèo cùng cực nữa. Tỷ lệ hộ thiếu đói giảm được gần 70%. Tính
trung bình kể từ khi đổi mới tới nay, mỗi năm Việt Nam giảm được 2% số hộ
nghèo đói.
4.2Thực tiễn công tác xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương.
Chương trình xóa đói giảm nghèo góp phần xây dựng nền tảng vững chắc
ổn định và phát triển kinh tế xã hội thành phố Hải Phòng: trong những năm qua
chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo đã được thành phố quan tâm,
tập trung chỉ đạo và xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội. thành phố đã tập trung nhiều giải pháp thục hiện các hoạt động hỗ
trợ nhằm đạt được mục tiêu giảm nghèo ( trong giai đoạn 2003-2005, đã huy động
được hơn 104,3 tỷ đồng cho chương trình xóa 6.593 nhà tranh vách đất, sửa chữa
2.103 nhà cho hộ nghèo và hộ cận nghèo). Chương trình xóa đói giảm nghèo của
thành phố đã đạt vượt mức kế hoạch đề ra, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, từ
11,65% năm 2001 xuống còn 3,03% năm 2005, giảm nhiều hơn 1,97% so với kế
hoạch , 32.342 hộ đã được trợ giúp thoát nghèo.
Thực hiện các mục tiêu giảm nghèo của tỉnh Thái Nguyên: đến cuối năm
2005 số hộ nghèo toàn tỉnh là 10.831 hộ, chiếm 4,68%( năm 2001 là 13,01%). Số

hộ thoát nghèo trong 5 năm từ 2001-2005 là 4.735 hộ( tương ứng 2,04%). Trong 5
năm này tỉnh đã giải quyết việc làm cho 60.000 lao động ( bình quân mỗi năm
12.000 lao động ), trong đó đã dưa 7.850 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 7,64%năm 2001 xuống còn
5,57% năm 2005.nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 12,3% năm 2001 lên
15% năm 2005. số hộ nghèo có nhà dột nát trong toàn tỉnh giảm mạnh, từ 14.199
nhà năm 2001 xuống còn 4.799 nhà năm 2005, đồng thời đã hỗ trợ và sửa chữa
làm mới được 9.216 nhà.
5. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo ở huyện Đại Từ -
Thái Nguyên.
Nhìn nhận thực tế những tổn thất mà nghèo đói gây ra đối với Việt nam nói
chung và địa phương nói riêng, chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng của
công tác Xoá đói giảm nghèo.Một quy luật tất yếu đó là khi vấn đề nghèo đói
được giải quyết thì đời sống của nhân dân nói riêng và nền kinh tế nói chung đều
tăng lên. Nếu như không còn nghèo đói thì xã hội sẽ bền vững phát triển.
Tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Đại Từ - Thái Nguyên nói riêng
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nạn đói nghèo làm cho đời sống nhân dân gặp
rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy khi người dân không có đủ điều kiện tối thiểu
cho cuộc sống thì đời sống hàng ngày của họ vô cùng khó khăn. Họ chỉ có một
mục đích duy nhất là duy trì cuộc sống ngoài ra không có mục đích nào khác. Như
vậy, họ không quan tâm đến đời sống kinh tế xã hội xung quanh thay đổi như thế
nào. Điều đó gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát của nền kinh tế địa phương nói
riêng và của huyện và tỉnh nói chung.
Nghèo đói không chỉ là vấn đề cấp bách cần giải quyết của địa phương nói
riêng mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của đất nước ta. Trong suốt những thập kỷ
qua, tình trạng nghèo đói kèo dài làm cho cuộc sống nhân dân gặp vô vàn khó
khăn. Nó gây ra những tệ nạn xã hội, những thách thức đối với toàn thể xã hội, nó
tác động xấu đến nhận thức của con người. Nhìn chung nó kìm hãm sự phát triển
của con người về mọi mặt. Từ đó nó làm cho nền kinh tế xã hội càng trở nên trì trệ
hơn. Chính vì vậy, Xoá đói giảm nghèo rất cần thiết và đòi hỏi phải duy trì trong

suốt thời gian dài, không thể ngày một ngày hai.
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận rằng công tác Xoá đói giảm
nghèo rất quan trọng và thực sự cần thiết. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
cũng như toàn bộ đời sống của nhân dân trong huyện phụ thuộc vào hiệu quả của
chương trình quốc gia Xoá đói giảm nghèo. Nhìn chung, trong những năm vừa qua
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều này càng làm cho vai trò
của Xoá đói giảm nghèo trong huyện quan trọng hơn về mọi mặt.
Chương 2: Thực Trạng Công Tác Xóa Đói Giảm Nghèo
Huyện Đại Từ - Thái Nguyên.
1. Đặc điểm của huyện Đại Từ - Thái Nguyên.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Vị trí địa lý : Đại từ là Huyện miền núi nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Thái
Nguyên, cách Thành Phố Thái Nguyên 25 Km, phía Bắc giáp huyện Định Hoá;
Phía nam giáp huyện Phổ Yên và Thành Phố Thái Nguyên; Phía đông giáp huyện
Phú Lương; Phía tây bắc và đông nam giáp tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ.
Huyện Đại Từ có nhiều đơn vị hành chính nhất tỉnh: 31 xã, thị trấn,
tổng diện tích đất tự nhiên toàn Huyện là 57.790 ha và 158.721 khẩu, có 8 dân tộc
anh em cùng chung sống: Kinh, tày, Nùng, Sán chay, Dao, Sán dìu, Hoa, Ngái
v.v ; Chiếm 16,58% về diện tích, 16,12% dân số cả tỉnh Thái Nguyên. Mật độ dân
số bình quân 274,65 người/km
2
.
Là Huyện có diện tích lúa và diện tích chè lớn nhất Tỉnh ( Lúa 12.500 ha,
chè trên 5.000 ha), Đại Từ còn là nơi có khu du lịch Hồ Núi Cốc được cả nước
biết đến, đồng thời cũng là Huyện có truyền thống cách mạng yêu nước: Có 169
điểm di tích lịch sử và danh thắng. Là đơn vị được Nhà nước hai lần phong tặng
danh hiệu anh hùng Lực lượng vũ trang.
Điều kiện về địa hình;
a) Về đồi núi: Do vị trí địa lý của Huyện, Đại Từ được bao bọc xung quanh
bởi dãy núi:

- Phía Tây và Tây Nam có dãy núi Tam đảo ngăn cách giữa Huyện và tỉnh
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, độ cao từ 300 - 600m .
- Phía Bắc có dãy Núi Hồng và Núi Chúa.
- Phía đông là dãy núi Pháo cao bình quân 150 - 300 m.
- Phía Nam là dãy núi Thằn Lằn thấp dần từ bắc xuống nam.
b) Sông ngòi thuỷ văn:
- Sông ngòi: Hệ thống sông Công chảy từ Định Hoá xuống theo hướng Bắc
Nam với chiều dài chạy qua huyện Đại Từ khoảng 2km. Hệ thống các suối, khe
như suối La Bằng, Quân Chu, Cát Nê v.v cũng là nguồn nước quan trong cho
đời sống và trong sản xuất của Huyện.
- Hồ đập: Hồ núi Cốc lớn nhất Tỉnh với diện tích mặt nước 769 ha, vừa là
địa điểm du lịch nổi tiếng, vừa là nơi cung cấp nước cho các Huyện Phổ Yên, Phú
Bình, Sông Công, Thành phố Thái Nguyên và một phần cho tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra còn có các hồ: Phượng Hoàng, Đoàn Uỷ, Vai Miếu, Đập Minh Tiến, Phú
Xuyên, Na Mao, Lục Ba, Đức Lương với dung lượng nước tưới bình quân từ 40 -
50 ha mỗi đập và từ 180 - 500 ha mỗi Hồ.
- Thuỷ văn: Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, đặc biệt là các dãy núi bao bọc
Đại Từ thường có lượng mưa lớn nhất Tỉnh, trung bình lượng mưa hàng năm từ
1.800mm - 2.000mm rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp của
Huyện ( đặc biệt là cây chè).
Với đặc điểm địa hình, địa mạo như trên làm cho việc canh tác, giao thông
đi lại có những khó khăn, phức tạp. Song chính sự phức tạp đó lại tạo ra đa dạng,
phong phú về chủng loại đất và điều kiện khí hậu khác nhau.
Điều kiện khí hậu, thời tiết:
Ở Đại Từ, do mưa nhiều khí hậu thường ẩm ướt độ ẩm trung bình từ 70 -
80% , nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 - 27
0
( là miền nhiệt độ phù hợp cho
nhiều loại cây trồng phát triển). Nhìn chung, điều kiện khí hậu - thuỷ văn của
huyện tương đối thuận lợi về các mặt để có thể phát triển một hệ sinh thái đa dạng

và bền vững, thuận lợi cho phát triển các ngành nông, lâm nghiệp nói chung.
Đất đai thổ nhưỡng: Tổng diện tích tự nhiên 57.848 ha. Trong đó: đất nông
nghiệp chiếm 28,3%, đất Lâm nghiệp chiếm 48,43%; Đất chuyên dùng 10,7%; Đất
thổ cư 3,4%. Tổng diện tích hiện đang sử dụng vào các mục đích là 93,8%, còn lại
6,2% diện tích tự nhiên chưa sử dụng.
Tài nguyên khoáng sản: Đại Từ được thiên nhiên ưu đãi phân bổ trên địa
bàn nhiều tài nguyên khoáng sản nhất Tỉnh, 15/31 xã, thị trấn có mỏ và điểm
quặng. Được chia ra làm 4 nhóm quặng chủ yếu sau:
- Nhóm khoáng sản là nguyên liệu cháy: Chủ yếu là than nằm ở 8 xã của
Huyện: Yên Lãng, Hà Thượng, Phục Linh, Na Mao, Minh Tiến, An Khánh, Cát
Nê. Có 3 mỏ lớn thuộc Trung ương quản lý và khai thác: Mỏ Núi Hồng, Khánh
Hoà, Bắc làng Cẩm. Sản lượng khai thác hàng năm từ 10 đến 20 nghìn tấn/ năm.
- Nhóm khoáng sản kim loại:
+ Nhóm kim loại màu: Chủ yếu là thiếc và Vônfram. Mỏ thiếc Hà Thượng
lớn nhất mới được khai thác từ năm 1988, có trữ lượng khoảng 13 nghìn tấn, mỏ
Vonfram ở khu vực đá liền có trữ lượng lớn khoảng 28 nghìn tấn. Ngoài các mỏ
chính trên quặng thiếc còn nằm rải rác ở 9 xã khác trong Huyện như: Yên Lãng,
Phú Xuyên, La Bằng, Hùng Sơn, tân Thái, Văn Yên, Phục Linh, Tân Linh, Cù
vân.
+ Nhóm kim loại đen: Chủ yếu là Titan, sắt nằm rải rác ở các điểm thuộc
các xã phía Bắc của Huyện như Khôi Kỳ, Phú Lạc trữ lượng không lớn lại phân
tán.
- Nhóm khoáng sản phi kim loại: pyrit, barit, nằm ở rải rác các xã trong
Huyện, trữ lượng nhỏ, phân tán.
- Khoáng sản và vật liệu xây dựng:
Đại Từ là vùng có mỏ đất sét lớn nhất tỉnh ở xã Phú Lạc, ngoài ra còn có
nguồn đá cát sỏi có thể khai thác quanh năm ở dọc theo các con sông Công, bãi
bồi của các dòng chảy phục vụ vật liệu xây dựng tại chỗ của Huyện.
Về du lịch: Khu du lịch Hồ Núi Cốc với câu chuyện huyền thoại về Nàng
công chàng Cốc đã thu hút khách du lịch trong nýớc và ngoài nýớc, nằm ở phía

Tây nam của Huyện, ðây cũng là ðiểm xuất phát ði thãm khu di tích trong Huyện
nhý: Núi Vãn, Núi Võ, khu rừng Quốc gia Tam Đảo, di tích lịch sử 27/7 v.v
Hiện đã hoàn thành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch sinh thái sườn
đông dãy Tam Đảo, hoàn thành quy hoạch chi tiết khu du lịch chùa Tây Trúc xã
Quân Chu, Cửa Tử xã Hoàng Nông, quy hoạch chi tiết khu di tích lịch sử Lưu
Nhân Chú. nhìn chung tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch ở Đại Từ đã và đang
được quan tâm phát triển, đây là tiềm năng lớn của Huyện cũng như của Tỉnh Thái
Nguyên
Đặc điểm về kinh tế xã hội huyện Đại Từ -Thái Nguyên.
Đặc điểm kinh tế.
- Tình hình kinh tế chung
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế đến 2010: Công nghiệp – xây dựng 35,45%; Dịch vụ 33,8%;
Nông nghiệp 30,76%. so với năm 2005, tỷ trọng công nghiệp tăng 3,47%, dịch vụ
tăng 3,55%, nông nghiệp giảm 6,93%.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm trên 13%. Trong đó: Dịch vụ tăng
14,16%, Công nghiệp – Xây dựng tăng 17,6%, Nông nghiệp tăng 4,43%.
- Kết cấu hạ tầng:
a, Hệ thống cung cấp điện: Huyện Đại Từ có mạng lưới điện Quốc gia kéo
đến 31 xã, thị trấn.
b- Giao thông: Đại Từ có mật độ đường giao thông khá cao so với các
Huyện trong Tỉnh. Tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn khoảng gần 600km.
Trong đó:
+ Đường Quốc lộ 37, chạy dài suốt Huyện, dài 32km, đã được dải nhựa.
+ Đường Tỉnh quản lý: Gồm 3 tuyến đường: Đán đi Hồ núi Cốc; Đại Từ đi
Phổ Yên; Khuôn Ngàn đi Minh Tiến -Định Hoá; Phú Lạc đi Đu- ôn Lương Phú
Lương.
Còn lại là các tuyến đường đá, cấp phối thuộc Huyện và xã quản lý, chủ
yếu là đường liên xã, liên thôn, xóm; Cả 31 xã, thị trấn đã có đường ô tô đến trung

tâm xã, Song do đặc điểm của Huyện miền núi, hệ thống giao thông còn gây ách
tắc về mùa mưa lũ, do vậy chưa đáp ứng cho sự phát triẻn và giao lưu hàng hoá
trên địa bàn.
- Tuyến đường sắt Quán triều - Núi Hồng dài 33,5 km là một thuận lợn lớn
trong việc phục vụ sản xuất và giao lưu hàng hoá (Chủ yếu là vận chuyển than)
Nhìn chung, hệ thống giao thông của Huyện tương đối thuận lợi, song về
chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu (Chủ yếu là đường đá cấp phối, đất), cần phải có
kế hoạch từng bước đầu tư nâng cấp hệ thống cầu, đường liên Huyện, liên xã, xóm
trong những năm tới.
c- Thông tin liên lạc: Toàn Huyện đã được phủ sóng truyền thanh, truyền
hình, 31/31 xã, thị trấn có điện thoại; Hệ thống giao thông thuận tiện là điều kiện
thuận lợi cho Bưu điện phục vụ các thông tin, báo trí đến các xã, xóm trong kịp
thời trong ngày.
- Thương mại và dịch vụ
Giá trị thương mại - dịch vụ (giá cố định) tăng bình quân 16,18%/năm
1.2.1 Đặc điểm xã hội.
- Dân số, tỷ lệ gia tăng dân số
Dân số toàn huyện khoảng 160.598 người (năm 2012). Mật độ dân số bình
quân khoảng 283 người/km². Các dân tộc chủ yếu tại địa bàn huyện là
Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu phân bố khá đồng đều trên toàn huyện.
Lao động và việc làm
Nguồn nhân lực: Dân số Đại Từ hiện có 158.721 nhân khẩu (Trong đó dân
số nông nghiệp chiếm 94%; Thành thị: 6%). Dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 56,5%.Lao động làm trong các Ngành nghề kinh tế chiếm 90,8% (Trong đó:
Nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 94,1%; Công nghiệp xây dựng chiếm 4,1%;
Dịch vụ chiếm 1,2%).
Giáo dục và đào tạo
Chất lượng, hiệu quả giáo dục tiếp tục được nâng lên. Việc xây dựng các
trường chuẩn quốc gia được triển khai tích cực, đã có 50% trường đạt chuẩn quốc
gia đạt mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đề ra. Đội ngũ

giáo viên từng bước được chuẩn hoá. Tỷ lệ huy động học sinh đến lớp ở bậc tiểu
học hàng năm đạt 100%, THCS đạt 99,9%. Tỷ lệ học sinh khá giỏi các cấp học
được tăng lên. Duy trì phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Công tác xã hội hoá giáo dục được quan tâm chú trọng, các hoạt
động khuyến học, khuyến tài diễn ra sôi nổi, nhận thức về vai trò của giáo dục
trong xã hội được nâng cao; huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư cho sự
nghiệp phát triển giáo dục- đào tạo.
Y tế
Mạng lưới y tế tiếp tục được quan tâm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
của nhân dân. Chương trình xây dựng chuẩn quốc gia về y tế xã được tích cực
triển khai thực hiện. Đến nay đã có 17 xã đạt chuẩn quốc gia y tế, dự kiến 2010 có
25/31 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế thấp hơn mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện lần thứ XXI đề ra; 77,5% các xã, thị trấn có bác sỹ công tác tại trạm vào
năm 2010, số bác sĩ /1vạn dân còn thấp: 1,9 (2005) lên 3 (2010). Thực hiện tốt các
chương trình y tế quốc gia, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống suy dinh
dưỡng trẻ em. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm từ 24% (2005) xuống
còn 18,5% (2010). Mức giảm tỷ suất sinh thô bình quân hàng năm là +0.474%o
(Tỷ suất sinh thô năm 2006 là 12,88%o đến năm 2010 là 15,25%o), không đạt
mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đề ra. Chế độ bảo hiểm y
tế được triển khai mở rộng tới nhiều đối tượng trong xã hội.
Công tác xóa đói giảm nghèo
Các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo được triển
khai tích cực. Đến nay, huyện không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 28,8%
(2006) xuống còn 15% (2010), đạt mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XXI đề ra. Giá trị gia tăng bình quân đầu người tăng từ 4,29 triệu đồng (2005)
lên 12,6 triệu đồng (2010). Hàng năm giải quyết việc làm mới bình quân cho
2.538 lao động, vượt mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đề
ra. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đã tăng từ 75,5% (2006) lên 86%
(2010). Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các gia đình chính sách, chăm
sóc người cao tuổi, trẻ em tàn tật được quan tâm thực hiện tốt.

2 Đánh giá thực trạng đói nghèo của huyện Đại Từ - Thái Nguyên.
2.1Thực trạng đói nghèo của huyện giai doạn 2011-2013.
2.1.1 Quy mô đói nghèo của huyện giai đoạn 2011-2013.
Đây là giai đoạn mà huyện phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Bên cạnh
những khó khăn do diễn biến phức tạp của thời tiết, dịch bệnh trên gia súc, chịu sự
ảnh hưởng chung của nền kinh tế trong nước như: sản xuất kinh doanh đình trệ,
suy giảm kinh tế, thu hút đầu tư và đầu tư công giảm, song được sự quan tâm của
các cấp ủy, chỉnh quyền huyện Đại Từ , sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trên
địa bàn huyện đã góp phần ổn định cuộc sống các hộ gia đình thuộc hộ nghèo và
từng bước vươn lên phát triển kinh tế để thoát nghèo bền vững.
Bảng tổng hợp hộ nghèo đói từ năm 2011-2013
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm
2011 2012 2013
Tổng số hộ Hộ 45.822 46.799 47.381
Số hộ nghèo Hộ 10.782 9.214 7.626
Tỷ lệ hộ
nghèo
% 23,53 19,69 16.1
Số hộ thoát
nghèo
Hộ 1.762 1713 1.746
Qua bảng trên ta thấy rằng, số hộ nghèo từ năm 2011 đến năm 2013 có xu
hướng giảm, đây cũng là xu hướng tất yếu của chương trình quốc gia xoá đói giảm
nghèo. Ngay như tất cả các nước trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng khi
bắt đầu thực hiện chính sách Xoá đói giảm nghèo thì số hộ nghèo qua các năm đều
giảm. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể phân tích tình hình nghèo đói của huyện qua
các năm dựa vào tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo trên cơ sở số hộ thoát nghèo. Năm 2011 tỷ
lệ hộ nghèo là 23,53% , đến năm 2013 là 16,1%. Song song với tỷ lệ hộ nghèo

giảm thì số hộ thoát nghèo cũng tăng đáng kể từ năm 2012 là 1713 hộ, năm 2013
là 1.746 hộ. Từ thực tế đó có thể khẳng định hiệu quả của công tác Xoá đói giảm
nghèo trong những năm qua. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền
vững, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng tỷ lệ tái nghèo vẫn cao, đặc biệt là
các xã khó khăn, những xã có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số; các chính sách hỗ
trợ cho hộ nghèo còn phân tán chưa tạo động lực cho hộ nghèo tự vươn lên; nguồn
đầu tư cho chương trình giảm nghèo còn hạn chế, chủ yếu là nguồn ngân sách
Trung ương; chính sách đầu tư để nâng cao thu nhập cho người nghèo chưa nhiều,
do vậy chưa tạo được động lực cho các hộ gia đình vươn lên thoát nghèo bền
vững. Mặt khác, nguồn vốn xóa đói giảm nghèo cho người nghèo chưa gắn kết
chặt chẽ giữa cho vay tín dụng ưu đãi với hoạt động khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến công; mức cho vay bình quân/hộ vẫn còn thấp, thời gian vay còn ngắn,
nhiều hộ nghèo có nhu cầu vay vốn nhưng chưa được vay do nợ quá hạn còn
nhiều. Một số xã, thị trấn chưa thực sự tập trung trong chỉ đạo, thiếu đôn đốc kiểm
tra, đánh giá; tổ chức điều hành chương trình đôi lúc còn lúng túng, chưa chủ
động, chưa cụ thể hóa các giải pháp phù hợp với điều kiện địa phương. Cụ thể như
sau:
Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thị trấn
S
TT
Tên xã, thị trấn Năm
Năm
2011
Năm
2012
Năm
2013
1 An Khánh 11,21 10,97 9
2 Cù Vân 8,92 8,66 7,55
3 Hà Thượng 6,3 5,79 4,49

4 Tân Thái 12,24 11,56 9,27
5 Hùng Sơn 10,46 8,47 7,72
6 Thị trấn Đại Từ 6,34 5,45 4,31
7 Phục Linh 15,28 11,4 8,91
8 Tân Linh 21,47 20,33 16,79
9 Khôi Kỳ 16,53 15,46 12,76
1
0
Mỹ Yên 20,5 20,23 15,66
1 Bình Thuận 10,36 9,52 7,83
1
1
2
Lục Ba 27,86 25,08 22,84
1
3
Văn Yên 20,13 17,31 10,94
1
4
Ký Phú 17,37 15,4 10,38
1
5
Vạn Thọ 27,54 26,87 22,43
1
6
Cát Nê 17,89 18,57 17,1
1
7
Xã Quân Chu 53,41 45,89 23,21
1

8
Thị trấn Quân Chu 15,24 11,15 8,65
1
9
Tiên Hội 13,27 10,38 8,65
2
0
Bản Ngoại 24,39 20,12 14,99
2
1
Phú Xuyên 33,18 29,74 22,59
2
2
Yên Lãng 15,1 14,6 12,56
2
3
Na Mao 48,54 46,41 42,21
2
4
Phú Cường 35,2 31,13 27,6
2
5
Minh Tiến 54,23 50,34 44,9
2
6
Phú Thịnh 35,19 33,12 30,71
2
7
Phú Lạc 24,12 23,29 19,54
2 Đức lương 51,47 49,54 45,45

8
2
9
Phúc Lương 55.43 51,14 43,78
3
0
La Bằng 4,64 4,03 3,68
3
1
Hoàng Nông 25,65 23,94 20,41
Cộng toàn huyện 23,53 19,69 16,1
Nhìn chung quy mô đói nghèo của các xã và thị trấn không đồng đều nhau.
Năm 2011 xã có số hộ nghèo cao nhất là xã Phúc Lương (55,43%) và xã có tỷ lệ
hộ nghèo thấp nhất là La Bằng (4,64%). Đên năm 2005 xã Phúc Lương vẫn chưa
thể thoát khỏi cảnh nghèo đói gay gắt và vẫn là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất
(43,78%). Ngoài những xã trên thì các xã khác vấn đề nghèo đói cũng diễn biến
khá phức tạp. Tuy nhiên để có một cách nhìn tổng thể ta chỉ xoay quanh những xã
trọng điểm. Có sự chênh lệch lớn về quy mô các hộ đói nghèo có thể kể đến một
trong các nguyên nhân sau: đó là điều kiện tự nhiên khác biệt nhau, các xã vùng
núi cao bao giờ cũng khó khăn hơn vì thực chất đời sống của người dân chủ yếu
dựa vào nông nghiệp; Các xã nghèo đại bộ phận dân cư mới di chuyển đến, chưa
quen vơí lối sống thuần nông, thuần tuý và còn có rất nhiều nguyên nhân khác.
Nhìn một cách tổng thể thì toàn huyện tỷ lệ hộ nghèo là tương đối cao. Kết quả
đem lại khá nhiều điều khả quan, tuy nhiên thực tế vẫn cho thấy huyện là một
trong những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, quy mô các hộ nghèo lớn.
2.1.2 Các chỉ tiêu về xã hội và xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2011-2013.
Trong giai đoạn 2011 đến 2013, toàn huyện có hơn 19.300 lượt hộ vay vốn,
với số tiền trên 290.000 triệu đồng, gồm các chương trình: Cho vay vốn hộ nghèo;
vay học sinh, sinh viên; vay xuất khẩu lao động; cho vay hộ dân tộc thiểu số đặc
biệt khó khăn. Đã tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn với 5.320 người, gồm

các nghề: Chăn nuôi, trồng trọt, bảo vệ thực vật, sửa chữa máy nông cụ, gò, hàn,
xây dựng, trong đó 1.860 người thuộc diện hộ nghèo, 2.128 người dân tộc thiểu
số, còn lại là các đối tượng khác.
Lao động và việc làm.
Chỉ tiêu Đ
ơn vị
tính
Năm
Năm
2011
Năm
2012
Năm
2013
Tổng số lao động đang
làm việc
N
gười
85.90
0
91.77
0
92.7
15
Số lao động được tạo
việc làm
N
gười
2.964 2.732 2.82
6

Số lao động đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng
N
gười
113 86 92
Tỷ lệ lao động được đào
tạo so với tổng số lao động
% 26,5 32 33
Ngoài ra huyên đã thực hiện cấp 196.812 thẻ bảo hiểm y tế cho các đối
tượng là hộ nghèo, cận nghèo. Việc chăm sóc sức khỏe cho đối tượng hộ nghèo
được thực hiện tại Bệnh viện đa khoa huyện, Trung tâm y tế huyện và Trạm y tế ở
các xã, thị trấn. Hàng năm phòng y tế phối hợp với hội chữ thập đỏ huyện, Trung
tâm y tế huyện tổ chức khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho các đối tượng
hộ nghèo ở các xã khó khăn trên địa bàn; chế độ chính sách đối với học sinh là con
hộ nghèo, người dân tộc thiểu số luôn được thực hiện nghiêm túc đầy đủ.
UBND huyện cũng thường xuyên chỉ đạo ngành giáo dục thực hiện nâng
cao chất lượng dạy và học, tăng cường công tác quản lý giáo dục, thực hiện tốt
chính sách đối với học sinh. Những chính sách hỗ trợ về giáo dục đã phần nào
giúp học sinh nghèo vươn lên học tập tốt. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững và các dự án thành phần được xây dựng rất phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Các chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở
hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất như: Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất
khẩu lao động, cho vay ưu đãi đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội và
giảm nghèo, làm thay đổi nhận thức, giúp người nghèo có việc làm, tạo thu nhập
ổn định để thoát nghèo. Bên cạnh đó, huyện Đại Từ đã phối hợp tốt chương trình
giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới, do vậy hiệu quả công tác
giảm nghèo được thay đổi rõ rệt.
3 Công tác thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
Để công tác giảm nghèo được bền vững, trong thời gian qua, Ban chỉ đạo
giảm nghèo của huyện thường xuyên chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện

nghiêm túc chương trình giảm nghèo, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong kế hoạch phát triểm kinh tế - xã hội hàng năm của huyện. Xây dựng kế
hoạch thực hiện các hoạt động triển khai Chương trình giảm nghèo cụ thể, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của cấp cơ sở, từ đó tìm ra giải pháp khả thi, đồng bộ
để thực hiện tốt công tác giảm nghèo. Nội dung chương trình tập trung hỗ trợ các
hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ xây dựng các mô hình
sản xuất có hiệu quả, tiên tiến; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư
3.1Chính sách giải quyết công ăn việc làm.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước
tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính
sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động
nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
Huyện đã tổ chức dạy nghề theo đề án 1956 cho 807 người, kết quả có việc
làm sau học nghề đạt trên 70%. Bằng các giải pháp cụ thể huyện Đại Từ đã giải
quyết việc làm mới cho 8.522 lao động trong các lĩnh vực, cho vay vốn giải quyết
việc làm; tuyển vào làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp; tuyển mới,
hợp đồng lao động tại các cơ quan, đơn vị, trường học, UBND các xã, thị trấn;

×